Trên sa mạc và trong rừng thẳm - Chương 39 – 40

Toàn bộ dân làng đưa tiễn khá xa Mdimu Tốt và rơi lệ từ biệt cô, cố nài nỉ cô lúc nào đó ghé thăm M’Rua và hãy nhớ tới lũ làng của ông. Xtas ngần ngừ một lúc, không hiểu có nên chỉ cho những người da đen cái khe núi, nơi chôn giấu những thứ hàng hóa và thức ăn dự trữ được thừa hưởng của ông Linđe hay không – những thứ mà vì thiếu người mang vác nên em đành phải bỏ lại. Nhưng nghĩ rằng việc sở hữu những kho báu như thế có thể làm bùng lên trong họ lòng hằn học và ganh ghét nhau, đánh thức sự tham lam và làm vẩn đụ c cuộc sống vốn đang thanh bình của họ nên em bỏ ý định ấy. Ngược lại, em bắn hạ một con trâu to và để thịt của nó lại cho họ làm bữa tiệc tiễn chân. Nhìn thấy một lượng thịt lớn như thế, họ rất vui sướng.

Trong ba ngày tiếp đó, cả đoàn lại đi qua vùng hoang mạc.

Ban ngày thì nóng nực, nhưng ban đêm lại lạnh – vì vùng này nằm ở độ cao lớn, đến nỗi Xtas phải bảo Mêa bọc Nen trong hai lần chăn. Giờ đây bọn trẻ thường phải vượt qua những khe núi, có khi chỉ là những khe núi trơ trụi đầy sỏi đá, nhưng đôi khi lại là những khe đầy cây cối, phải cố gắng lắm mới vượt qua nổi. Trên bờ những khe núi ấy, bọn trẻ thường nhìn thấy những con khỉ lớn, nhiều khi cả sư tử và báo, bọn này làm tổ trong các hang đá. Xtas bắn hạ một con báo theo yêu cầu của Cali, sau đó cậu bé da đen khoác ngay tấm da của nó vào người để dân da đen có thể biết ngay rằng họ đang được tiếp xúc với một người dòng dõi hoàng tộc.

Sau những khe núi đó, trên một bình nguyên nằm ở độ cao lớn, lại bắt đầu xuất hiện những cái làng của người da đen. Một số làng nằm cạnh nhau, một số cách nhau tới một hai ngày đường.

Tất cả các làng đều có hàng rào cọc gỗ bao bọc để chống lại sư tử, những hàng rào này được phủ đầy dây leo, đến nỗi nhìn xa trông chúng như cứ như một cụm rừng nguyên thủy vậy. Chỉ đến khi trông thấy khói bốc lên từ bên trong mới có thể biết được rằngtrong đó có người sinh sống. Ở mọi nơi, đoàn người được đón tiếp gần giống như ở làng của ông M’Rua, nghĩa là thoạt tiên có nhiều phần lo sợ và nghi ngờ, sau đó kinh ngạc và tôn kính. Chỉ có một lần xảy ra chuyện: khi vừa trông thấy con voi, con Xaba, ngựa và những người da trắng, cả làng bỏ chạy vào khu rừng cạnh đó, đến nỗi không còn ai để nói chuyện nữa. Tuy vậy không một ngọn giáo nào được sử dụng để chống lại đoàn. Vì người da đen trước khi đạo Hồi truyền cho họ lòng căm thù những người không theo đạo và sự tàn bạo, vốn là những người hiền lành và nhút nhát. Cho nên thường thường là Cali “ăn một miếng” của vị vua bản địa, vua bản địa “ăn một miếng” của Cali, rồi sau đó quan hệ hai bên vô cùng thân thiện. Khắp nơi người ta đều bày tỏ lòng thành kính và thần phục đối với Mdimu Tốt dưới dạng gà mái, trứng và mật ong thu được từ những cái kéo gỗ treo bằng nhữngsợi dây dừa trên những cành cây lớn. “Ông lớn”, chủ nhân của con voi, của sấm sét và của những con rắn lửa, thường gây nên sự sợ hãi, tuy nhiên sự sợ hãi đó nhanh chóng biế n thành lòng biết ơn, khi người ta hiểu được rằng tính hào phóng của Xtas sánh ngang với sức mạnh của em. Nơi có các làng ở gần nhau thì sự tới thăm của các vị khách khác thường này được người ta báo trước cho nhau bằng trống, vì người da đen biết cách truyền đạt tất cả mọi điều bằng cách gõ trống. Cũng có trường hợp toàn thể cư dân ra đón tiếp bọn trẻ và ngay từ đầu đã đối xử với chúng hết sức thân thiện.

Trong một làng có chừng nghìn đầu dân, vị thủ lĩnh của làng – vừa là vua vừa là phù thủy – đồng ý chỉ cho bọn trẻ xem “đại linh vật” – vật thờ cúng được giữ gìn, được tôn kính và sợ sệt vô cùng, đến nỗi dân chúng không dám tới gần cái khám thờ bằng gỗ mun, phủ da tê giác, mà chỉ dám đến dâng lễ vật ở cách đó khoảng năm mươi bước chân. Vua kể rằng vật thiêng này rơi xuống từ mặt trăng cách đây không lâu, nó có màu trắng và không có đuôi. Xtas tuyên bố rằng chính em, theo lệnh Mdimu Tốt đã phóng vật ấy lên trời. Nói như thế, em hoàn toàn không sai sự thật chút nào, vì hóa ra cái “linh vật” nọ chỉ là một trong những cái diều mà bọn trẻ đã thả từ núi Linđe. Xtas và Nen vui sướng nghĩ rằng, nếu gió thuận, những chiếc diều khác có thể còn bay xa hơn, và chúng quyết định tiếp tục thả diều từ trên cao nguyên này. Ngay buổi chiều hôm ấy, Xtas đã làm ngay một cái và thả lên trời, điều đó khiến cho dân da đen tin rằng Mdimu lẫn ông lớn da trắng là những vị thần từ mặt trăng xuống, và không thể chỉ kính trọng những vị thần ấy thôi là đủ.

Tuy nhiên, điều khiến Xtas vui sướng hơn những biểu hiện của sự tuân phục và thành kính ấy là tin tức cho biết hồ Baxxa Narốc chỉ ở cách đây chừng mười ngày đường. Những cư dân của cái làng mà hiện nay bọn trẻ đang dừng chân nói rằng, thỉnh thoảng họ còn đổi rượu vang làm bằng cây cọ đum để lấy muối do những người từ phía đó mang lại. Vua bản xứ cũng nghe nói tới vua Phumba, đó làthủ lĩnh của một dân tộc tên gọi là “Đôcô”, và Cali thừa nhận rằng những người láng giềng xa hơn nữa thường gọi người Vahima và người Namburu bằng tên gọi ấy. Tin tức ít đáng mừng hơn là tin cho biết trên bờ con nước lớn ấy đang có chiến tranh, và để tới được Baxxa Narốc, phải vượt qua những ngọn núi rất hoang vu, những khe núi rất dốc đầy dã thú. Song đối với các loài dã thú thì Xtas đâu có lo ngại gì, còn nói về núi hoang vu thì em còn thích hơn là những vùng đồng bằng trũng, vì nơi đó con ma sốt rét, thường xuyên rình rập nhữ ng nhà bộ hành trẻ tuổi này.

Thế là bọn trẻ vui vẻ tiếp tục lên đường. Sau cái làng đông đúc cư dân ấy, chúng chỉ còn gặp có một điểm dân cư nữa, nhưng rất nhỏ bé, giống như một cái tổ chim cheo leo trên bờ vực. Sau đó bắt đầu vùng đồi chân núi, thỉnh thoảng bị những cái khesâu cắt ngang. Về phía Đông nhô lên một dãy đỉnhnúi mờ mờ, trông từ xa như có màu đen thẫm. Đó là vùng đất lạ chưa một ai biết đến.

Trong khi hướng tới đó, bọn trẻ không thể lường được trước những gì chúng có thể gặp phải ở đó, trước khi tới được lãnh thổ của vua Phumba. Không thiếu cây cối trên những trảng trống mà chúng đi qua, nhưng trừ những cây bồng bồng và xiêm gai mọc đơn độc, tất cả các loài cây khác đều mọc thành khóm, tạo nên những lùm cây dầy đặc. Những người bộ hành thường dừng chân trong những lùm cây ấy để ăn uống nghỉ ngơi và lấy bóng mát của chúng.

Trong những lùm cây có vô số loài chim chóc. Rất nhiều loại bồ câu rừng, những con chim rõ to mà Xtas gọi là chim tucan, sả rừng, sáo sậu, chim cu đất và hằng hà sa số những con chim bengalix ríu ra ríu rít trong vòm lá, bay từ khóm cây này sang khóm cây khác, từng con một hoặc cả đàn, biến hóa như những chiếc cầu vồng. Nhìn từ xa, một số cây như đầy những bông hoa màu hồng vậy. Nen đặc biệt thích những con chim bắt ruồi thiên đường và những con chim màu đen to lớn, có điểm trên bộ lông những vệt màu hồng có tiếng hót nghe như tiếng sáo mục đồng.

Những con chim trảu tuyệt đẹp, trên lưng màu hồng, dưới bụng màu thanh thiên nhạt, quay lộn trong ánh sáng mặt trời, tóm gọn những con ong đang bay cùng những con châu chấu. Trên ngọn cây léo nhéo tiếng những chú vẹt xanh, đôi khi điểm thêm những tiếng kêu trong trẻo như chuông bạc, tiếng của những con chim nhỏ màu xanh xám, ẩn kín dưới lá cây ađauxôni đang chào hỏi nhau.

Trước bình minh và sau khi mặt trời lặn có hàng đàn chim sẻ của vùng này bay ngang qua, đông đến nỗi, giá như không có tiếng kêu và tiếng đập cánh của chúng thì có thể tưởng đó là những đám mây. Xtas đoán rằng chính những con chim mỏ trắng này kêu lên những tiếng như chuông bạc ấy, khi chúng đàn ra trong các lùm cây về ban ngày.

Nhưng bọn trẻ ngạc nhiên nhất khi trông thấy những con chim khác bay thành từng đoàn nhỏ, và hót hay như một dàn nhạc thực sự. Mỗi đàn gồm năm sáu con mái và một con trống có lông óng ánh như kim loại. Chúng thườ ng đậu trên những cây xiêm gai đơn độc, con trống đậu trên ngọn cây, những con mái đậu phía dưới – và sau những thanh âm đầu tiên dường như phát ra để lên dây lại cổ họng, con trống bắt đầu hót, còn những con mái im lặng lắng nghe. Khi con trống dứt tiếng hót, lũ chim mái liền họa theo câu cuối cùng trong khúc hót của con trống. Sau khi dừng nghỉ một lúc ngắn, con trống lại tiếp tục, rồi lại kết thúc để lũ chim mái hòa theo, cả đàn bay đi theo một đường bay lượn sóng sang cây xiêm gai khác gần đấy, và dàn nhạc gồm một lĩnh xướng và dàn đồng ca lại lặp lại trong sự tĩnh mịch ban chiều. Bọn trẻ nghe mãi không biết chán. Nen nhớ lại giai điệu của dàn nhạc ấy, và cùng với dàn đồng ca của những con chim mái, cô bé cất giọng thanh thanh của mình hát lên những thanh âm cuối cùng nghe như những tiếng lặp đi lặp lại rất nhanh: “Tui, tui, tui, tui, tuiling, ting, ting!” Một lần, mải lần theo những nhạ c sĩ có cánh, bọn trẻ đi từ cây nọ sang cây kia và bỏ cách xa trại tới khoảng một cây số, để lại trại ba đứa bé da đen, con King và con Xaba, bởi vì Xtas không muốn dắt theo con chó để nó khỏi sủa làm lũ súc vật hoảng sợ, dọc đường em muốn đi săn luôn thể. Khi đàn chim rời cây xiêm gai mọc sau chót để bay sang bờ bên kia một khe núi rộng, cậu bé dừng lại và bảo:

– Bây giờ anh đưa em về chỗ con King, rồi anhđi xem thử xem trong khoảng rừng trên cao kia có linh dương hay ngựa vằn không, Cali nói là thịt khô không còn đủ cho hai ngày nữa đâu.

– Em lớn rồi mà, – Nen đáp, cô bé lúc nào cũng muốn chứng tỏ rằng mình không còn là một đứa trẻ nữa. – Em quay về một mình cũng được. Từ đây trông thấy trại rõ thế kia, cả khói nữa kìa.

– Anh sợ em đi lạc mất thôi.

– Lạc sao được! Ở trong rừng rậm thì có thể em lạcđấy, nhưng ở đây, anh xem, cỏ thấp thế này kia mà!

– Thế nhỡ con gì vồ em thì sao?

– Chính anh bảo ban ngày sư tử và báo không săn mồi đấy thôi. Thêm nữa, con King đang rống lên vì nhớ chúng mình đấy, anh có nghe thấy không? Sư tử làm sao lại dám săn mồi ở chỗ có tiếng con King được.

Và cô bé bắt đầu khăng khăng giữ ý mình.

– Anh Xtas, em đi một mình như người lớn cho coi!

Xtas ngần ngừ một lát, nhưng rồi em cũ ng đồng ý. Quả thực, có thể trông rõ cái trại và làn khói đang bốc lên. Con King nhớ Nen, chốc chốc lại rốnglên. Đi trong cỏ thấp thì không thể lạc đường được, còn sư tử, báo và linh cẩu thì chẳng phải nói tới làm gì, vì những loài thú này chỉ săn mồi ban đêm mà thôi. Cậu bé cũng biết rằng không gì làm cô bé vui sướng hơn là việc chứng tỏ cô không còn bé nữa.

– Thôi được rồi, – cậu bảo, – em đi một mình cũngđược, nhưng phải đi thẳng một mạch về, đừng tha thẩn dọc đường đấy nhé!

– Thế em hái hoa có được không? – Cô bé vừa hỏivừa chỉ vào những cây hoa khổ tô phủ vô số những đóa hoa màu hồng.

– Được.

Nói rồi, cậu bé quay người Nen lại, chỉ cho cô thấy một lần nữa cho yên dạ cái lùm cây nơi khói trại đang bốc lên, nơi phát ra tiếng rống của con King, rồi em lẩn vào trong những lùm cây cỏ cao mọc kín bờ khe.

Nhưng chưa bước được một trăm bước, em đã cảm thấy lo lắng, “Mình thật là ngu ngốc, – em nghĩ, – đã để cho Nen đi một mình trên đất Phi châu này. Ngu, ngu! Nó còn bé thế kia! Mình không được rời nó một bước, trừ khi nào có con King. Ai biết được sẽ gặp chuyện gì? Ai biết được dưới gốc cây hoa màu hồng ấy lại không có một con rắn, một con vượn nào đó có thể từ dưới khe nhô lên tóm lấy nó hay cắn nó thì sao? Lạy Chúa! Mình đã làm một việc quá ngốc!”.

Sự lo lắng biến thành nỗi tự giận mình, trở thành mộ t nỗi sợ hãi thắt ruột. Không nghĩ ngợi gì thêm, em quay ngoắt lại, dường như có một điềm gở báo trước vậy. Em đi vội vã với sự thành thạo đã có được do những chuyến đi săn bắn hàng ngày, súng sẵn sàng nhả đạn, em đi giữa nhữ ng bụi gai trinh nữ không một tiếng động, cứ như một con beo ban đêm đang lần mò tới chỗ đàn linh dương vậy. Một lát sau, em nhô đầu ra khỏi những đám cỏ cao, nhìn – và sững người lại.

Nen đang đứng gần bụi cây khổ tô, hai tay đưa ra phía trước mặt, những đóa hoa màu hồng mà cô bé để rơi xuống trong cơn kinh hoàng đang nằm ngổn ngang dưới chân, còn cách đấy chừng hơn hai mươi bước chân, một con thú to màu vàng xám đang trườn lại phía cô bé trong đám cỏ thấp.

Xtas trông rõ cặp mắt xanh lét của con thú đang nhìn chòng chọc vào bộ mặt trắng như phấn của cô bé, cái đầu nhỏ với đôi tai mỏng dính, những cái xương bả vai của nó nhô cao lên do đang ở tư thế bò trườn rình mồi, cái thân mình dài và cá i đuôi còn dài ngoẵng hơn nữa, chót đuôi đang ve vẩy nhẹ nhàng như mèo. Một giây nữa thôi – chỉ một cái nhảy và thế là Nen hết đời.

Nhìn thấ y cảnh ấy, trong chớp mắt cậu bé đã được tôi luyện và quen với hiểm nguy hiểu ngay rằng nếu như em không bình tĩnh ngay lập tức, nếu như em không tỉnh táo, nếu như em bắn không thật trúng đích mà chỉ làm cho con vật bị thương – dù có bị thương nặng đi nữa – thì cô bé sẽ chết. Song em đã quen với việc chế ngự bản thân mình đến độ, với những ý nghĩ đó, tay chân em bỗng trở nên bình tĩnh dẻo dai như chiếc lò xo bằng thép. Chỉ một thoáng nhìn, em đã trông thấy một cái đốm sẫm màu ở gần mang tai con vật – và bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, em chĩa ngay nòng súng vào đó và nổ liền.

Tiếng súng nổ, tiếng kêu thét lên của Nen và một tiếng gào khàn khàn cụt lủn của con vật bật lên gần như đồng thời. Xtas nhảy vọt tới chỗ Nen, lấy mình che cho em, và chĩa ngay súng vào con thú một lần nữa.

Nhưng phát đạn thứ hai không cần thiết nữa, vì con mèo rừng kinh khủng đã nằm bẹp dí dưới đất như một miếng giẻ rách, mũi nó chạm đất, móng cấu chặt vào cỏ, không động đậy. Viên đạn ria đã phá nát toàn bộ cái gáy và xương sống gáy nó. Những vòng óc màu trắng đẫm máu dập nát chườm ra trên mắt nó.

Cậu bé thợ săn và Nen đứng thừ người nhìn con thú bị giết, nhìn nhau một hồi lâu không nói được lên lời. Rồi sau đó diễn ra một chuyện thật lạ lùng. Chính Xtas, vừa mới đây dường như vẫn còn ngạc nhiên về sự tĩnh trí và bình tĩnh như những người thợ săn già u kinh nghiệm nhất trên thế giới, giờ đây bỗng nhiên lại tái nhợt người đi, chân run lẩy bẩy, mắt ứa lệ, rồi hai tay ôm chặt lấy đầu lắp đi lắp lại mãi:

– Ôi, Nen! Nen! Giá mà anh không quay lại!…

Và bị chế ngự bởi nỗi kinh hoàng, bởi cơn tuyệt vọng muộn màng, đến nỗ i mỗi đường gân thớ thịt trong người em như đều run lên hệt như em bị sốt rét vậy. Sau một giây căng thẳng thần kinh và thể xác đến tột độ là giây phút yếu mềm và dịu nguội. Mắt em như thấy cảnh con thú dữ đang nằm nghỉ với cái mõm đẫm máu trong một cái hang tối tămnào đó, cùng cái thi thể nát nhừ của Nen. Điều đó có thể diễn ra như thế và chắc chắn sẽ phải xảy ra như thế, nếu như em không kịp quay trở lại. Chỉ một phút nữa thôi, chỉ một giây nữa thôi, – là đã quá muộn. Em không thể chịu đựng nổi cái ý nghĩ ấy.

Và mọi chuyện kết thúc bằng cách Nen lại ai ủi Xtas sau khi cô bé đã bớt sợ. Cái sinh linh nhỏ bé và tốt bụng này quàng hai tay lên cổ Xtas, và vừakhóc vừa gọi em thật to, dường như muốn đánhthứ c em dậy:

– Anh Xtas, anh Xtas ơi! Em có làm sao đâu! Anh nhìn này, em không bị làm sao cả! Anh Xtas! Anh Xtas ơi!

Nhưng phải một lúc lâu Xtas mới định thần và bình tĩnh lại được. Ngay sau đó Cali đến, cậu bénghe thấy tiếng súng ở gần trại và biết rằng không bao giờ bvana kubva bắn súng để chơi, nên nó dẫn theo con ngựa để chở thú săn được. Nhìn thấy con vật bị bắn chết, cậu bé da đen bỗng giật lùi, mặtnó xám ngóe đi ngay lập tức.

– Vôbô! – Nó thét lên.

Mãi đến giờ, bọn trẻ mới bước lại gần cái xác đã cứng lại. Cho đến lúc này Xtas vẫn chưa biết loài thú gì đã bị em bắn hạ. Mới nhìn qua cậu bé ngỡ rằng đó là một con mèo rừng xứ Cáp loại lớn1, nhưng nhìn kĩ hơn em nhận ra rằng không phải như thế, vì con thú bị giết còn lớ n hơn cả báo. Lớpda màu xám hoe vàng của nó điểm những chấm lốm đốm màu hạt dẻ, nhưng đầu nó lại nhỏ hơn đầu báo, vì thế trông nó hơi giống chó sói, chân cũng cao hơn, bàn chân rộng hơn, mắt to tướng. Một con mắt đã bị đạn bắn cho lồi hẳn ra ngoài, con mắt còn lại vẫn đang nhìn bọn trẻ, một con mắt không đáy, bất động và khủng khiếp. Xtas đi đến kết luậnrằng đấy hẳn là một loài báo mà khoa động vật học chưa hề biết đến, cũng giống như hồ Baxxa Narốc mà khoa học địa lí chưa biết đến vậy.

Cali vẫn đang vô cùng kinh hoảng nhìn con vậtnằm thẳng đuỗn, lắp bắp bằng giọng khe khẽ, dường như nó sợ làm con vật thứ c dậy:

– Vôbô!… Ông lớn bắn chết cả vôbô!

Xtas quay lại đặt tay lên mái đầu cô bé, dường như muốn xem lại cho chắ c chắn rằng con vôbô không vồ được em, rồi nó nói:

– Nen, em thấy chưa, dù cho em có lớn hoàn toànrồi đi nữa, em cũng không được phép đi một mình trong rừng!

– Đúng thế, anh Xtas ạ, – Nen đáp với vẻ nhún nhường. – Nhưng với anh hay với King thì em có thể đi được chứ, phải không anh?

– Em kể xem nào. Em có nghe thấy tiếng nó mòlại gần không?

– Không… mãi đến khi có một con ruồi vàng thậtto từ trong hoa bay ra, em quay lại nhìn theo mới thấy nó đang từ trong khe núi trườn ra.

– Rồi sao nữa?

– Nó dừng lại, nhìn em.

– Nhìn lâu không?

– Lâu lắm, anh Xtas ạ. Mãi cho tới khi em buôngthả những bông hoa xuống đất và lấy tay che mắt thì nó mới bắt đầu trườn đến phía em…

Xtas chợt nghĩ ra rằng, giá như Nen là một cô bé da đen thì chắc hẳn đã bị con thú vồ ngay rồi, cô bé thoát được cũ ng còn do con thú ngạc nhiên không hiểu phải làm gì, vì lần đầu tiên nó mới được trông thấy một loài sinh vật lạ .

Một cơn lạnh chạy khắp xương cốt cậu bé.

– Ơn Chúa! Ơn Chúa! Là anh đã quay lại!…

Rồi em hỏi tiếp:

– Thế lúc đó em nghĩ gì?

– Em muốn gọi anh… nhưng không gọi được… nhưng…

– Nhưng sao?

– Nhưng em vẫn nghĩ rằng anh sẽ bảo vệ em… Bản thân em cũng không biết nữa…

Vừa nói thế, cô bé vừa quàng tay ôm lấy cổ Xtas, còn cậu bé vuốt vuốt tóc cô.

– Em không sợ nữa chứ?

– Không.

– Mdimu của anh! Mdimu của anh! Em đã thấy thế nào là Phi châu chưa nào?

– Thấy rồi, nhưng anh sẽ giết chết mọi con thú đáng ghét phải không anh?

– Giết hết!

Cả hai lại nhìn kĩ con vật ăn thịt một lần nữa. Xtas muốn giữ tấm da của con vật làm kỉ niệm nên bảo Cali lột da, nhưng cậu bé sợ có một con vôbô nữa từ khe núi lại mò đến chăng, nên nó xin bọn trẻ đừng để nó ở lại đây một mình. Trả lời câu hỏi rằng nó có sợ vôbô hơn sợ sư tử không, nó nói:

– Sư tử chỉ rống ban đêm mà không nhảy qua hàng rào còn vôbô nhảy qua ngay cả ban ngày, giết nhiều nhiều người da đen ngay giữa làng, rồi bắt một người đem đi ăn thịt. Cả giáo lẫn cung nỏ đều không thể chống lại vôbô, vì không thể giết nổi vôbô đâu.

– Nói bậy, – Xtas nói. – Cậu hãy nhìn xem nó có chết không kìa?

– Ông lớn da trắng giết được vôbô, người da đen không giết được. – Cali đáp.

Rốt cuộc bọn trẻ lấy dây buộc con mèo khổng lồ nọ vào mình ngựa, ngựa kéo nó về trại. Nhưng Xtas không giữ được bộ da của có vì con King, hình như hiểu được rằng vôbô định vồ cô chủ của nó, nó bèn nổi cơn giận dữ đến nỗi mệnh lệnh của Xtas cũng không ngăn nổi nó. Nó lấy vòi túm chặt con vật bị giết, tung lên không hai lần, rồi ra công quật vào thân cây, cuối cùng dùng chân giày xéo, biến xác nó thành một khối bèo nhèo không còn hình thù gì nữa, trông cứ như mứt nấu nhừ. Xtas chỉ kịp cứu lấy cái quai hàm, em đặt quai hàm cùng với phần đầu còn lại của con vật trên đường kiến đi, và chỉ trong một tiếng đồng hồ, lũ kiến đã khiến cho xương sạch đến nỗi, không còn sót lại trên đó một nguyên tử nào của máu thịt hết cả.

—–.

1. Nguyên văn: serval – một loại thú màu xám, to bằng con mèo rừng.

Bốn ngày sau đó, Xtas dừng chân nghỉ lâu hơn trên một ngọn núi gần giống núi Linđe, nhưng nhỏ hơn và chật hẹp hơn.

Ngay trong buổi chiều hôm đó, sau một cuộc chiến đấu ác liệt, Xaba tha về một con vượn đực thật to mà nó tấn công khi con này đang đùa nghịch với những mảnh của chiếc diều, chiếc thứ hai trong số diều mà bọn trẻ thả trước khi lênđường đi đến đại dương.

Tranh thủ việc dừng lại nghỉ, Xtas và Nen quyết định tiếp tục dán thêm những chiếc diều mới và thả lên khi nào có gió mạnh thổi từ Tây sang Đông. Xtas tính rằng chỉcần độ một cái rơi vào tay người Âu hoặc người Ả Rập, cũng sẽ khiến người ta chú ý và có thể khiến người ta phái đi những đoàn tìm kiếm thích hợp đểcứu chúng. Để chắ c chắn hơn, bên cạnh những dòng ghi bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, em ghi thêm cả tiếng Ả Rập, điều mà đối với em không mấy khó khăn, vì em biết tiếng Ả Rập rất giỏi.

Ngay sau khi rời khỏi chỗ nghỉ ấy, Cali nói rằng, trong dãy núi mà bọn trẻ đang trông thấy trướ cmặt, nó nhận ra một số đỉnh núi vây quanh con nước lớn màu đen, – tức là Baxxa Narốc, tuy nhiên nó không thật chắc chắn lắm, vì nhìn từ phía này, những ngọn núi ấy có hình thù hơi khác đi. Sau khiđi vượt qua một thung lũng nhỏ trông như một cái đáy hồ, mọc đầy cây khổ tô, bọn trẻ gặp một túp lều của những người thợ săn cô độc. Trong lều có hai người da đen, một người bị rắn chỉ1 cắn và đang ốm. Cả hai đều hoang dã và ngu độn, thêm nữa lạihoảng sợ vì sự có mặt của các vị khách bất ngờ, cứ tưởng là mình sẽ bị giết chết đến nỗi thoạt đầu không thể nào hỏi họ được chuyện gì cả. Mãi sau, mấy rẻo thịt khô mới khiến cho người bị thương nói được, té ra không những y chỉ bị thương mà còn bịđói nữa, vì ông bạn cho y ăn rất ít. Qua y, bọn trẻ được biết rằng cách đấy một ngày đường sẽ có những cái bản nhỏ rải rác do các chúa đất độc lập với nhau cát cứ, rồi tiếp đó, bên kia một trái núi dốcđứng là vùng đất của ngài Phumba, kéo dài mãisang phía Đông và phía Nam, kể từ con nước lớn. Xtas trút được gánh nặng khi nghe thấy điều đó, tâm hồn em tràn ngập một niền hân hoan mới mẻ.Dù sao đi nữa, bọn trẻ cũng đang ở ngưỡng cửa của xứ sở người Vahima rồi Dĩ nhiên khó mà đoán trước được cuộc hành trình sẽ được tiếp tục ra sao, tuy nhiên cậu bé vẫn cho rằng, dù thế nào đi nữa, chuyến đi sắp tới cũng sẽ không nặng nề hơn và cũng chẳng thể dài hơn con đường kinh khủng từ bờ sông Nin trở đi, con đường mà em đã vượt qua được nhờ sự tháo vát vô cùng, cũng chính trên đoạn đường đó em đã bảo vệ được cho Nen khỏi thiệt mạng. Em không hề nghi ngờ rằng, do có Cali, nên người Vahima sẽ đón bọn trẻ rất niềm nở và sẽ giúp đỡ chúng về mọi phương diện. Vả chăng, Xtas cũng đã hiểu biết nhiều về người da đen. Em biết đối với họ cần phải xử sự ra sao, và tin rằng, dù không có Cali đi chăng nữa, em cũng có thể đối phó đượ c với họ.

– Em biết không, – Xtas bảo Nen, – tính từ Phasôđa trở đi, chúng mình đã vượt qua quá nửa chặng đường rồi đây, trên chặng đường trước mắt có thể chúng mình sẽ chạm trán với những người da đen rất dã man, nhưng sẽ không gặp quân phiến loạn nữa đâu.

– Em thà gặp ngườ i da đen còn hơn, – cô bé đáp.

– Chứ sao nữa, em được coi là nữ thần mà. Tôi bị bắt cóc cùng một cô bé tên là Nen từ Phaium, ấy thế mà tôi lại mang về một cô Mdimu nào đó. Anh sẽ nói với cha anh và bác Rôlixơ để không bao giờ gọi em bằng cái tên nào khác.

Mắt cô bé sáng lên ánh cười.

– Có thể chúng mình sẽ gặp được cha ở Mombaxa không anh?

– Cũng có thể. Giá như không có cuộc chiến tranh đang diễn ra ở bờ hồ Baxxa Narốc thì chúng mình có thể tới đó nhanh hơn nữa. Cái ông Phumba này phải dính vào chuyện đó làm gì cơ chứ.

Nói vậy xong, em vẫy Cali:

– Cali này, người da đen đang ốm ấy cho nghe nói gì về chiến tranh không?

– Có nghe. Đang có chiến tranh to, rất to: Phumba đánh nhau với người Xamburu.

– Sẽ thế nào bây giờ nhỉ? Chúng mình làm sao đi qua xứ sở người Xamburu được?

– Quân Xamburu sẽ phải chạy trốn trước ông lớn, trước King và trước cả Cali nữa.

– Trước cả cậu nữa á?

– Trước cả Cali nữa, vì Cali có khẩu súng, khẩu súng biết gầm thét và giết được người.

Xtas bắt đầu phải suy nghĩ xem cần tham gia như thế nào trong cuộc giao tranh giữa các bộ lạc người Vahima và người Xamburu, em quyết định sẽ hướng cuộc giao tranh này sao cho chiến tranh không cản trở gì tới chuyến đi. Em hiểu rằng, việc bọn trẻ xuất hiện là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ khiến cho ông Phumba cầm chắc phần thắng. Chỉ cần làm sao giành được thắng lợi thấy trước một cách thích hợp mà thôi.

Trong những cái bản nhỏ mà người thợ săn nói đến, bọn trẻ lại thu được nhữ ng tin mới. Những tin đó ngày càng thấy rõ hơn rằng ông Phumba đang ở thế bất lợi. Bọn trẻ biết được rằng ông Phumba phải chiến đấu tự vệ, và quân Xamburu, dưới sự thống lãnh của vị vua tên là Mamba đã chiếm được một phần đáng kể lãnh thổ của người Vahima, họ bắt được rất nhiều bò sữa. Người ta kể rằng, chiến cuộc đang sôi động chủ yếu về phía Nam con nước lớn, nơi cái bôma(1) lớn của ông Phumba một khối đá cao và rộng rãi.

Những tin tức ấy khiến Cali rất lo ngại, cậu bé yêu cầu Xtas làm sao vượt thật nhanh qua trái núi đang ngăn cách chúng nó với vùng đang lan tràn ngọn lửa chiến tranh, nó cam đoan sẽ tìm được con đường có thể sử dụng không những cho ngựa mà còn cho cả con King. Bọn trẻ đã đến được vùng mà nó rất thông thuộc, và đến lúc này nó hoàn toàn nhận ra những đỉnh núi quen thuộc ngay từ thời thơ ấu.

Tuy nhiên, đường vượt núi hoàn toàn không dễ chút nào, và nếu không có sự giúp đỡ của những người dân trong cái làng gần đấy nhất, những người mà bọn trẻ thuê được bằng những món quà tặng, thì hẳn là chú ng đã phải tìm cho King con đường khác rồi.

Những người này thuộc những khe núi nằm bên này núi hơn Cali, và sau hai ngày đường khó nhọc, ban đêm rất lạnh – cuối cùng họ cũng đã đưa được cả đoàn vượt qua đèo một cách may mắn. Còn con đường từ đèo xuống thung lũng đã là xứ sở của người Vahima.

Sáng sớm, Xtas cho dừng lại nghỉ chân trong cái thung lũng hoang vu đầy cây cối ấy. Còn Cali thì đã lên đường ngay từ đêm, nó xin được tự do cưỡi ngựa đi thám thính về hướng cái bôma của cha ở cách đấy một ngày đường. Suốt cả ngày, Xtas và Nen chờ đợi nó, lòng đầy lo lắng – bọn trẻ đã tưởng nó bị chết (1) Bôma cũng là dêriba đối với vùng Xuđan. Cái bôma lớn có thể là một pháo đài hoặc một cái trại quân có công sự phòng ngự.

hoặc bị rơi vào tay kẻ thù rồi, thì đột nhiên nó xuất hiện trên lưng con ngựa gầy tóp lại, hàm đầy bọt, bản thân nó cũng mệt mỏi và thảm thương đến nỗi nhìn nó thật không cầm lòng nổi.

Nó lập tức sụp xuống chân Xtas và cầu xin cứu viện.

– Ôi, thưa ông lớn! – Nó nói. – Người Xamburu thắng các chiến sĩ của Phumba, giết chết nhiều người lắm, còn những người nào chúng không giết được thì bỏ chạy, chúng vây chặt Phumba và các chiến sĩ không có gì để ăn, họ sẽ chết thôi nếu ông lớn không giết ngay Mamba và tất cả những thằng Xamburu khác cù ng đi với Mamba.

Nó ôm ghì lấy đầu gối của Xtas mà van xin, Xtas thì nhíu mày, cân nhắc thật kĩ về điều cần phải làm, vì lúc nào và ở đâu đi nữa, em cũng nghĩ trước hết đến Nen.

– Những chiến sĩ của ông Phumba bị quân Xamburu đuổi chạy hiện nay đang ở đâu? – Mãi sau nói hỏi.

– Cali đã tìm được họ và họ sẽ tới đây ngay bâygiờ.

– Có bao nhiêu người?

Cậu bé da đen động đậy hơn chục lần những ngón tay ở cả tay và chân nhưng rõ ràng là nó không thể tính được chính xác số người, vì lí do rất đơn giản là nó không biết tính đến số lớn hơn mười, số nào lớn hơn nữa đối với nó chỉ là vengi tứ c là “nhiều” mà thôi.

– Vậy khi họ tới đây, cậu hãy chỉ huy họ đến giải vây cho cha cậu, – Xtas bảo.

– Bọn họ sợ người Xamburu, họ sẽ không đi với Cali đâu, nhưng với ông lớn thì họ sẽ đi, sẽ giết vengi, vengi quân Xamburu.

Xtas lại phải suy nghĩ.

– Không, tớ không thể mang cô bé vào trận cũng không thể để cô bé một mình, – em nói, – tớ không thể làm chuyện đó, dù cho có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa.

Nghe thấy thế, Cali nhổm ngay dậy, vòng tay lại và lặp đi lặp lại nhiều lần:

– Luela! Luela! Luela!

– Luela là cái gì! – Xtas hỏi.

– Là cái bôma lớn dành cho đàn bà Vahima và Xamburu, – cậu bé da đen đáp.

Rồi nó bắt đầu kể những chuyện thật kì lạ. Đã từ nhiều năm nay, Phumba và Mamba liên tiếp đánh nhau. Họ thiêu trụi của nhau những cánh đồng, bắt súc vật của nhau. Nhưng trên bờ hồ về phía Nam có một địa điểm tên là Luela, tại đó phụ nữ của cả hai dân tộc vẫn họp chợ một cách hoàn toàn yên ổn, ngay cả trong những cuộc chiến đấugay go nhất. Đó là một nơi thiêng liêng.

Chiến tranh chỉ diễn ra giữa những người đàn ông, không một sự bại trận hay chiến thắng nào ảnh hưởng tới số phận của các bà.

Tại Luela, trong cái chợ có tường đất sét vây quanh, đàn bà có được một nơi ẩn tránh hoàn toàn yên ổn. Trong khi đang có đánh nhau, nhiều người cùng với trẻ con và tài sản tới ẩn náu ở đó.

Nhữ ng người khác thì đi tới những làng rất xa, mang về thịt khô, đậu, kê, sắn và đủ thứ thực phẩm khác. Đám đàn ông không được đánh nhau cách Luela một tầm tiếng gà(2). Họ cũng không được phép vượt qua bức tường đất sét bao quanh chợ. Họ chỉ được phép đứng trước bức tường đó, khi ấy những người phụ nữ đưa thức ăn cho họbằng cách buộc vào những chiếc sào tre. Đó là một phong tục lâu đời và chưa có trường hợp nào các bên tham chiến vi phạm luật lệ ấy cả. Kẻ thắng trận bao giờ cũng cố gắng cắt đường về Luela của kẻ bại trận, không cho phép những người này tiến đến gần nơi thiêng liêng ấy hơn một tầm tiếng gà gáy.

– Ô, ông lớn ơi, – Cali lại ôm đầu gối của Xtasvan xin, – ông lớn hãy đưa cô bé tới Luela, rồi ông lớn dẫn King, dẫn Cali, cầm súng, cầm những con rắn lửa đi giết những thằng Xamburu hung ác.

Xtas tin những lời kể của cậu bé da đen. Trước đó em cũng đã từng nghe nói rằng nhiều nơi ở Phi châu, chiến cuộc không bao giờ động tới phụ nữ cả. Em nhớ, có lần, tại Port Xaiđơ, một vị cố đạo ngườiĐức đi truyền giáo về có kể rằng, trong vùng dãy núi lớn Kilima Njarô, ngay cả một bộ lạc rất hung ác là bộ lạc Maxxai(3) cũng giữ gìn cái luật lệ thiêng liêng là phụ nữ của hai bên tham chiến hoàn toàn được tự do đi chợ mà không bao giờ bị tấn công.

Xtas rất vui vì trên bờ Baxxa Narốc cũng có phong tục đó, em có thể tin chắc rằng không có mối nguy hiểm nào đe dọa Nen dù có cuộc chiến. Thế là em quyết định sẽ cùng cô bé đi ngay tới Luela; hơn nữa, trước khi cuộc chiến này kết thúc thì không thể nghĩ tới việc đi tiếp tục được, bởi chuyến đi đó không những cần đến sự giúp đỡ của người Vahima mà cả của người Xamburu nữa.

Vốn quen quyết định rất nhanh, em hiểu rõ mình sẽ phải hành động như thế nào. Giải thoát cho ông Phumba, đánh tan quân Xamburu, nhưng không cho phép người Vahima được trả thù một cách đẫm máu, rồi sau đó ban bố lệnh hòa bình và giải hòa hai bên tham chiến – em nghĩ những việc đó là rất cần thiết, không phải chỉ riêng đối với em, mà cả với người da đen nữa, và đó là việc có lợi nhất. “Cần phải thế – thì nhất định sẽ như thế!” Em tự nhủ thầm. Và để an ủi cậu bé da đen mà em rất thương, Xtas bèn nói rằng em không từ chối giúp đỡ.

– Từ đây tới Luela có xa không! – Em hỏi.

– Nửa ngày đường.

– Thế thì cậu nghe này: chúng mình phải đưangay cô bé tới đó, rồi tớ sẽ cưỡi con King đuổi quân Xamburu ra khỏi bôma của cha cậu. Cậu sẽ đi cùng tớ và sẽ chiến đấu cùng với tớ.

– Cali sẽ giết chúng bằng súng.

Rồi chuyển ngay từ tuyệt vọng sang trạng thái sung sướng, nó bắt đầu nhảy nhót, cườ i và cảm ơn Xtas nhiệt thành như đã chiến thắng rồi vậy. Song sự bùng nổ của lòng biết ơn và sự vui sướng của nó bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của những chiến sĩ mà trong cuộc đi thám thính của mình nó đã tập hợp được và đã ra lệnh cho họ phải ra mắt ông lớn da trắng. Họ có khoảng ba trăm người, được vũ trang bằng những chiếc khiên làm bằng da hà mã,đòng, cung nỏ và dao. Đầu họ mang lông chim, những cành dương xỉ và chỏm lông sọ của những con vượn. Nhìn thấy con voi đang thuần phục người, nhìn thấy mặt những người da trắng, thấy Xaba cùng lũ ngựa, họ rất sợ hãi và kinh ngạc, giống như những người da đen khác trong các làng bản mà đoàn đã đi qua.

Nhưng Cali đã nói với họ ngay từ đầu rằng họ đang được trông thấy Mdimu Tốt cùng ông lớn, “người giết cả sư tử, giết cả vôbô, người khiến voi phải sợ, người phá vỡ tung đá núi, người thả những con rắn lửa”v.v…, nên thay vì bỏ chạy, họ đứng thành hàng dài trong sự lặng im đầy ngạc nhiên, chỉ đảo đảo tròng mắt, không hiểu phải quỳ hay úp mặt xuống đất, nhưng lòng họ thì tràn đầy tin tưởng rằng nếu con người phi thường này giúp thì họ sẽ chiến thắng được quân Xamburu. Xtas đi dọc theo hàng quân trên mình voi, như một vị thủ lĩnh đi duyệt binh, rồi ra lệnh cho Cali nhắc lại cho họ rõ lời hứa của mình và hạ lệnh xuất phát, tiến về hướng Luela.

Cùng với vài chiến sĩ nữa, Cali đi trước để bảo với phụ nữ cả hai bộ lạc rằng họ được cái may mắn không ngờ và phi thường là được nhìn thấy Mdimu Tốt cưỡi voi tới đó. Chuyện ấy phi thường đến nỗi, ngay cả những người phụ nữ Vahima nhận ra Cali chính là người kế vị ngai vàng bị mất tích trong thời gian vừa qua, cứ ngỡ là vị hoàng tử trẻ tuổi đang nói đùa với họ, và ngạc nhiên là tại sao nó lại muốn nói đùa trong cái thời buổi rất nặng nề đối với toàn bộ bộ lạc và với riêng ông Phumba này. Tuy nhiên, vài giờ sau, khi trông thấy con voi khổng lồ đang tiến gần lại bức tường, trên lưng voi có cái bành trắng, thì họ cuồng lên vì sung sướng, và chào đón Mdimu Tốt bằng những tiếng kêu và tiếng hú, đến nỗi thoạt tiên Xtas ngỡ rằng đó là những tiếng kêu thù địch; thêm nữa, những người phụ nữ da đen đó xấu xí đến nỗi trông họ giống như những mụ phù thủy.

Song đó chỉ là dấu hiệu của sự thành kính vô cùng mà thôi.

Khi cái lều của Nen được dựng lên tại góc chợ, dưới bóng mát của hai cái cây lá cành rậm rạp, thì những người phụ nữ Vahima và Xamburu liền lấy hoa kết thành tràng trang điểm cho nó, rồi họ mang tới nhiều thức ăn, đủ dùng trong một tháng ròng, không chỉ riêng cho “vị nữ thần” mà cả cho đoàn hộ tống nữa. Những người đàn bà thành kính thậm chí còn cúi lạy cả Mêa; cô bé mặc quần áo bằng lụa màu hồng, đeo mấy chuỗi hạt cườm, nên đối với họ, cô hầu của Mdimu Tốt hẳn là cao sang hơn nhiều so với những người đàn bà da đen bình thường.

Vì đang còn ở tuổi thiếu niên, Nasibu được phép vào trong bờ thành, thế là nó bèn tranh thủ sử dụng ngay những cống vật mà người ta mang tới tặng Nen, đến nỗi một tiếng đồng hồ sau đó, cái bụng của nó căng tròn như một chiếc trống trận Phi châu.

——————–.

1. Filandria medinensis, một loại sâu bọ mảnh như sợi chỉ, dài hơn một thước. Khi bị nó cắn, người ta có thể bị hoại huyết. (Chú thích của tác giả).

2. Có nghĩa là khoảng cách mà từ đó có thể nghe tiếng gà gáy.

3. Bộ lạc này có thực.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ