Trên sa mạc và trong rừng thẳm - Chương 41 – 42

Nhưng Xtas chỉ nghỉ một chốc bên những bờ thành của Luela rồi liền dẫn Cali cùng ba trăm chiến sĩ đi về phía cái bôma của ông Phumba ngay trước khi mặt trời lặn, vì nó muốn đánh quân Xamburu ngay trong đêm. Nó tính rằng, ban đêm, “những con rắn lửa” sẽ gây tác dụng lớn hơn nhiều. Kể cả những chỗ nghỉ, từ Luela tới núi Bôcô, nơi ông Phumba đương chống giữ, mất chín giờ đồng hồ đi đường, cho nên mãi tới ba giờ sáng họ mới đến được dưới chân thành. Xtas bảo các chiến sĩ dừng lại và ra lệnh giữ im lặng tuyệt đối cho tới giờ hànhđộng, rồi em bắt đầu quan sát địa thế. Đỉnh núi, nơi những người cố thủ đương náu mình, hoàn toàn tối, còn quân Xamburu thì lại đốt lên rất nhiềuđống lửa. Ánh lửa chiếu sáng những vách đá dốc và những cây khổng lồ mọc sát chân núi. Từ xa vẳng về tiếng trống trầm trầm cùng những tiếng kêu và tiếng hát của các chiến sĩ: hẳn là họ đang nốc bia pômba để mừng thắng lợi cuối cùng đã gần kề. Dẫn đầu toán quân của mình, Xtas tiến sát thêm nữa, chỉ cách những đống lửa gần nhất không quá một trăm bước chân. Không hề thấy quân canh trại đâu cả, đêm lại không có trăng, nên những người dân hoang sơ kia không trông thấy được con King; thêm nữa nó lại được cây cối che khuất. Ngồi trên đầu voi, Xtas ra những mệnh lệnh cuối cùng, rồi ra hiệu cho Cali bắn một phát pháo hiệu đã chuẩn bị sẵn. Vừa kêu rít lên, dải lửa màu đỏ vừa bay vút lên bầu trời tối đen, rồi nó bùng nổ, tỏa thành những chùm sao đỏ, xanh và vàng rực. Mọi thứ tiếng động đều im bặt, nhường chỗ cho một sự im lặ ng chết chóc bao trùm.

Vài giây sau, hai con rắn lửa nữa bay vọt đi như réo lên tiếng cười kinh rợn, nhưng lần này chúng bay ngang, hướng thẳng về phía trại quân Xamburu, đồng thời dậy lên tiếng rống của King và tiếng reo hò vang động của ba trăm người Vahima.Được vũ trang bằng những chiếc giáo axagaie, khiên và dao, họ lao thẳng về phía trước. Cuộc chiến đấu nổ ra, cuộc chiến đấu càng trở nên kinh khủng vì nó diễn ra trong bóng tối, bởi trong cảnh lộn xộn, tất cả các đống lửa đều bị dập tắt ngóm. Song ngay từ đầu, những con rắn lửa đã khiến cho quân Xamburu sợ hết hồn. Những gì đang diễn ra vượt quá sự hiểu biết của họ. Họ chỉ biết rằng có những loài vật gì đó rất kinh khủng tấn công họ, rằng họ đang bị đe dọa bởi cái chết kinh người, không chốnglạ i nổi. Đa số quân Xamburu chạy tháo thân, trước khi những cái giáo và gậy của người Vahima kịp động tới da họ. Hơm trăm chiến sĩ mà vua Mamba kịp tụ tập chung quanh mình chiến đấu dữ dội để tự vệ, song đến khi trong những ánh chớp đạn, họ trông thấy con vật khổng lồ, trên lưng nó là một người mặ c đồ trắng, khi tai họ nghe tiếng súng mà Cali cứ chốc chốc lại nổ một phát, thì tim họ rụngrời. Ở trên núi, khi nhìn thấy phát pháo hiệu đầu tiên nở tung ra trên không trung, thì cả vua Phumba cũng ngã xệp xuống đất và nằm như chết mấy phút liền vì hoảng sợ. Nhưng sau khi định thần lại, nghe thấy tiếng kêu hú tuyệt vọng của các chiến sĩ, ông hiểu được một điều là có những vị thần nào đó đang đánh tan quân Xamburu dưới kia. Khi ấy trong đầu óc ông chợt lóe ra một ý nghĩ nếu như không nhanh chân đến trợ sức cho những vị thần kia, thì cơn giậ n dữ của họ có thể sẽ quay lạ i chống ông ta cũng nên. Và vì sự tiêu diệt người Xamburu cũng là sự giải thoát cho ông, nên ông bèn tụ tập những chiến sĩ của mình, theo đường bên khuất kín ra khỏi bôma cắt đường rút lui của đại bộ phận những kẻ bỏ chạy. Lúc này trận đánh đã biến thành một cuộc tàn sát. Những cái trống của người Xamburu ngừng kêu. Trong ánh sáng nhập nhoạng và những ánh lửa lóe ra từ họng súng của Cali, rú lên tiếng kêu thét của những kẻ bị giết, tiếng rên rỉ của những kẻ bị thương. Không có ai kêu van cả vì người da đen không hề biết đến điều đó. Sợ rằng trong bóng tối và sự hỗn độn sẽ bắn phải người của mình, nên Cali thôi không dùng súng nữa; và nắm chặt thanh kiếm của Ghebơrơ, nó lao vào giữa đám quân địch. Lúc này, người Xamburu chỉ có thể chạy trốn từ trên núi về phía biên giới của họ bằng một khe núi rộng độc nhất, nhưng khe núi này đã bị Phumba cùng các chiến sĩ của ông chặn ngang, nên cả đoàn quân chỉ còn lại những kẻ nằm mọp xuống đất chờ người ta bắt là còn sống sót, mặc dù chúng biết rõ ràng một cuộc sống nô lệ nặng nề và kinh khủng hoặc một cái chết ngay lập tức từ tay những kẻ chiến thắng đang chờ đợi chúng.

Mamba anh dũng chống cự cho tới khi một cái matruga đập cho y vỡ sọ. Con trai của y là Pharu rơi vào tay ông Phumba, ông bèn ra lệnh trói hắn lại để làm vật tế thần sau này, những vị thần đã tới trợ giúp ông ta.

Xtas không thúc con King vào trận, em chỉ cho phép con vật rống lên để làm tăng thêm nỗi kinh hoàng cho quân địch mà thôi.

Em cũng không nổ một phát súng nào vào quân Xamburu, vì trước hết, khi rời Luela em đã hứa với bé Nen là sẽ không giết chết thêm một ai nữa, sau nữa, quả tình em không hề có ý muốn giết người, những người không làm gì hại em và Nen. Chỉ cần làm sao bảo đảm thắng lợi cho quân Vahima và giải vây được cho ông Phumba đang bị khốn đốn trong cái bôma lớn là đủ. Cho nên ngay sau khi Cali chạy đến báo tin đã hoàn toàn thắng trận, em ra lệnh cho cậu bé chấm dứt ngay trận đánh đang diễn ra trong những lùm cây, hẽm đá do sự hăng máu của ông Phumba khiến cho kéo dài.

Tuy nhiên, trước khi Cali kịp ngưng chiến trận thì trời đã sáng. Nhưng thường thường ở vùng nhiệt đới, mặt trời nhô lên rất nhanh từ phía sau những ngọn núi và chiếu ánh nắng rực rỡ xuống chiến trường, nơi hơn hai trăm xác chết quân Xamburu nằm ngổn ngang, bị giáo đâm hoặc matruga đánh.

Một lúc lâu, sau khi cuộc đánh nhau đã tàn hẳn, chỉ có tiếng hú vui mừng của người Vahima khuấy động bầu không khí yên tĩnh buổi sáng, Cali lại xuất hiện, nhưng nét mặt nó buồn thảm đến nỗi ngay từ xa cũng đã có thể thấy rằng nó gặp phải một điều bất hạnh nào đó.

Đứng trước mặt Xtas nó đấm tay vào đầu kêu lên một cách thảm thiết:

– Ôi ông lớn ơi, Phumba kupha (bị giết) rồi!

– Bị giết rồi à? – Xtas hỏi lại.

Cali kể lại mọi chuyện, qua lời nó, có thể hiểu rằng nguyên nhân chỉ là do sự hăng máu của ông Phumba mà thôi, vì khi trận đánh đã kết thúc rồi, ông còn muốn hạ thêm hai người Xamburu nữa, một trong hai người này đã đâm ông một mũi giáo.

Trong chớp mắt cái tin đó lan tới khắp tất cả những người Vahima và họ bắt đầu tụ tập chung quanh Cali. Lát sau, sáu chiến sĩ cáng xác vị vua già tới trên thân giáo, ông chưa chết nhưng bị thương nặng, và trước khi chết ông còn muốn được nhìn thấy vị chủ hùng mạnh ngồi trên đầu voi, con người đã chiến thắng quân Xamburu.

Nỗi kinh ngạc khôn cùng còn giằng co trong mắt ông với bóng tối của cái chết đang che mờ, đôi môi đã nhợt nhạt có cái vòng pêlêlê xuyên qua còn khe khẽ thì thào:

– Yancig! Yancig!… Nhưng ngay lập tức, đầu ông ngật ra đằng sau, mồm ông há hốc ra và ông qua đời.

Vốn yêu cha, Cali òa lên khóc và ngả người lên ngực ông. Các chiến sĩ, một số người thì đấm tay vào đầu, còn một số khác bắt đầu tung hô Cali là vua và kêu lên những tiếng yancig để mừng nó. Một số người sụp xuống trước mặt vị vua mới. Không có tiếng nói nào chống lạ i, vì quyền kế vị thuộc về Cali, không những chỉ theo luật – nó là con trưởng của vua Phumba – mà vì nó là người chiến thắng.

Lúc đó, trong nhà của các vị phù thủy trên đỉnh núi, bắt đầu vang lên những tiếng kêu rít dữ tợn của Mdimu Ác, những tiếng kêu mà Xtas đã từng nghe ở cái làng người da đen đầu tiên, nhưng lần này những tiếng gào hú đó không phải nhằm chống lại em mà là đòi trả thù bằng cái chết của cá c tù binh. Trống lại gầm lên. Các chiến sĩ sắp thành một dây dài, ba người một, bắt đầu nhảy điệu vũ chiến thắng chung quanh Xtas, Cali và cái xác của ông Phumba.

– Oa! Oa! Yah! Yah! – Tất cả mọi người đều lặp đi lặp lại, đầu họ gật gù theo một chuyển động đơn điệu sang trái rồi sang phải, mắt họ đảo lên, và những mũi giáo loang loáng trong ánh mặt trời buổi sáng.

Cali nhổm dậy, quay lại phía Xtas và nói:

– Ông lớn hãy mang cô bé vào cái bôma lớn, ở nhà của Phumba. Cali là vua của người Vahima, nhưng ông lớn lại là vua của Cali.

Xtas gật đầu ra dấu đồng ý, nhưng em còn ở lại đó mấy tiếng đồng hồ nữa, vì cả em cùng con King đều cần được nghỉ ngơi.

Gần chiều em mới ra đi. Trong khi em vắng mặt, thi thể những người Xamburu bị chết được dọn đi và ném xuống một cái vực sâu gần đấy, trên trời hàng đàn diều hâu quay lượn. Các phù thủy bắt đầu chuẩn bị chôn cất ông Phumba, và Cali lên nắm chính quyền, trở thành ông chủ duy nhất quyết định mạng sống và cái chết của những kẻ thuộc hạ.

– Em có biết Cali là ai không? – Xtas hỏi cô bé Nen trên đường từ Luela quay về. Nen nhìn nó ngạc nhiên.

– Là bồi của anh.

– Ha ha! Bồi! Cali bây giờ là vua của tất cả dânVahima rồi.

Nen rất vui mừng vì cái tin đó. Cô bé thấy thật là buồn cười vì sự biến đổi bất thần, trong đó người nô lệ của tên Ghebơrơ tàn bạo và là người hầu cận ngoan ngoãn của Xtas lại trở thành một vị vua.

Tuy nhiên, điều lưu ý của ông Linđe cho rằng, người da đen cũng giống như những đứa trẻ, họ không thể nhớ được những gì vừa xảy ra hôm qua, là không đúng nếu áp dụng cho Cali. Vì khi Xtas và Nen vừa tới chân núi Bôcô, thì vị vua trẻ tuổi nọ đã vội vàng chạy ngay ra đón, nó chào cả hai bằng những động tác thông thường biểu thị sự tuân phục và sung sướng, rồi nhắc lại lời nó đã nói hôm qua:

– Cali là vua của người Vahima, nhưng ông lớnlại là vua của Cali.

Nó đối xử với cả hai với sự thành kính gần như dành cho các vị thần, đặc biệt trước mặt dân chúng, nó cúi chào Nen, vì qua kinh nghiệm thu được dọc đường, nó biết rằng ông lớn lo lắng cho cô bé còn hơn lo cho bản thân mình.

Sau khi long trọng dẫn hai trẻ lên đỉnh núi, đến kinh thành, Cali nhường cho bọn trẻ cái nhà của ông Phumba, trông giống như một cái lều được chia thành nhiều buồng, Cali ra lệnh cho những người phụ nữ Vahima cùng đi với bọn trẻ từ Luela về – họ cứ chăm chăm nhìn mãi Mdimu Tốt không chán mắt – xếp đặt trong căn buồng đầu tiên những chiếc bồn gỗ lớn đựng đầy mật ong và sữa chua, và khi nó được biết rằng cô bé đã ngủ thiếp đi vì mệt nhọc trong khi đi đường, nó bèn ra lệnh cho tất cả dân chúng phải giữ im lặng tuyệt đối, ai không tuân lệnh sẽ bị tội cắt lưỡi. Song Cali còn định sẽ tiếp đón bọn trẻ long trọng nữa, nên sau khi Xtas được nghỉ ngơi một chút bước ra khỏi lều, nó bèn tiến lại gần, cúi chào rồi nói:

– Ngày mai Cali sẽ ra lệnh chôn cất vua Phumbavà chặt đầu tế vua Phumba, và để dâng Cali một số nô lệ bằng số ngón tay của cả hai bàn tay. Còn để dâng cô bé và ông lớn, Cali sẽ ra lệnh chặt đầu Pharu, con trai của Mamba, cùng vengi, vengi thằng Xamburu nữa bị rơi vào tay người Vahima.

Xtas nhíu mày, cặp mắt màu thép của em nhìn thẳng vào mắt Cali rồi trả lời:

– Tớ cấm cậu không được làm chuyện đó.

– Thưa ông chủ, – cậu bé da đen nói với giọngkhông tự tin lắm, – người Vahima bao giờ cũng chặt đầu nô lệ. Vua già chết – chặt đầu, vua trẻ lên ngôi chặt đầu. Nếu Cali không ra lệnh cho họ chặt đầu thì người Vahima có thể nghĩ rằng Cali không phải là vua.

Xtas mỗi lúc một nhìn nó vẻ nghiêm khắc hơn.

– Thế ra, – em hỏi, – cậu chẳng học được gì trênnúi Linđe cả sao? Thế ra cậu không phải là người Thiên Chúa giáo hay sao?

– Phải chứ, thưa ông lớn.

– Thế thì cậu hãy nghe đây. Người Vahima có cái não đen, nhưng não của cậu phải màu trắng. Nếu cậu đã là vua của họ, thì cậu phải soi sáng đầu óc họ và phải dạy lại họ những gì cậu đã học được ở tớ và cô bé chứ. Họ đang giống như lang núi, như linh cẩu – cậu hãy làm cho họ trở thành con người. Hãy bảo họ rằng không được chặt đầu tù binh, vì Linh thần Vĩ đại – vị Linh thần mà tớ và cô bé đều cầu nguyện – sẽ trừng phạt khi máu của con người không chút khí giới tự vệ đổ ra. Người da trắng không giết tù binh, còn cậu lại muốn đối xử với họ tồi tệ hơn là tên Ghebơrơ đã đối xử với cậu, trong khi cậu là người Thiên Chúa giáo. Hãy biết xấu hổ chứ, Cali, hãy thay đổi những phong tục cũ xấu xa của người Vahima bằng những phong tục mới. Chúa sẽ ban phước lành cho cậu, còn cô bé thì sẽ không bảo Cali là một tên da đen dã man, ngu ngốc và độc ác.

Những tiếng rú rít kinh khủng trong lều của các phù thủy át mất lời của em, Xtas khoát tay nói tiếp:

– Tớ có nghe chứ! Đó là Mdimu Ác của các cậu đang đòi máu và đầu lâu người đấy. Nhưng chính cậu cũng biết rõ tiếng đó là gì, và nó không làm cậu sợ nữa rồi. Tớ nói với cậu thế này: hãy lấy một cái roi tre, đi đến từ ng lều một và hãy nện vào da bọn phù thủy cho tới khi nào chúng bắt đầu kêu to hơn trống của chúng.

Còn trống thì hãy ném ra giữa bôma để cho tất cả mọi người Vahima đều được trông thấy và hiểu rằng bọn đểu cáng ấy lừa dối họ. Hãy nói cho những người Vahima ngu ngốc của cậu những gì mà cậu đã nói với lũ làng của M’Rua, rằng nơi nào mà Mdimu Tốt đặt chân tới, nơi đó máu người không thể đổ ra nữa.

Nhữ ng lời của Xtas rõ ràng đã khiến cho vị vua trẻ tin, nên Cali nhìn em mạnh bạo hơn và nói:

– Cali đánh, a, đánh đuổi bọn phù thủy, ném hết trống và bảo cho người Vahima biết rằng nơi nào có Mdimu Tốt, nơi ấy không được phép giết một ai cả. Nhưng Cali phải làm gì với Pharu và những người Xamburu, những kẻ đã giết chết Phumba?

Xtas đã sắp đặt mọi thứ trong đầu, em chỉ chờ có câu hỏi đó, nên trả lời ngay lập tức:

– Cha cậu chết thì cha của anh ta cũng chết, thế là đầu đổi đầu rồi. Hãy cắt máu ăn thề kết nghĩa với Pharu, rồi người Vahima và người Xamburu sẽ sống trong hòa thuận, sẽ yên tâm trồng sắn và đi săn. Cậu hãy kể cho Pharu nghe về vị Linh thần vĩ đại, người cha chung của tất cả những người da trắng và da đen, rồi Pharu sẽ yêu mến cậu như một người anh em ruột thịt.

– Cìờ thì Cali có cái óc trắng rồi! – Cậu bé da đenđáp.

Câu chuyện kết thúc tại đó. Một lát sau vang lên những tiếng rú hét rùng rợn, nhưng đó không phải là tiếng Mdimu Ác nữa, mà là tiếng của hai tên phù thủy đang bị Cali nện cho nên thân. Các chiến sĩ đang vây quanh con King dưới chân núi thành một vòng chật cứng, vội vã lao lên núi xem có chuyện gì xảy ra, và họ được trông thấy tận mắt cũng như qua lời khai của những tên phù thủy, rằng cái ma Mdimu Ác vẫn khiến họ run sợ cho tới nay chỉ là một khúc thân cây rỗng lòng bịt da khỉ mà thôi.

Còn chàng thanh niên Pharu, khi được người ta báo cho biết rằng không bị chặt đầu để hiến tế Mdimu Tốt và “ông lớn” mà Cali sẽ “ăn một miếng” của y, còn y sẽ “ăn một miếng” của Cali, thì y không dám tin vào tai mình nữa, rồi lát sau, khi biết mình được ai cứu sống, y bèn áp mặt xuống đất khi bước vào lều của ông Phumba, và cứ nằ m như thế cho đến khi Nen phải ra bảo y đứng dậy. Y bèn dùng hai bàn tay màu đen của mình ôm lấy bàn chân nhỏ bé của cô bé đặt lên đầu mình để biểu thị rằng suốt cả đời y muốn được làm nô lệ cho Nen.

Người Vahima rất kinh ngạc trước nhữ ng mệnh lệnh của vị vua mới, nhưng sự có mặt của những vị khách khác thường mà họ xem là những vị phù thủy hùng mạnh nhất trên đời, đã khiến cho không có kẻ nào dám chống lại.

Tuy nhiên, nhữ ng người già không vui mừng gì trước những phong tục mới mẻ đó, còn hai tên phù thủy thì hiểu rằng thời tốt đẹp của chúng đã vĩnh viễn chấm dứt, chúng thề trong lòng sẽ trả thù vị vua mới cù ng những vị khách kia thật ghê gớm.

Người ta chôn cất ông Phumba một cách trọng thể dưới chân núi đá của kinh thành. Cali cắm trên mồ ông một cái thập ác bằng tre, còn người da đen thì đặt lên mồ ông mấy hũ bia pompe và mấy chậu thịt khô, “để ông không về hành hạ và đe dọa họ đêm đêm”.

Sau lễ kết nghĩa anh em máu thịt giữa Cali và Pharu, người ta trả xác Mamba cho người Xamburu.

– Nen, em có tính được những chặng đường của húng mình kể từ Phaium không? – Xtas hỏi.

– Được chứ.

Rồi cô bé rướn lông mày lên bắt đầu tính trên đầu ngón tay.

– Khoan đã nhé. Từ Phaium đến Kháctum – làmột; từ Kháctum tới Phasôđa – là hai, từ Phasôđa tới cái khe núi chúng mình tìm được con King – là ba, còn từ núi Linđe tới hồ này – là bốn.

– Đúng. Có lẽ trên thế giới không có con ruồi thứhai nào bay được qua suốt một phần Phi châu như thế đâu.

– Giá như không có anh thì con ruồi ấy trông mới hay chứ! Cậu bé bật cười.

– Ruồi cưỡi trên voi! Ruồi cưỡi trên lưng voi!

– Nhưng không phải là ruồi tse tse, phải khônganh Xtas, không phải ruồi tse tse?

– Không phải, – cậu bé đáp – mà một cô ruồi kháđáng yêu.

Sung sướng vì lời khen, Nen tì cái mũi nhỏ xíu vào tay anh, rồi hỏi:

– Thế bao giờ chúng mình bắt đầu đoạn thứ nămhả anh!

– Khi nào em nghỉ ngơi được chút ít, còn anh thì ập luyện cho những người mà Cali hứa sẽ cho chúng biết bắn súng.

– Nhưng chúng mình đi có lâu không anh?

– Ôi, lâu, Nen ạ, lâu đấy! Biết đâu đây chẳng là uãng đường dài hơn cả.

– Nhưng anh sẽ ứng phó được như trước chứ, hải không anh?

– Anh phải ứng phó.

Xtas quả là đã ứng phó rất khá, nhưng chặng đường thứ năm này đòi hỏi phải chuẩn bị nhiều thứ. Bọn trẻ sẽ phải đi vào những vùng chưa ai biết đến, nơi có biết bao tai họa rình rập. Vì thế cậu bé muốn vũ trang tốt nhất để chống lại nhữ ng tai ương hơn hẳn so với nhữ ng chặng đường trước kia. Nhằm mục đích ấy, em tập cho bốn mươi chàng thanh niên Vahima bắn súng rêmingtơn, họ sẽ là lực lượng vũ trang chủ yếu và là đội cận vệ của Nen. Em không thể có được nhiều xạ thủ hơn, vì con King chỉ có thể chở được hai mươi lăm khẩu súng, còn lũ ngựa hơn mười lăm khẩu nữa. Phần còn lại của đội quân gồm một trăm người Vahima và một trăm người Xamburu được vũ trang bằng giáo và cung tên mà Pharu hứa sẽ cung cấp. Sự có mặt của những người này sẽ đẩy lùi mọi trở ngại trên đường đi qua vùng đất rộng mênh mông và rất hoang vắng, nơi những bộ lạc người Xamburu sinh sống. Xtas không khỏi tự hào khi nghĩ rằng, mặc dầu em chạy trốn dọc đường từ Phasôđa chỉ với Nen và hai đứa bé da đen, không có lấy một phương tiện sống nào cả, ấy vậy mà em vẫn có thể tiến được tới gần đại dương, dẫn theo hai trăm người có vũ trang với một thớt voi và một đàn ngựa. Em hình dung những điều người Anh sẽ bình phẩm về chuyện đó (họ đánh giá rất cao tính tháo vát), trước hết những iều cha em và ông Rôlixơn sẽ nói về em. Ý nghĩ đó khiến mọi khó khăn trở nên nhẹ nhàng hơn.

Tuy thế em vẫn không yên tâm về số phận của bản thân và của Nen. Được rồi, cứ cho là sẽ dễ dàng vượt qua vùng đất của người Vahima và người Xamburu sinh sống, nhưng rồi sao nữa?

Chúng sẽ gặp những bộ lạc nào đây, sẽ đi vào vùng đất nào đây, bao nhiêu đường đất còn phải vượt? Những chỉdẫn của ông Linđe rất chung chung. Điều khiến Xtas lo ngại nhất là em không biết hiện nay mình đang ở nơi nào, vì trên bản đồ, phần này của Phi châu trông cứ như một mảnh giấy trắng vậ y. Em cũng không rõ hồ Baxxa Narốc là hồ nào, to nhỏ ra sao. Em đang ở mép phía Nam của hồ, nơi chiều rộng mặt nước ước chừng hơn chục cây số. Nhưng hồ này kéo dài bao xa về phía Bắc, cái đó không một ai có thể trả lời cho em, kể cả ngườ i Vahima, người Xamburu, lẫn Cali. Thằng bé vốn biết nói khá sõi tiếng Kixvahili, ấy thế mà để trả lời mọi câu hỏi của Xtas nó chỉ đáp lại vỏn vẻn có hai tiếng “‘Bali! Bali”, có nghĩa là “Xa, xa lắm!” và đó là tất cả những gì Xtas có thể khai thác đượ c ở nó.

Vì những rặng núi phía Bắc vây quanh đường chân trời có vẻ khá gần nên em cho rằng hẳn đây chỉ là một cái hồ trên núi nào đó, không rộng lắm, những hồ loại này có rất nhiều ở Phi châu.

Vài năm sau em mới hiểu rằng em đã nhầm lẫn một cách tai hại1, tuy vậy, lúc này em không quan tâm đến việc tìm hiểu kĩ diện tích hồ Baxxa Narốc bằng việc tìm hiểu xem có con sông nào chảy từ hồ ra rồi sau đó đổ vào đại dương hay không. Những người Xamburudưới quyền của Pharu khẳng định rằng, phía Đông vùng đất của họ có một sa mạc lớn không một chút nước, chưa từng có ai vượt qua nổi. Vốn hiểu người da đen qua những lời thuật lại của các nhà thám hiểm, qua kinh nghiệm của ông Linđe và một phần qua kinh nghiệm của bản thân, Xtas biết rằng khi nào có những nỗi nguy hiểm và khó khăn, nhiều người trong bọn họ sẽ quay trở lại, và rất có thể bên em sẽ không còn lại một ai cả. Sẽ chỉ còn em, Nen, Mêa và cậu bé Nasibu giữa rừng thẳm cùng sa mạc mà thôi.

Tuy nhiên, điều trước tiên, quan trọng nhất, là nếu thiếu nước thì đoàn người sẽ tán loạn ngay lập tức; chính vì thế em cố gắng dò hỏi về consông. Đi dọc theo bờ sông có thể tránh được nỗi khủng khiếp mà khách bộ hành thường gặp phải trong những vùng không có nước.

Song những người Xamburu không nói cho em một điều gì chắc chắn, còn em không thể tự cho phép mình tiến hành một cuộc thăm dò dài ngàyvùng phía Đông bờ hồ, vì có bao việc khác giữ chân em lại ở Bôcô. Em cho rằng trong số tất cả những chiếc diều được thả từ núi Linđe và dọc đường đi từ các làng người da đen không một chiếc nào vượt qua được những đỉnh núi vây quanh hồ Baxxa Narốc, vì thế cần phải làm và thả thêm những chiếc diều mới, vì từ đây gió có thể mang chúng qua vùng sa mạc bằng phẳng, đi xa đến tận đại dương. Công việc này thì chính em phải có mặt để làm – bởi dẫu Nen biết dán diều rất lành nghề, còn Cali thì đã học được cách thả diều, nhưng không có ai trong hai đứa biết viết những điều cần thiết lên những chiếc diều đó cả. Xtas cho rằng đây là một việc cực kì quan trọng không thể lơ là được.

Việc này chiếm nhiều thì giờ nên mãi ba tuần sau cả đoàn mới sẵn sàng để lên đường. Trong đêm trước ngày xuất phát, vị vua trẻ tuổi của người Vahima xuất hiện trước mặt Xtas, sau khi cúi chào thật thấp, Cali nói:

– Cali sẽ đi cùng với ông lớn và cô bé đến con nước, nơi những cái thuyền lớn của người da trắng đi lại.

Xtas rất xúc động trước biểu hiện này của tình gắn bó, nhưng em nghĩ rằng, em không có quyền mang cậu bé vào một cuộc hành trình xa xăm như thế, cuộc hành trình khó hẹn ngày về.

– Sao cậu lại muốn đi cùng chúng tớ? – Em hỏi.

– Cali yêu ông chủ và cô bé.

Xtas đặt tay lên mái tóc quăn như len.

– Mình biết, Cali ạ, cậu là một người rất trung thực và tốt bụng. Nhưng còn vương quốc của cậu thì sao, ai sẽ thay cậu trị vì người Vahima?

– M’Tana, anh của mẹ Cali.

Xtas vốn biết rằng, giữa người da đen cũng như giữa những người da trắng bao giờ cũng xảy ra việctranh giành quyền bính, và vương quyền bao giờ cũng đầy cám dỗ, nên em suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Không, Cali! Mình không thể mang cậu đi theo được. Cậu phải ở lại với người Vahima để dạy họ trở thành những người tốt.

– Cali sẽ trở về với họ mà.

– M’Tana có nhiều con trai, sẽ ra sao đây, nếu như bản thân ông ta muốn trở thành vua và truyền ngôi cho các con trai của mình, đồng thời xúi giục người Vahima đuổi cậu đi?

– M’Tana là người tốt. Ông ta không làm thế đâu.

– Nếu ông ta làm thì sao?

– Thì Cali lại đến con nước lớn để tới với ông lớn và cô bé.

– Chúng mình sẽ không còn ở đó nữa.

– Thì Cali sẽ ngồi khóc trên bờ con nước vì buồn.

Vừa nói, nó vừa đặt hai tay lên đầu, rồi lát sau nó thì thầm:

– Cali rất yêu ông lớn và cô bé, rất nhiều!

Rồi hai giọt lệ lớn long lanh trong mắt nó. Xtas ngần ngừ không biết nên làm thế nào. Em rất thương Cali nhưng không thể nào đồng ý ngay với lời thỉnh cầu của cậu bé. Em hiểu rằng, nếu M’Tana hoặc đám phù thủy cùng những người da đen nổi loạn, thì cậu bé bị đe dọa không những chỉbởi việc bị đuổi khỏi đất nước thôi, mà còn bởi cái chết nữa, chưa nói tới những nỗi nguy hiểm trên đường về.

– Tốt hơn hết cho cậu là cậu hãy ở lại, – em bảo – tốt hơn rất nhiều.

Song em đang nói thì Nen bước vào, qua bức mành mỏng ngăn giữa các phòng, cô bé đã nghe rõ câu chuyện, và giờ đây, khi nhìn thấy những giọt lệ trong mắt Cali, cô bé lấy ngón tay lau mắt cho nó, rồi quay lại phía Xtas.

– Cali sẽ đi với chúng ta! – Cô bé nói rất quả quyết.

– Ơ hay! – Xtas đáp vẻ hơi phật ý. – Điều đó không phụ thuộc vào em.

– Cali sẽ đi với chúng ta! – Cô bé nhắc lại.

– Hoặc không đi.

Bỗng nhiên cô bé giậm chân:

– Em muốn thế.Rồi chính cô bé cũng òa lên khóc nứ c nở. Xtas ngạc nhiên nhìn Nen, dường như không hiểu nổi có chuyện gì xảy ra với cái cô bé lúc nào cũng tốt bụng và dịu hiền này, nhưng khi trông thấy cô bé dụi hai nắm tay vào mắt, miệng hớp hớp không khí như chim non, em bèn vội kêu lên:

– Cali sẽ đi với chúng ta! Sẽ đi! Sẽ đi! Sao em lại khóc? Cái đồ khó bảo ở đâu ấy. Nó sẽ đi! Nó làm tôi phát điên lên mất! Nó sẽ đi!

Em nghe rõ chưa?

Thế là mọi chuyện được quyết định. Xtas còn xấu hổ mãi tới chiều về sự yếu mềm của mình đối với Mdimu Tốt, còn Mdimu Tốt thì sau khi đã đạt được điều mong muốn của mình, lại trở nên lặng lẽ, hiền lành và vâng lời như mọi khi.

—————.

1. Đây là một cái hồ rất lớn, được nhà thám hiểm nổi tiếng Têlêki phát hiện vào năm 1888 và đặt tên là hồ Ruđônphơ (chú thích của tác giả).

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ