Trên sa mạc và trong rừng thẳm - Chương 37 – 38

Tuy vậy cũng phải mấy ngày sau cuộc trò chuyện ấy bọn trẻ mới lên đường được. Chúng khởi hành vào sáu giờ sáng, cùng lúc với rạng đông, sau một lúc cầu nguyện, trong đó chúng thành khẩncầu xin Đức Chúa. Xtas cưỡi ngựa dẫn đầu, chỉ có Xaba là chạy phía trước nó. Sau Xtas là con King bước đi đĩnh đạc, tai ve vẩy, mang trên cái lưng đồ sộ của mình cái bành bằng vải, trong bành là Nen cùng với Mêa. Tiếp đó là lũ ngựa của ông Linđe bước thành một hàng, được nối với nhau bằng dây thừng làm bằng sợi dừa, chở các thứ đồ vật khác nhau, còn chú bé Nasibu đi cuối đoàn, cưỡi lên con lừa cũng đen như chú.

Vì đang buổi sáng sớm nên cái nóng bức chưa căng thẳng mấy, tuy ngày hôm ấy đẹp trời, và phía sau rặng núi Caramôiô mặt trời rực rỡ nhô lên, không bị một đám mây nào che cả. Hơi gió đông làm dịu bớt cái nóng của những tia mặt trời. Chốc chốc lại nổi lên một đợt gió khá mạnh khiến cho cỏ bị rạp xuống và cả rừng dậy sóng như biển. Sau những trận mưa to, mọi loài thảo mộc lên xanh tốt, nên ở những chỗ thấp, không những chỉ có lũ ngựa hoàn toàn ngập trong cỏ mà thậm chí cả con King nữa, khiến cho người ta chỉ có thể trông thấy cái bành màu trắng nhấp nhô trên đầu cỏ xanh non, di động lên phía trước như một con tàu trên mặt hồ.

Sau một giờ đi đường trên một vùng hơi cao khô ráo, nhô lên ở phía đông núi Linđe, bọn trẻ gặp những cây cúc gai khổng lồ(1), có thân to như cây gỗ, hoa lớn như đầu người. Trên một số sườn đồi mà trông xa cứ ngỡ đồi trọc chúng thấy những cây hoa thạch thảo cao tới tám mét(2). Những loài cây khác-ở châu Âu được xếp vào loài cây nhỏ bé nhất – thìở đây cũng có tầm vóc sánh ngang với cây cúc gai hoặc thạch thảo, còn những cây thân gỗ đơn độc mọc trên cánh rừng, trông cứ như những cái nhà thờ vậy. Đặc biệt là những cây họ sung, được gọi là đarô, có những cành khi chạm vào đất liền biến thành những chiếc thân cây mới, lấn chiếm một khoảng đất rộng lớn đến nỗi một cây như thế làm thành cả một lùm riêng biệt vậy.

Trông xa, vùng này cứ như một khu rừng liên tục nhưng đến gần thì hóa ra những cây lớn mọc cách nhau, chừng mươi hay vài chục bước chân. Phía Bắc chỉ thấy rất ít cây to, vùng đó mang đặc điểm thảo nguyên núi được bao phủ bởi một khu rừng bằng phẳng, trên đó chỉ có những cây xiêm gai, hình cái ô nhô lên mà thôi. Cỏ ở đó xanh thẳm hơn, thấp hơn và rõ ràng là thức ăn tốt hơn cho súc vật, vì Nen ngồi trên bành voi cũng như Xtas khi đi lên những gò cao đều trông thấy những đàn linh dương đông đảo mà chúng chưa từng trông thấy baogiờ. Đôi khi, chúng gặm cỏ riêng từng loại, đôi khi lại chen lẫn nhiều loại với nhau: linh dương gơnu, puphu, arien, sơn dương, bò, linh dương sừng móc và những con cuđu to lớn. Không thiếu mặt cả ngựa vằn và hươu cao cổ. Trông thấy đoàn người, cả đàn ngừng ăn cỏ, ngẩng đầu và vểnh tai lên nhìn cái bành trắng, vẻ vô cùng kinh ngạc, rồi ù té chạy trong một chớp mắt. Nhưng chỉ chạy được vài trăm bước chân, chúng lại dừng lại, ngoảnh nhìn cái vật lạ lùng, rồi sau khi đã hết tò mò, chúng lại tiếp tục bình thản gặm cỏ. Thỉnh thoảng một con tê giác bật lên ngay trước gần đoàn người, trong tiếng động ầm ầm và dữ tợn nhưng trái với bản chất nóng nảy và sẵn sàng tấn công tất cả những gì lọt vào mắt nó, nó chạy thục mạng khi trông thấy King, và chỉ có mệnh lệnh của Xtas mới khiến con voi dừng lại không đuổi theo.

Voi Phi châu căm thù tê giác, nếu như chúng tìm thấy dấu vết còn mới của con vật này, bao giờ cũng lấy hết sức lao theo cho tới khi tìm thấy đối thủ và đấu sức với nó; trong những cuộc chiến đấu đó, kẻ thất bại bao giờ cũng là tê giác. Con King, hẳn là đã thuần và quen xem Xtas như người chỉ huy của mình, nên chỉ cần nghe tiế ng cậu bé và nhận thấy cặp mắt nhìn nghiêm khắc của cậu, là con voi vội hạ cái vòi đã giơ cao xuống, cụp tai lại và bước đi tiếp. Bản thân Xtas cũng muốn được trông thấy cuộc chiến đấu giữa hai con vật khổng lồ nọ, nhưng nó lo cho Nen. Nếu như con voi chạy nước đại, cái bành có thể đứt tung mất, hay tệ hơn, con vật khổng lồ có thể làm nó vướng vào một cành cây nào đó, khi ấy mạng sống của Nen sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Qua những sách mô tả việc đi săn đọc hồi còn ở Port Xaiđơ, Xtas được biết rằng nhữngngười săn hổ ở Ấn Độ không sợ hổ bằng sợ voi vội vã hay mải săn đuổi làm bành vướng vào cây. Và cuối cùng nữ a, bản thân cái nước đại của “chàng” khổng lồ này khó chịu đến nỗi không ai có thể chịu đựng được lâu mà không hại tới sức khỏe.

Tuy nhiên, mặt khác, sự có mặt của con King cũng xua đi nhiều nỗi nguy hiểm. Những con trâu rừng dữ tợn và hung hăng mà bọn trẻ gặp trong ngày hôm ấy, lúc chúng đang đi tới một cái hồ nhỏ, nơi các loài thú trong vùng tụ tập lại buổi chiều, cũng bỏ chạy khi trông thấy con voi, và vòng suốt bờ hồ để sang phía bên kia uống nước. Ban đêm, bị buộc một chân sau vào cây, King canh giữ cái lều mà Nen đang ngủ, đó là một người lính canh tin cậy đến nỗi tuy Xtas vẫn bảo đốt lửa nhưng em coi việc vây hàng rào gai quanh trại là không cần thiết, mặc dù em biết rằng trong một vùng có những đàn linh dương đông đúc như vậy sinh sống, thì không thiếu mặt sư tử. Ngay trong đêm hôm ấy, mấy con sư tử gầm thét trong khóm cây cảm lảm to lớn mọc trên sườn núi(3). Mặc dù có ánh lửa chiếu sáng, nhưng lũ sư tử, bị hấp dẫn bởi mùi ngựa, vẫn tiến gần lại phía trại; song tới khi con King bị quấy rầy bởi tiếng rống của chúng, khi trong đêm thanh vắng đột nhiên vang lên như tiếng sấm động giọng “baritus” kinh khủng của nó(4) – thì lũ sư tử liền câm bặt, hẳn là chúng hiểu rằng không nên cố tiếp xúc gần gũi hơn với loại “nhân vật” như thế làm chi! Bọn trẻ ngủ ngon trong phần còn lại của đêm và mãi đến sáng chúng mới lên đường đi tiếp.

Song đối với Xtas lại bắt đầu những lo lắng và suy nghĩ mới.

Trước nhất em hiểu rằng cả đoàn đi rất chậm và không thể đi được quá mười cây số mỗi ngày. Theo tốc độ này thì mất một tháng cũng tới được biên giới Abixinia, nhưng vì Xtas đã quyết định là trong mọi chuyện sẽ hành động theo lời khuyên của ông Linđe, mà ông Linđe lại khẳng định một cách quả quyết rằng bọn trẻ không thể nào vượt sang Abixinia nổi, nên chỉ còn lại con đường đi đến đại dương mà thôi. Song theo tính toán của người Thuỵ Sĩ ấy thì chúng còn cách đại dương khoảng trên nghìn kilômét nữa – đó là tính theo đường chim bay, chứ thực ra thành phố Mombaxa nằm lệch về phía Nam còn xa hơn nữa thế có nghĩa là cả cuộc hành trình phải kéo dài mất ba tháng. Xtas lo sợ nghĩ rằng, đó là ba tháng trời khốn khổ, mệt nhọc và nguy hiểm về phương diện những bộ lạc da đen mà bọn trẻ có thể sẽ phải chạm trán. Chúng hiện vẫn đang đi trong vùng trắng đã bị dịch đậu mùa và tin tức về những chuyến tảo thanh của bọn phiến loạn khiến cho dân chúng bạt đi, nhưng nói chung châu Phi vốn đông người sinh sống, nên trước hay sau gì chúng cũng sẽ đi vào rừng có những bộ lạc xa lạ cư trú, những bộ lạc này thường bị thống trị bởi những vị tiểu vương hoang dã và độc ác. Thật không phải là một chuyện đơn giản để có thể giữ được mạng sống và tự do khi trải qua những cái lò lửa như vậy.

Xtas chỉ tính đơn giản rằng, nếu như bọn trẻ gặp trúng người Vahima thì chúng sẽ huấn luyện cho khoảng vài mươi chiến sĩ của dân tộc này biết bắn súng, rồi dùng những phần thưởng lớn hứa với họ để họ đồng ý tháp tùng hai đứa tới tận đại dương. Song Cali không hề biết những bộ lạc người Vahima hiện sinh sống nơi đâu, còn ông Linđe có nghe chút ít về họ nhưng cũng không thể chỉ đường đi đến với họ, cũng không chỉ được chính xác vùng họ đang cưtrú. Ông Linđe có nhắc đến một cái hồ lớn nào đó mà ông được nghe nói tới, Cali thì cam đoan rằng người Vahima sinh sống trên một bờ của cái hồ đó, được gọi tên là Baxxa Narốc, còn người Xamburu thì sinh sống ở bờ hồ phía bên kia. Xtas lo ngại chính vì rằng, môn địa lí châu Phi mà em được dạy rất kĩ trong trường học ở Port Xaiđơ không hề nói tới cái hồ có tên như thế. Giá như chỉ có mỗi mình thằng bé Cali nói với em về chuyện đó, thì hẳn là em sẽ cho rằng đó là hồ Vichtoria Nianza, nhưng về chuyện đó thì ông Linđe không thể nào nhầm lẫn được, vì chính ông đã từ hồ Vichtoria đi lên phía Bắc, dọc theo rặng núi Caramôiô, và qua những tin tức thu thập được của thổ dân trong dãy núi này, ông đã đi đến kết luận rằng cái hồ bí ẩn nọ nằm xahơn nữa về phía Đông và phía Bắc. Xtas không biết nghĩ về tất cả những chuyện đó thế nào, nhưng em e rằng sẽ không gặp được cả cái hồ đó lẫn người Vahima, em còn lo sợ cả những bộ lạc dã man, sợ những vùng rừng hoang thiếu nước, những dãy núi không thể băng qua, sợ ruồi tsetse sẽ giết chết súc vật, sợ bệnh ngủ, sợ bệnh sốt rét cho Nen, sợ cái nóng bức và sợ những vùng đất mênh mông đang chia cách chúng với đại dương.

Nhưng sau khi rời khỏ i núi Linđe không còn con đường nào khác ngoài việc tiến lên phía trước, cứtiến mãi, tiến mãi về phía Đông. Ông Linđe có nói rằng đó là một cuộc hành trình vượt quá sức người thám hiểm nhiều nghị lực và giàu kinh nghiệm, song Xtas cũng đã thu được rất nhiều kinh nghiệm, còn nếu về nghị lực, thì vì Nen em quyết sẽ khai thác triệt để bản thân mình. Lúc này cần phải tiết kiệm sức lực cho cô bé, nên em quyết định chỉ đi từ sáu giờ sáng tới mười giờ trưa, còn giai đoạn thứ hai từ ba giờ tới sáu giờ chiều, nghĩa là tới khi mặt trời lặn, chỉ tiến hành khi nào chỗ nghỉ chân thứ nhất không có nước mà thôi.

Lúc này, vì trong mùa mưa dầm, nên mọi nơi đều có nước.

Những chiếc hồ do nước mưa đọng trong cá c lòng thung hãy còn rất đầy, từ trên núi thỉnh thoảng lại có những dòng suối nước trong như pha lê và mát lạnh chảy xuống, tắm trong những dòng suối đó vừa tuyệt diệu vừa an toàn vì lũ cá sấu chỉ sinh sống ở những vùng nước lớn, nơi không thiếu cá là thức ăn chính cho chúng.

Tuy nhiên, Xtas không cho phép cô bé uống nước lã, mặc dù em được thừa hưởng của ông Linđe một bình lọc rất tốt mà hoạt động của bình bao giờ cũng khiến cho Cali và Mêa ngạc nhiên. Khi nhìn thấy cái bình lọc nhúng vào nước đục ngầu nhưng lại chỉ cho chảy vào bình chứa thứ nước trong vắt thì cả hai lăn ra cười, đập đập tay vào đầu gối tỏ ý kinh ngạc và vui sướng.

Nói chung, ban đầu, chuyến đi khá thuận lợi.Được thừa hưởng của ông Linđe rất nhiều thức ăn dự trữ: cà phê, chè, đường, viên canh, nhiều loại đồ hộp khác nhau và đủ loại thuốc, Xtas không cần phải tiết kiệm đạn, vì đạn có nhiều hơn số mà bọn trẻ có khả năng mang theo. Chúng không thiếu những vật dụng đủ mọi loại khác, nhiều cỡ súng khác nhau và đạn pháo hiệu, thứ đạn mà trong những cuộc chạm trán với người da đen có thể rất có tác dụng. Vùng đất này mầu mỡ, đầy các giống thú rừng, nghĩa là không thiếu thịt tươi. Hoa quả cũng thế. Thảng hoặc, ở những vùng trũng, bọn trẻ gặp phải bùn lầy, nhưng bùn lầy hãy còn bị nước bao phủ nên không làm ô nhiễm không khí bằng những mùi hôi thối khó chịu. Trên cao nguyên không hề có giống muỗi truyền bệnh sốt rét cho máu người. Từ mười giờ sáng trở đi, trời nóng nực rất khó chịu, nhưng trong những giờ được mệnh danh là “giờ trắng” ấy, những người bộ hành nhỏ bé của chúng ta dừng chân dưới bóng mát của những cây gỗ to, không một tia nắng mặt trời nào lọt nổi qua tán lá của chúng. Sức lực của Nen, Xtas và bọn trẻ da đen vẫn đang rất dồi dào.

———–.

1. Echinops giganteus, thường mọc ở vùng này, và thường rất tốt ở vùng nam Abixynia (theo Slisee Reclus: Địa dư – Chú thích của tác giả).

2. Theo Slisée Reclus. (Chú thích của tác giả).

3.Cây cảm lảm ở Abixinia và trong núi Caramôiô có thể cao tới năm mươi mét. Theo Slisée Reclus (chú thích của tác giả).

4. Người La Mã gọi những tiếng hát hay tiếng thét xung trận của các quân đoàn và của người Giécman, cũng như tiếng voi rống bằng tên gọi này.

Ngày thứ năm của cuộc hành trình, Xtas đi cùng với Nen trên lưng con King, vì bọn trẻ gặp phải một rặng xiêm gai mọc dầy đến nỗi ngựa chỉ có thể đi theo con đường voi đã mở ra mà thôi.

Bấy giờ là sáng sớm, một buổi sáng nắng lộng lẫy và nhiều sương.

Bọn trẻ trò chuyện với nhau về chuyến đi, mỗi ngày chúng càng đến gần đại dương hơn, đến gần cha hơn, những người cha mà hiện nay chúng nhớ nhung vô hạn. Từ lúc chúng bị bắt cóc ở Phaium tới nay, đó là chủ đề của biết bao nhiêu cuộ c trò chuyện, những cuộc chuyện trò bao giờ cũng khiến bọn trẻ cảm động rơi lệ.

Chúng cứ nhắc đi nhắc lại mãi: cha của chúng đang nghĩ rằng cả hai hoặc là đã không còn sống trên đời nữa, hoặc là đã mất đi vĩnh viễn, hai ông buồn phiền, tuy thế họvẫn thường xuyên phái những người Ả Rập tới Kháctum, rất xa cả Phasôđa nữa, sau năm ngày đường nữa còn xa hơn, rồi sau đó lại cứ xa thêm mãi, mãi cho tới khi tới được đại dương, hoặc trước đó, tới được một chỗ có thể đánh điện. Người duy nhất trong cả đoàn biết được những gì đang chờ đợi là Xtas, còn Nen thì đang tin tưởng rất sâu sắc rằng, không có việc gì trên đời này Xtas không thể làm được, và cô bé hoàn toàn tin chắc rằng Xtas sẽ đưa được cô tới bờ đại dương. Cho nên nhiều lần cô bé vượt trước sự kiện để hình dung trong cái đầu óc nhỏ bé của mình những gì sẽ diễn ra khi tin tức đầu tiên về bọn trẻ đến được tay các ông bố – và líu lo như một con chim non, Nen kể cho Xtas nghe những điều tưởng tượng đó. “Các ba đang ngồi – cô bé nói, – ở Port Xaiđơ và than khóc, bỗng nhiên có một thằng bé mang tới bức điện. Cái gì thế này? Ba em hoặc ba anh sẽ mở điện ra, nhìn chữ kí và đọcthấy: Xtas và Nen! Ô, đến lúc ấy cả hai mới sung sướng nhé, cả hai ông bố mới bật ngay dậy để điđón chúng mình. Đến khi ấy cả nhà mới náo nức cả lên, cả hai ba cùng mừng – tất cả mọi người đều ca ngợi anh – rồi mọi người tới đây – rồi em sẽ ôm thật chặt cổ ba, rồi sau đó chúng mình sẽ mãi mãi bên nhau… rồi…” Và mọi sự kết thúc ở chỗ là cái cằm nhỏ bé của cô bé bắt đầu run run, đôi mắt tuyệt đẹp biến thành hai “đài” phun nước, rồi ngả đầu vào vai Xtas, cô bé khóc òa lên vì buồn, vì nhớ và vì vui sướng với ý nghĩ về cuộc sum họp trong tương lai. Còn Xtas, với trí tưởng tượng bay bổng vào tương lai, em đoán rằng cha em sẽ tự hào về em, ông sẽ nói: “Con khá lắm, xứng đáng là một người Ba Lan chân chính”! Em vô cùng xúc động, trong trái tim tràn ngập nhớ nhung, nhiệt tình và lòng quyết tâm không thể nào bị nhụt, rắn như thép. “Ta phải cứu bằng được Nen – em nhủ thầm – ta phải sống bằng được tới cái giây phút ấy!” Và khi ấy, chính em cũng cảm thấy rằng, không có nỗi hiểm nguy nào mà em không thể chiến thắng, không có trở lực nào em không thể san bằng.

Nhưng đến chiến thắng cuối cùng hãy còn xa lắm. Lúc này bọn trẻ đang phải băng qua rừng cây xiêm gai. Những cái gai dài của loài cây này vạch nên những vết xước màu trắng ngay cả trên làn da của con King. Nhưng mãi rồi rừng cây cũng thưa dần, và qua những cành cây ngổn ngang đã có thể trông thấy rừng xanh xa xa. Mặc dù cái nóng đã khiến em thấm mệt, Xtas vẫn tụt xuống khỏi bành, lên ngồi trên đầu voi để trông xem có thấy những đàn linh dương hay ngựa vằn phía trước hay không, vì em quyết định phải củng cố số thịt dự trữ.

Về phía bên phải em trông thấy một đàn linh dương arien chừng vài chục con, lẫn giữa chúng là hai con đà điểu, nhưng khi cả bọn vừa đi qua lùm cây cuối cùng và con voi quành về phía trái, thì một cảnh hoàn toàn khác hẳn đập vào mắt cậu bé: ở cách đó chừng nửa cây số, em trông thấy những nương sắn rộng, và ở rìa nương là hơn chục bóng người màu da đen, hình như đang bận làm đồng.

– Người da đen! – Em quay lại phía Nen kêu lên.

Tim em bắt đầu đập nhịp lo lắng. Em do dự một hồi không hiểu có nên quay lại ẩn vào rừng xiêm gai hay không, nhưng em chợt nghĩ rằng, trong một vùng dân cư đông đúc, thì sớm hay muộn cũng sẽ phải gặp dân, phải quan hệ với họ, và tuỳ thuộc vào những mối quan hệ đó, số phận của cả đoàn sẽ được định đoạt, nên sau khi suy nghĩ một chút, em hướng con voi đi về phía cánh đồng.

Chính vào lúc ấy Cali cũng tiến lại gần, và trỏ tay vào phía rặng cây, nó bảo:

– Ông lớn, kia là một làng của người da đen, cònđây là những người đàn bà đang làm nương sắn. Cali có phải vào làng không?

– Chú ng ta sẽ cùng vào làng, – Xtas đáp – cậu sẽnói cho họ biết rằng chúng ta đến đây như những người bạn.

– Thưa ông chủ, Cali biết sẽ phải nói với họ điềugì, – cậu bé da đen kêu lên vẻ đầy tự tin.

Rồi quay ngựa về phía những người đang làm nương, nó đưa tay lên miệng là m loa và gọi to lên:

– Yamco, he! Yambo sana!

Nghe thấy tiếng gọi này những người đàn bà đang đào sắn bật dậy và đứng như trời trồng, nhưng chuyện đó chỉ kéo dài trong nháy mắ t, vì ngay sau đó, họ vứt hết thuổng cuốc, vừa kêu ré lên vừa ù té chạy về phía những rặng cây bao quanh làng.

Nhữ ng người bộ hành trẻ tuổi thong thả và bình tĩnh tiến lại gần làng. Trong rặng cây có tiếng hú hét của hàng trăm con người, rồi đột nhiên im lặng bao trùm. Tiếp theo đó là tiếng trống trầm hùng vang động phá vỡ bầu không khí im lặng, tiếng trống về sau không ngừng lại một giây phút nào cả.

Rõ ràng đó là hiệu lệnh chiến đấu cho các chiến sĩ, vì hơn ba trăm người bỗng nhô ra khỏi rặng cây. Tất cả dàn thành một hàng dài trước làng, Xtas cho voi dừng lại cách chừng trăm bước chân và bắt đầu ngắm nghía họ. Mặt trời chiếu sáng những thân hình lực lưỡng của họ, những lồng ngực rộng rãi, những cánh tay khỏe mạnh. Họ được vũ trang bằng cung tên và giá o mác. Chung quanh đùi họ che một chiếc quần ngắn làm bằng cây thạch thảo, một sốngười khác – bằng da khỉ. Đầu họ mang những chiếc lông chim đà điểu, lông vẹt, hoặc những túm lông lởm chởm, đầu vượn. Trông họ thật thiện chiến và dữ dằn, nhưng họ lại đứng bất động trong im lặng, vì sự kinh ngạc của họ quá lớn, khiến cho ý muốn đánh nhau bị đè bẹp đi. Mọi cặp mắt đều dán vào con King, vào cái bành màu trắng và vào người da trắng đang ngồi trên đầu voi.

Voi đối với họ không phải là một con vật xa lạ gì. Họ sống triền miên trong bạo lực của voi, những đàn voi đêm đêm tàn phá những nương sắn, những vườn chuối cùng những vườn cọ đum của họ. Vì giáo và tên không xuyên thủng được da voi nên những người da đen tội nghiệ p nọ đành phải chiến đấu với chúng bằng lửa, bằng tiếng kêu la, bằng cách giả tiếng gà, bằng cách đào những hố sâu và đặt bẫy bằng những cây gỗ. Thế nhưng chưa một ai trong đời được trông thấy, thậm chí chưa một ai nghĩ tới chuyện voi có thể trở thành nô lệ cho người và để cho người ngồi lên cổ. Chính vì thế, cái cảnh đang ở trước mắt họ đây kia vượt quá xa mọi khái niệm và trí tưởng tượng của họ, khiến họ không biết nên làm gì:

chiến đấu hay chạy trốn để mặc cho số phận định đoạt mọi sự.

Cho nên, trong nỗi phấp phỏng, lo sợ và kinh ngạc, họ chỉ biết thì thào bảo nhau:

– Mẹ ơi! Không biết cái giống gì đến với chúng tavà cái gì đây đang chờ chúng ta với bàn tay của hắn?

Khi đó, Cali bèn tiến đến cách họ một tầm phóng lao, đứng nhổm dậy trên bàn đạp và gọi to lên:

– Hỡi các người, các người! Hãy nghe đây tiếng nóicủa Cali, con trai Phumba, vị vua hùng cường củangười Vahima trên bờ Baxxa Narốc! Ô! Hãy nghe, hãy nghe đây! Nếu như các người hiểu được tiếng nói của hắn, thì hãy chú ý đến từng lời của hắn!

– Chúng ta hiểu! – Tiếng đáp lại từ ba trăm cáimiệng nghe vang động.

– Vậy thì xin mời vua của các người hãy bước ra,hãy nói rõ tên họ của mình, hãy mở thật to tai và miệng để nghe cho rõ!

– M’Rua! M’Rua! – Nhiều giọng xôn xao kêu lên.

M’Rua bước lên trước hàng người, nhưng khôngquá ba bước chân. Đó là một người da đen đã già, cao to lực lưỡng, nhưng hình như không mấy can đảm, vì bắp đùi run run đến nỗi ông ta phải cắm cây giáo xuống đất và tì vào cán gỗ mới có thể đứng vững nổi trên đôi chân.

Theo gương của ông ta, các chiến sĩ khác cũng cắm ngược mũi giáo xuống đất, tỏ ý rằng họ muốn được nghe một cách ôn hòa lời nói của vị khách mới tới.

Còn Cali cất giọng cao hơn nữa:

– Hỡi M’Rua và hỡi các người, lũ làng của M’Rua! Các người đã nghe thấy rằng chính con trai của vua người Vahima đang nói chuyện với các người, vị vua mà đàn bò của Người phủ kín các ngọn núi cạnh hồ Baxxa Narốc dầy đặc như đàn kiến phủ kín xác con hươu cao cổ bị giết chết vậy. Thế nhưng, Cali, con trai của vua người Vahima nói gì đây? Ta xin báo trước cho các người một tin vui to lớn là có cả Mdimu Tốt đến là ng của các người đó!

Rồi nói gọi to hơn nữa:

– Đúng thế! Mdimu Tốt! Ô ô ô!

Qua sự im lặng bao trùm có thể hình dung ra được những lời của Cali đã gây nên ấn tượng to lớn đến thế nào. Hàng ngũ các chiến sĩ xao động như sóng dậy, vì một số người tò mò thì nhích lên thêm vài bước còn những kẻ khác thì lùi lại vì sợ hãi. M’Rua tì cả hai tay lên cán giáo – và im lặng câm đặc bao trùm một hồi lâu.

Lát sau, tiếng lao xao mới dần lan khắp hàng quân và từng giọng lẻ tẻ lặp đi lặp lại: “Mdimu!”, “Mdimu”, đây đó vang lên tiếng kêu “Yancig, yancig!” vừa biểu thị sự kính trọng, vừa biểu thị sự chào đón.

Nhưng tiếng nói của Cali lại át hẳn trong tiếng xì xào cùng những tiếng kêu đó:

– Các người hãy nhìn đi và hãy vui mừng lên! Đó, Mdimu Tốt đang ngồi trên kia, trong cái nhà màu trắng trên lưng voi khổng lồ đó, và voi khổng lồ vâng lời Mdimu, như một tên nô lệ vâng lời ôngchủ, như đứa con vâng lời mẹ vậy! Ô! Đến cha các người cũng như các người chưa từng thấy chuyện thế này bao giờ đâu…

– Chưa thấy! Yancig! Yancig!… Mắt của tất cả các chiến sĩ đều trông về phía “cái nhà”, tức là cái bành.

Còn Cali, người mà trong những buổi học tôn giáo trên núi Linđe đã được dạy rằng lòng tin có thể lay chuyển cả núi, đồng thời lại tin chắc rằng, lời cầu nguyện của cô bé da trắng có thể xin được Thượng đế ban cho tất cả mọi điều, nên giờ đây tiếp tục kể về “Mdimu Tốt” hoàn toàn chân thành:

– Hãy nghe đây, nghe đây! Mdimu Tốt đi trên mình voi về phía mặt trời thức dậy từ sau núi non và những con nước, đến đó Mdimu Tốt sẽ thưa với Linh thần Vĩ đại, để Người gửi về cho chúng ta những đám mây, và trong những hạn hán, những đám mây này sẽ trút mưa xuống cho kê, cho sắn, cho chuối, cho cỏ trong rừng của các người để các người có nhiều thức ăn, để những đàn bò sữa của các người có nhiều cỏ ăn, để rồi chú ng cho các người thứ sữa thật đặc, thật béo! Các người có muốn nhiều cái ăn và nhiều sữa không, ơ lũ là ng?

– Hê! Muốn chứ, muốn chứ!

– Rồi Mdimu Tốt sẽ nói với Linh thần Vĩ đại để Người gửi gió đến cho các người, gió sẽ xua đi khỏi làng của các người cái thứ bệnh khiến cho thân thể cho người trở thành lỗ chỗ như lát mật cắt ngang. Các người có muốn gió thổi sạch cái bệnh đó đi không, ơ lũ làng?

– Hê! Cứ thổi sạch đi!

– Và theo lời khẩn cầu của Mdimu Tốt, Linh thần Vĩ đại sẽ bảo vệ các người tránh khỏi những cuộc tấn công và cả nh đời nô lệ, và những trận mất mùa… và khỏi sư tử, khỏi báo, khỏi rắn rết, khỏi châu chấu nữa…

– Xin hãy làm như thế!…

– Vậy thì hãy nghe tiếp đây và hãy nhìn xem aiđang ngồi trước cái nhà giữa hai tai của voi vĩ đại kia? Ngồi đó là bvana kubva – ngài da trắng – vĩ đại và nhiều sức mạnh khiến voi vẫn phải sợ…

– Hê!

– … Người cầm sấm sét trong tay và dùng sấmsét đó giết chết lũ người ác…

– Hê!

– … Người giết chết sư tử…

– Hê!

– … Người thả những con rắn lửa…

– Hê!

– … Nhưng người sẽ không làm gì hại các người, nếu như các người tôn kính Mdimu Tốt.

– Yancig! Yancig!

– Nếu như các người mang đến cho người bột chuối khô, trứng gà, sữa tươi và mật ong.

– Yancig! Yancig!

– Vậy thì các ngươi hãy lại gần đây và hãy cúi đầu xuống trước Mdimu Tốt đi!

M’Rua và các chiến sĩ của ông ta vừa không ngừng kêu “yancig” vừa tiến hơn chục bước lên phía trước, nhưng thật thận trọng vì cái sợ đầy mê tín đối với Mdimu cũng như cái sợ hãi thuần tuý đối với con voi khiến cho những bước chân của họ bị hãm lại.

Nhìn thấy con Xaba, họ lại hoảng lên lần nữa, vì họ cứ tưởng nó là con vôbô, một loài vật to bằng con báo, lông hoe, sinh sống ở vùng này và vùng phía Nam Abixinia1 mà cư dân trong vùng sợ hơn cả sư tử vì nó thích thịt người hơn mọi thứ khác và rất táo bạo, dám tấn công cả những người đàn ông có vũ trang. Nhưng họ lại yên lòng ngay khi trông thấy thằng bé da đen nhỏ con bụng tròn ung ủng túm cổ dề giữ con vôbô kinh khủng ấy lại. Song chính cái đó còn khiến cho những điều hình dung của họ về quyền lực to lớn của Mdimu Tốt và ông da trắng càng to lớn hơn, và nhìn con voi, nhìn Xaba, họ thì thào với nhau: “Nếu như họ đánh bùa được cả vôbô thì ai trên đời này có thể chống nổi họ?” Tuy nhiên, giây phút long trọng nhất diễn ra, khi Xtas quay lại phía Nen, trước hết là cúi đầu thật thấp, rồi vén bức vách của cái kiệu được dùng làm tấm che, và trước mắt của đám người đang tụ tập hiện ra dung nhan của Mdimu Tốt. M’Rua cùng tất cả các chiến sĩ cúi mặt xuống đất, thân thể của họ nối nhau thành một chiếc cầu sống.

Không ai dám cử động, sự hãi hù ng trùm lên mọi con tim càng tăng lên hơn nữa khi con King – không hiểu theo lệnh Xtas hay do ý muốn của bản thân – vươn vòi lên trời và rống lên vang động, rồi theo gương nó, con Xaba cũng cất cái giọng trầm hùng nhất của mình lên, cái giọng trầm hùng nhất mà nó có thể phát ra được.

Khi đó, từ mọi lồng ngực đều bật ra một tiếng giống như lời van xin: “Aka! Aka!” – và tiếng ấy cứ kéo dài mãi cho tới khi Cali lại nói tiếp:

– Ô, hỡi M’Rua và các người, cháu con của M’Rua! Các ngươi đã kính cẩn chào Mdimu Tốt, vậy các ngươi hãy đứng dậy, hãy nhìn xem và hãy thu vào mắt hình ảnh của Mdimu, vì ai làm điều đó sẽ được Linh thần Vĩ đại ban phước lành. Hãy xua đuổi cái sợ ra khỏi lồng ngực và cái bụng của các ngươi đi, và hãy nhớ rằng, nơi nào Mdimu Tốt tới, thì máu người không thể đổ ra!

Nghe những lời này, nhất là tuyên bố rằng với Mdimu Tốt thì tử thần không ai bắt được hết, M’Rua bèn nhổm dậy, và theo gương ông, các chiến sĩ khác cũng bắt đầu e dè nhìn vị thần tốt bụng nọ. Hẳn họ sẽ phải thừa nhận một lần nữa – nếu Cali có hỏi lại lần thứ hai – rằng cả cha ông họ lẫn bản thân họ đều chưa trông thấy chuyện lạ như thế bao giờ. Vì mắt họ vốn quen nhìn những tượng thần khắc đẽo bằng gỗ và bằng những vỏ dừa xù xì, thế nhưng giờ đây trước mặt họ, đứng trên lưng voi là một vị linh thần nhỏ bé, trắng trẻo, hiền dịu, ngọt ngào và tươi cười, trông giống như một con chim trắng, vừa như một bông hoa màu trắng.

Chính vì thế mà nỗi sợ hãi trong lòng họ qua đi, ngực họ thở thoải mái hơn, những đôi môi dầy của họ bắt đầu mỉm cười, và cánh tay họ vô tình chìa về phía cái hiện tượng thần diệu nọ.

– Ô, hỡi M’Rua! Ông có thật nghĩ rằng, ông lớnda trắng hùng mạnh như thế, người mà voi cũng phải sợ, người có sấm sét trong tay, người giết được cả sư tử, người mà vôbô phải vẫy đuôi vâng lời, người thả đàn rắn lửa và đập vỡ các khối đá to, lại có thể kết anh em máu thịt với loại vua chúa thường thường? Hãy nghĩ xem, ô M’Rua, liệu Linh thần Vĩ đại có trừng phạt ông hay chưa, nếu ông ăn một miếng thịt của Cali, con trai Phumba, thủ lĩnh của người Vahima, và nếu như Cali, con trai Phumba, ăn một miếng thịt của ông?

– Mày không phải là nô lệ chứ? – M’Rua hỏi.

– Ông lớn không bắt cóc Cali, cũng không mua Cali mà chỉ cứu Cali thoát chết, cho nên Cali mới đưa Mdimu Tốt và ông lớn đến xứ sở của người Vahima, để người Vahima và vua Phumba chào hỏi và dâng những món cống vật lớn mà thôi.

– Thế thì cũ ng được, cứ như lời mày nói, để cho M’Rua ăn một miếng thịt của Cali, còn Cali ăn một miếng thịt M’Rua.

– Hãy cứ thế, cứ thế! – Các chiến sĩ họa theo.

– Thầy phù thủy đâu rồi? – Vua hỏi.

– Phù thủy đâu? Phù thủy đâu? Camba đâu rồi?

– Nhiều giọng kêu lên.

Chính vào lúc đó bỗng xảy ra một chuyện khiến cho tình thế có thể hoàn toàn thay đổi, làm vẩn đục quan hệ hòa hảo và biến những người da đen thành kẻ thù đối với các vị khách vừa mới tới.

Từ ngôi nhà cô độc đứng trên sườn đồi, có hàng rào cọc gỗ vây quanh, bỗng nhiên vang lên những tiếng động khủng khiếp. Tiếng đó giống như tiếng rống của sư tử, như tiếng sấm, như tiếng trống, như tiếng cười của linh cẩu, tiếng hú của chó sói và tiếng cọt kẹt kinh người của những bản lề cửa bị hoen gỉ. Nghe thấy tiếng ấy, con King bắt đầu rống lên, con Xaba sủa dữ dội, còn con lừa mà Nasibu đang cưỡi cũng hí lên. Các chiến sĩ nhảy dựng lên như phải bỏng và rút phắt những chiếc giáo đang cắ m mũ i xuống đất lên.

Náo động cả lên. Những tiếng kêu đầy lo lắng vọng đến tai Xtas:

“Mdimu của chúng ta! Mdimu của chúng ta rồi!” Lòng kính trọng và thân thiện đối với các vị khách biến mất trong một giây. Mắt của những người hoang dã này bắt đầu ném ra những cái nhìn đầy nghi ngờ và thù hằn. Những tiếng thì thào đầy đe dọa từ đám đông lan ra, còn tiếng ồn ào khủng khiếp trong căn nhà cô độc nọ thì mỗi lúc một mạnh thêm lên.

Cali kinh hoàng, lần nhanh lại với Xtas, nó nói với giọng đứt đoạn vì xúc động:

– Ông chủ, đó là gã phù thủy đã đánh thức con ma dữ, Mdimu Ác sợ rằng dân làng sẽ không cốngnạp lễ vật nữa nên đang gầm lên vì giận. Ông chủ hãy dùng những món cống vật thật to để làm yên phù thủy và Mdimu Ác đi, nếu không mọi người sẽ chống lại chúng ta đấy.

– Làm chúng yên đi à? – Xtas hỏi.

Và bỗng nhiên em thấy căm giận cho tính tráo trở và tham lam của gã phù thủy, nỗi nguy bất thần khiến em phẫn nộ cả tâm hồn. Nước da rám nắng của em biến đổi hệt như khi bắn chết Ghebơrơ, Khamix và hai tên Bêđuin. Mắt em long lên dữ tợn, môi mím chặt, nắm tay nắm thành nắm đấm, gò má tái nhợt hẳn đi.

– À, để tớ sẽ làm yên chúng nó cho! – Em thốtlên. Rồi không cần suy nghĩ gì thêm, em thúc voi tiến tới ngôi nhà.

Không muốn ở lại một mặt giữa những người da đen, Cali cũng đi theo. Lồng ngực các chiến sĩ hoang dã bật lên một tiếng thét – không hiểu là tiếng thét sợ hãi hay giận dữ, nhưng trước khi họ kịp định thần, thì cái hàng rào cọc gỗ đã kêu răng rắc và đổ sụp dưới sức ép của đầu voi, rồi tiếp đó, những bức tường đắp bằng đất sét cùng cái mái nhà bị tung lên trong một đám bụi, và một giây sau, M’Rua cùng lũ người của ông ta trông thấy cái vòi màu đen vung lên không, còn ở đầu vòi là thầy phù thủy Camba.

Trên sàn nhà, Xtas trông thấy một cái trống lớn, làm bằng một thân cây rỗng lòng và bịt bằng da khỉ, em bèn bảo Cali đưa cho em, rồi quay trở lại, em đứng sừng sững trước mặt những chiến sĩ đang kinh ngạc.

– Hỡi mọi người, – em nói to, – đó không phải là Mdimu của các người gầm thét đâu, mà chính cá i tên đểu cáng này đã đánh trống để bắt các người phải cống nộp cho nó các thứ lễ vật, thế mà các người lại sợ hãi như những đứa trẻ con.

Nói rồi, em túm lấy cái dây bện bằng da khô buộc vào trống và lấy hết sức quay xoắn nó thành vòng. Những âm thanh vừa nẫy khiến cho những người da đen sợ hãi giờ đây lại vang lên, thậm chí còn nhiều phần hãi hùng hơn nữa, vì không còn bị các bức tường của căn nhà chắn bớt.

– Ô, M’Rua và cháu con của ông ta mới ngu ngốc làm sao! – Cali kêu lên.

Xtas đưa trống cho nó, Cali bèn dùng trố ng làm ồn đến nỗi suốt một lúc lâu không thể nghe thấy tiếng ai nói cả. Cuối cùng, khi đã chán rồi, nó ném cái trống xuống chân M’Rua.

– Đó, cái ma Mdimu của các người đó, – nó cả cười gọi to.

Rồi với sự lắm lời thường có của người da đen, nó nói với các chiến sĩ, trong đó nó không tiếc lời chế giễu cả họ lẫn ông M’Rua.

Vừa chỉ vào gã Camba nó vừa nói rằng cái “tên ăn cắp đội mũ da chuột” này, suốt nhiều mùa mưa và mùa khô đã lừa bịp họ, còn họ thì nuôi béo hắn bằng đậu, bằng dê tơ và mật ong. Liệu trên thế giới này có thể có vị vua chúa nào, có thể có dân tộc nào ngu dốt hơn chăng? Họ tin vào phép thuật của cái tên già chuyên lừa đảo, vào sức mạnh củ a y, vậy giờ xin họ hãy nhìn xem vị phù thủy vĩ đại nọ đang treo lơ lửng trên vòi voi và kêu lên: “Aka!” để xin ông lớn da trắng hãy thương tình. Sức mạnh của hắn đâu rồi? Pháp thuật của hắn đâu rồi? Tại sao chẳng có cái Mdimu hung ác nào gầm lên để bảo vệ hắn lúc này? A! Mdimu của hắn là cái thá gì?

Một miếng da khỉ và một mẩu thân cây gỗ rỗng lòng đã bị convoi giẫm nát. Ở vùng người Vahima thì ngay cả đàn bà và trẻ con cũng không thèm chơi bằng cái Mdimu như thế, ấy vậy mà M’Rua cùng những người của ông lại sợ hãi nó! Chỉ có một Mdimu chân chính duy nhất, chỉ có một ông chủ chân chính duy nhất đầy hùng mạnh mà thôi – họ hãy mau mau thần phục, chào đón và mang thật nhiều lễ vật tới dâng đi, nếu không những tai họa sẽ đổ xuống đầu họ, những tai họa mà cho tới nay tai họ chưa từng được nghe nói tới bao giờ.

Thật ra, đối với người da đen, không cần phải có thêm những lời đó vì chỉ cần việc tên phù thủy cùng Mdimu của y trở nên yếu ớt vô cùng so với vị thần da trắng mới cùng ông chủ da trắng đã hoàn toàn đủ để cho họ từ bỏ hắn và khinh miệt hắn rồi. Họ lại bắt đầu hô “Yancig! Yancig”!” một lần nữa, còn thành kính và nhiệt thành hơn trước. Song họ tức mình vì bao nhiêu năm đã để cho gã Camba lừa gạt, nên họ nhất thiết muốn giết chết lão ta. Chính ông M’Rua đã xin với Xtas cho phép trói hắn lại và giam giữ cho tới khi nào nghĩ ra được một cái chết thật tàn khốc xứng với tội của hắn.

Nhưng Nen quyết định sẽ tha cho hắn được sống, và chính Cali đã tuyên bố rằng nơi nào Mdimu Tốt đặt chân tới, nơi đó máu người không thể nào bị chảy ra, nên Xtas cho phép họ đuổi cổ tên phù thủy bất hạnh nọ ra khỏi làng.

Vốn tưởng rằng mình sẽ bị chết đau đớn, nên giờ đây Camba quỳ phủ phục trước mặt Mdimu Tốt vừa nức nở vừa cảm ơn cứu mạng. Và kể từ lúc đó trở đi, không còn có chuyện gì khuấy động buổi lễ nữa. Từ sau hàng rào cọc gỗ, phụ nữ và trẻ con đổ ra, vì cái tin nhữ ng vị khách quý phi thường đến đây đã lan rộng ra khắp làng, và ý muốn được nhìn thấy Mdimu Tốt đã thắng sự sợ hãi.

Lần đầu tiên Xtas và Nen được trông thấy cái làng của những người hoàn toànhoang dã, những người mà ngay cả dân Ả Rập cũng chưa mò được tới nơi. Quần áo của những người da đen này làm bằng vỏ cây thạch thảo hoặc bằng da thú quấn chung quanh đùi. Tất cả mọi người đều xăm chàm. Cả đàn ông lẫn đàn bà đều đục thủng dái tai và xâu vào đó những mẩu gỗ hoặc những khúc xương lớn khiến cho dái tai chảy dài xuống gần chạmvai. Ở môi dưới họ đeo cái pêlêlê, đó là một cái vòng bằng gỗ hay bằng xương, to như cái đĩa lót cốc. Những chiến sĩ danh tiếng hơn cùng vợ của họ mang trên cổ những chiếc vòng bằng dây đồng hay sắt, xếp chồng lên nhau cao và cứng đến nỗi họ khó khăn lắm mới cử động được cái đầu.

Rõ ràng họ thuộc về bộ lạc Sinlúc, bộ lạc này cònsinh sống chạy dài mãi sang phía Đông, vì Cali và Mêa hiểu rất rõ thổ ngữ của họ, còn Xtas thì hiểu được một nửa. Tuy nhiên, họ không có được những đôi chân dài như những người anh em sinh sống ở vùng ngập nước sông Nin, vai họ rộng hơn, ít cao hơn và nói chung trông họ ít giống những loài chim chuyên môn mò lặn dưới nước hơn. Bọn trẻ con trông lanh lẹn như những con bọ nhảy, và do chưa phải mang pêlêlê, nên so với ngườ i lớn chúng xinh đẹp hơn hẳn.

Sau khi đứng đằng xa nhìn ngó Mdimu Tốt, những người phụ nữ bắt đầu đua nhau với các chiến sĩ trong việc mang tặng vật tới, tặng vật là những con dê tơ, gà mái, trứng, đậu đen và bia nấu từ kê. Việc đó kéo dài mãi cho tới khi Xtas phải ngăn dòng thác những thức ăn ấ y lại, và vì rằng nó trả đổi rất hào phóng bằng những chuỗi hạt và lụa màu, còn Nen thì phân phát cho bọn trẻ con mươi cái gương con được thừa hưởng của ông Linđe, nên niềm vui vô hạn ngự trị cả làng, và chung quanh túp lều nơi bọn trẻ nghỉ ngơi vẫn liên tục vang lên nhữ ng tiếng kêu vui vẻ đầy ngưỡng mộ. Các chiến sĩ bắt đầu múa vũ điệu chinh chiến để chào đón những vị khách quý, họ đánh trận giả và cuối cùng là việc tiến hành lễ uống máu ăn thề kết nghĩa anh em giữa Cali và ông M’Rua.

Vì thiếu phù thủy Camba, người nhất thiết phải có mặt cho buổi lễ này, nên một cụ già da đen biết đầy đủ các phù chú đã thay hắn. Sau khi giết một con dê và lấy lá gan của nó ra, ông lão chia gan ra thành nhiều miếng to tướng, rồi bắt đầu múa may chân tay như một con cù, lúc thì nhìn Cali, lúc thì nhìn M’Rua, và cất giọng trang nghiêm hỏi:

– Hỡi Cali, con trai của Phumba, mày có muốn ăn một miếng của M’Rua, con trai của M’Culi không, và hỡi M’Rua, con trai của M’Culi, mày có muốn ăn một miếng của Cali, con trai Phumba hay chăng?

– Chúng tôi muốn, – hai người anh em tương lai cùng đáp.

– Các người có muốn rằng trái tim của Cali sẽ là trái tim của M’Rua, còn trái tim của M’Rua là trái tim Cali hay chăng?

– Chúng tôi muốn!

– Và cả tay, cả ngọn giáo, cả lũ bò sữa?

– Cả lũ bò sữa!

– Và tất cả mọi thứ mà mỗi đứa đang có hay sẽ có?

– Những thứ đang có và sẽ có!

– Và để cho giữa các ngươi không hề có dối lừa và phản bội, không có thù hằn?

– Không có thù hằn!

– Để cho người này không bao giờ ăn cắp của người kia?

– Không bao giờ!

– Để cho các ngươi là anh em với nhau?

– Phải!

Ông lão quay mỗi lúc một nhanh hơn. Các chiến sĩ vây chung quanh mỗi lúc một thêm chăm chú dõi theo những cử chỉ của ông.

– Ao! – Ông lão da đen kêu lên. – Nếu như một trong hai người nói dối người kia, phản bội người kia, ăn cắp của người kia, đầu độc người kia, giết chết người kia, hắn sẽ bị nguyền rủa.

– Xin cho hắn sẽ bị nguyền rủa! – Tất cả cácchiến sĩ đồng thanh đáp lại.

– Còn nếu như hắn là thằng nói dối và âm mưu phản bội, thì xin cho hắn không nuốt nổi máu người anh em của hắn và xin cho hắn phải nôn ra ngay trước mắt chúng tôi.

– Ô, ngay trước mắt chúng tôi!

– Xin cho hắn phải chết.

– Phải chết!

– Xin vôbô xé xác hắn ra.

– Vôbô!

– Hoặc sư tử.

– Hoặc sư tử!

– Xin voi và tê giác cùng với trâu rừng hãy xéo nát hắn.

– Ô! Và trâu rừng! – Dàn đồng ca nhắc lại.

– Xin rắn hãy cắn chết hắn.

– Rắn!

– Xin cái lưỡi hắn trở nên đen kịt.

– Đen kịt!

– Và mắt hắn chạy ra sau gáy.

– Ra sau gáy!

– Xin cho hắn đi hai chân chổng ngược.

– Ha! Hai chân chổ ng ngược!

Không chỉ riêng Xtas mà cả Cali cũng phải cắn môi để khỏi bật cười, trong khi đó những lời nguyền cứ lặp lại, mỗi lúc một kinh khủng hơn, con cù quay nhanh đến nỗi mắt người không thể dõi theo kịp vòng quay của ông. Cứ thế kéo dài mãi cho tới khi ông già người da đen hoàn toàn kiệt sức…

Kể từ giây phút này quả thực không còn gì đe dọa những người bộ hành trẻ tuổi từ phía những cư dân hoang dã này nữa, kể từ hành động nhỏ nhặt cho tới mọi sự tấn công bất thần, ngược lại chúng được vây bọc trong tình mến khách và lòng thành kính gần như đối với vị thần. Lòng thành kính này còn tăng lên hơn nữa, khi Xtas dựa theo cái khí áp kế to tướng của ông Linđe báo trước trời mưa, và ngay trong ngày hôm đó mưa rơi khá tràn trề, như trong mùa masica vậy, mặc dù mùa mưa đã qua đi khá lâu rồi, dường như ông trời muốn trút hết những lượng nước dự trữ của mình xuống đất. Những người da đen tin rằng chính Mdimu Tốt đã ban thưởng cho họ trận mưa đó, và lòng biết ơn của họ đối với Nen thật vô bờ bến. Xtas nói đùa với cô bé rằng, vì cô bé đã là thần của người da đen nên sẽ chỉ có một mình em tiếp tục lên đường thôi, còn cô bé sẽ ở lại làng của ông M’Rua, nơi những người da đen sẽ xây dựng cho cô bé một cái giáo đường bằng ngà voi và sẽ mang đậu nành và chuối tới nuôi cô.

Nhưng Nen tưởng thật, bèn đứng nhón trên đầu ngón chân và thì thầm vào tai cậu bé theo thói quen của mình chỉ mấy chữ thôi: “Anh không để em lại đâu!” – rồi cô bé nhảy cẫng lên vì vui sướng, nói rằng: nếu người da đen tốt bụng đến thế thì cả chuyến đi tới đại dương sẽ qua đi rất nhanh chóng và dễ dàng. Chuyện đó diễn ra trước mặt đám đông, nên trông thấy Mdimu nhảy nhót, ông lão M’Rua cũng bắt đầu nhảy cẫng lên theo, cố gắng nhảy cao đến mức có thể được trên hai cái chân vòng kiềng củ a ông, vì ông tưởng rằng bằng cách đó ông có thể biểu lộ lòng thành kính của mình. Các vị đại thần, sau đó là các chiến sĩ, rồi phụ nữ và trẻ con – nói tóm lại là cả làng – cũng theo gương ông mà nhảy nhót một hồi dường như tất cả đều mất trí vậy.

Xtas buồn cười vì cái trò nhảy nhót theo gương vị thần nhỏ nọ đến nỗi cười bò ra. Tuy nhiên, đến đêm, chính em đã hiến cho nhà vua sùng tín nọ cũng như các thần dân của ông một công lao thật sự và lâu bền, vì khi đàn voi kéo vào đồng chuối, em bèn cưỡi con King đến đó và bắn lên mấy phát pháo hiệu. Sự kinh hoàng mà “những con rắn lửa” này gây ra vượt quá sự chờ đợi của nó.

Nhữ ng con vật khổng lồ điên lên hoảng sợ khiến cho cả khu rừng vang ầm tiếng rống và tiếng bước chân chạy trốn thục mạng của chúng, húc vào nhau, gạt đổ lẫn nhau. Con King hùng mạnh đuổi theo những người bạn đang chạy trốn với sự hăng hái vô cùng, nó không tiếc sức dùng vòi và ngà xua đuổi bọn bạn. Sau một đêm như thế, có thể tin chắc rằng, suốt một thời gian dài nữa sẽ không một chú voi nào còn dám bén mảng đến đồng chuố i và cọ đum thuộc làng của ông già M’Rua nữa.

Dân làng vô cùng vui sướng, và những người da đen nhả y múa, uống bia làm bằng kê và rượu dừa suốt cả đêm. Cali tìm hiểu qua họ nhiều tin tức quan trọng, vì hóa ra có một số người đã từng nghenói tới con nước lớn nào đó nằm về phía Đông, có núi bao quanh. Đối với Xtas, điều đó có nghĩa là cái hồ mà người ta không dạy cho em trong những bài học địa lí quả thực có tồn tại, và thứ hai, nếu cứ đi theo hướng đã chọn thì thể nào cũng tới được chỗ ở của người Vahima. Xuất phát từ nhận xét rằng tiếng nói của Cali và Mêa không khác gì mấy so với tiếng nói ông M’Rua, em đi tới kết luận rằng, tên gọi “Vahima” rất có thể chỉ là một cái tên gọi địa phương, và rằng những dân tộc sinh sống trên hai bờ hồ Baxxa Narốc thuộc về bộ lạc lớn Synluc, bộ lạc này cư trú bắt đầu từ sông Nin kéo dài mãi vềphía Đông, không biết tới tận đâu(2).

——-.

1. Theo E. Reclus-Lefcore: Thám hiểm Abixinia (Chú thích của tác giả).

2. Vào thời Mahơđi, vùng này chưa được nghiên cứu (Chú thích của tác giả).

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ