Khi cô Cecilia Paim hỏi ai muốn lên bảng để viết một câu mà mình tự nghĩ ra, chẳng ai dám lên. Nhưng tôi đã nghĩ ra một điều bèn giơ tay.
“Zezé, em muốn lên bảng à?”
Khi đứng dậy bước lên chỗ tấm bảng đen, tôi hãnh diện nghe cô nói, “Các em thấy không? Thành viên nhỏ tuổi nhất lớp đấy.”
Tôi thậm chí không với được tới lưng chừng tấm bảng. Tôi cầm phấn viết nắn nót hết mức: Chỉ còn vài ngày nữa là đến kỳ nghỉ.
Tôi nhìn cô Cecilia Paim để xem mình có mắc lỗi gì không. Cô mỉm cười hạnh phúc và trên bàn cô là một lọ hoa trống không. Lọ không, nhưng có một bông hồng tưởng tượng trong đó, như Cô đã nói.
Tôi quay trở lại bàn, hạnh phúc với câu mình vừa viết. Hạnh phúc bởi vì, khi kỳ nghỉ đến, tôi sẽ được thường xuyên gặp ông Bồ.
Sau đó các học trò khác giơ tay muốn viết. Nhưng tôi là người hùng.
Có người xin phép được vào lớp. Cậu ấy đi học muộn. Đó là Jeronimo. Cậu vụng về bước vào và ngồi ngay đằng sau tôi. Cậu quẳng sách xuống bàn đánh “phịch” một cái và nói gì đó với bạn ngồi bên cạnh. Tôi không để ý lắm. Tôi muốn học để trở nên hiểu biết. Nhưng một từ trong cuộc chuyện trò thì thầm của họ khiến tôi chú ý. Họ đang nói về tàu Mangaratiba.
“Nó đâm vào chiếc xe con à?”
“Xe của Manuel Valadares. Chiếc xe đẹp tuyệt đó ấy.” Tôi choáng váng quay ngoắt lại phía sau. “Cậu bảo sao?”
“Tàu Mangaratiba đâm vào chiếc xe của ông người Bồ ở giao lộ chỗ đường Chita. Vậy nên tớ mới đi học muộn. Đoàn tàu đâm chiếc xe bẹp rúm. Mọi người xúm đông xúm đỏ ở chỗ đó. Họ thậm chí còn gọi đội cứu hỏa Realengo.”
Tôi toát mồ hôi lạnh, cảm thấy như thể tất thảy đều biến thành màu đen.
Jeronimo tiếp tục trả lời câu hỏi của bạn cùng bàn.
“Tớ không biết ông ta có chết không. Họ không cho trẻ con đến gần chỗ
đó.”
Tôi vô thức đứng dậy. Tôi cảm thấy buồn nôn khủng khiếp và cả người đổ mồ hôi lạnh. Tôi rời khỏi bàn và đi ra cửa. Tôi thậm chí gần như không nhận ra khuôn mặt của cô Cecilia Paim đang đi tới ngăn tôi lại. Có lẽ Cô đã nhìn thấy sắc mặt tái nhợt của tôi.
“Có chuyện gì vậy,Zezé?”
Nhưng tôi không thể trả lời. Nước mắt tôi giàn giụa. Rồi như thể một cái chốt bật mở và tôi lao đi, thậm chí chẳng buồn nghĩ đến văn phòng có hiệu trưởng. Tôi ra bên ngoài, quên cả đường quốc lộ, quên tất cả. Tôi chỉ muốn chạy và chạy cho đến khi tới được chỗ đó. Tim tôi còn đau hơn bụng và tôi chạy một mạch dọc đường Casinhas. Tôi đến tiệm bánh, liếc nhìn những chiếc xe hơi để xem Jeronimo có nói xạo hay không. Nhưng chiếc xe của chúng tôi không có ở đó. Tôi bật khóc và lại bắt đầu chạy. Đôi tay khỏe khoắn của ông Ladislau giữ tôi lại.
“Cháu đi đâu thế, Zezé?”
Mặt tôi đầm đìa nước mắt.
“Chỗ đó.”
“Cháu không cần đến đó đâu.”
Tôi vùng vẫy như điên, nhưng không thể thoát ra. “Bình tĩnh nào, con trai. Ta sẽ không để cháu đi đâu.”
“Vậy là tàu Mangaratiba đã giết ông ấy…”
“Không. Xe cứu thương đã đến rồi. Nó chỉ làm hỏng chiếc xe thôi.” “Ông nói dối, ông Ladislau.”
“Tại sao ta phải nói dối? Chẳng phải ta đã nói là tàu đâm vào xe đó ư? Vậy nên khi nào bác sĩ cho phép người khác đến bệnh viện thăm ông ấy, ta sẽ đưa cháu tới đó, ta hứa đấy. Bây giờ hãy uống soda nào.”
Ông rút khăn tay ra lau mồ hôi cho tôi. Tôi dựa người vào tường và ông ôm đầu tôi. “Thấy khá hơn chưa, Zezé?” Tôi gật đầu.
“Cháu hơi buồn nôn.”
“Để ta đưa cháu về nhà nhé?”
Tôi lắc đầu và bắt đầu mê mụ chậm chạp bước đi. Tôi biết sự thật. Tàu Mangaratiba rất tàn nhẫn. Nó là cái tàu hỏa khỏe nhất. Tôi nôn vài lần nữa và có
thể thấy không ai mảy may chú ý. Tôi hoàn toàn đơn độc trên đời. Tôi không quay lại trường học và chỉ làm theo sự mách bảo của trái tim. Thỉnh thoảng tôi khóc sụt sịt và lấy đồng phục lau mặt. Tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông Bồ nữa. Không bao giờ nữa. Ông đã ra đi. Tôi cứ đi, đi mãi. Tôi dừng lại tại con đường nơi ông đã cho phép tôi gọi ông là Bồ và cho tôi bám càng xe ông. Tôi ngồi xuống một gốc cây to và thu mình lại, tựa cằm trên đầu gối.
Bỗng nhiên tôi gào lên, “Ngài keo kiệt lắm, Chúa
Hài Đồng. Con cứ tưởng lần này Ngài sẽ tốt với con, thế mà Ngài lại đi làm chuyện này sao? Tại sao Ngài không thích con nhiều như thích những đứa con trai khác? Con đã ngoan rồi mà. Con đã không đánh nhau nữa, con đã làm bài tập về nhà, con không nói bậy nữa. Con thậm chí không nói từ “đít nữa. Tại sao Ngài lại làm thế này với con, Chúa Hài Đồng? Người ta sắp đốn hạ cây cam của con và con thậm chí không tức bực vì điều đó. Con chỉ khóc một chút thôi… Nhưng bây giờ… bây giờ…”
Cơm bùng nổ khiến tôi ngạc nhiên. Nước mắt lại tuôn trào.
“Chúa Hài Đồng, con muốn ngài trả lại ông Bồ cho con. Ngài phải trả lại ông Bồ cho con.”
Thế rồi một giọng rất dịu dàng, rất nhẹ nhàng nói với trái tim tôi. Chắc hẳn đó là giọng nói thân thiện của cái cây nơi tôi ngồi.
“Đừng khóc, bé con. Ông ấy đang ở trên thiên đường rồi.”
Lúc trời sẩm tối, anh Totoca tìm thấy tôi đang ngồi trên bậc cửa nhà bà Helena Villas-Boas, kiệt sức, không thể nên hay khóc nữa.
Anh nói chuyện với tôi, nhưng tất cả những gì tôi có thể làm là rên rỉ.
“Có chuyện gì vậy,Zezé? Nói anh nghe đi.” Tôi chỉ tiếp tục rên rỉ bằng giọng thều thào. Anh Totoca sờ trán tôi.
“Em sốt rồi này. Có chuyện gì vậy, Zezé? Đi với anh nào, về nhà đi. Anh sẽ giúp em, chúng ta sẽ đi chậm thôi.”
Tôi cố nói giữa những tiếng rên rỉ.
“Quên đi, Totoca. Em sẽ không trở về cái nhà đó đâu.” “Có chứ. Đó là nhà của chúng ta mà.”
“Chẳng còn lại gì cho em ở đó nữa. Hết rồi.”
Anh cố giúp tôi đứng dậy, nhưng nhận thấy rằng tôi không còn chút sức lực
nào.
Anh quàng tay tôi quanh cổ anh và bế tôi lên. Khi chúng tôi về đến nhà, anh đặt tôi lên giường.
“Jandira! Gloria! Mọi người đâu rồi?”
Anh đi tìm Jandira, lúc đó đang sang nhà bên tán gẫu với Aláide.
“Jandira,Zezé ốm thật rồi.”
Chị đi về, lẩm bẩm.
“Chắc nó lại giở trò gì đây. Vài nhát vụt ra trò…” Nhưng Totoca đã lo lắng bước vào phòng ngủ. “Không đâu, Jandira. Lần này nó ốm thật đấy, nó sắp chết rồi.”
Suốt ba ngày ba đêm, tôi không muốn một thứ gì. Tôi sốt hầm hập và nôn ọe mỗi khi ai đó cố cho tôi ăn hoặc uống. Tôi mỗi ngày một yếu đi. Tôi chỉ nằm đó bất động, nhìn trân trần lên tường hàng giờ.
Tôi nghe thấy tiếng người nói xung quanh mình.
Tôi hiểu tất cả những gì họ nói, nhưng tôi không muốn trả lời. Tôi không muốn nói. Tôi chỉ có thể nghĩ đến một chuyện duy nhất là đi lên thiên đường.
Glória đối phòng, ở bên tôi suốt những đêm ấy. Chị không cho bất cứ ai tắt đèn. Mọi người đều đối xử nhẹ nhàng với tôi. Ngay cả bà cũng đến chỗ chúng tôi vài ngày.
Totoca dành hàng giờ ở bên tôi, mắt lồi ra, thỉnh thoảng lại nói chuyện. “Chuyện đó không đúng đâu, Zezé. Thật đấy. Chỉ là nói xạo thôi. Họ sẽ
không mở rộng đường phố hay làm gì…”
Sự im lặng bao trùm khắp nhà chúng tôi, như thể thần chết đã đi dép vải tiến vào trong nhà. Không ai gây ra tiếng động gì. Tất cả đều nói thật khẽ. Mẹ hầu như ở suốt đêm bên tôi. Nhưng tôi không thể quên ông. Tiếng cười của ông. Cách ông nói chuyện. Thậm chí tiếng dế kêu bên ngoài cũng nhại theo tiếng ông cạo râu xoẹt xoẹt. Tôi không thể ngừng nghĩ đến ông. Giờ đây tôi đã thực sự biết đau đớn là gì. Đau đón không phải là bị đánh đến bất tỉnh. Đau đớn không phải là bị một mảnh thủy tinh cứa rách chân phải khâu nhiều mũi ở hiệu thuốc. Đau đớn là thế này đây: toàn bộ trái tim tôi nhức nhối, và tôi phải mang nó xuống mồ. Tôi không thể nói cùng ai bí mật của mình. Đau đớn làm cạn kiệt sức mạnh ở đôi tay tôi, ở đầu tôi, tôi thậm chí không muốn xoay đầu trên gối.
Và nó chỉ càng lúc càng trở nên tồi tệ hơn. Tôi chỉ còn da bọc xương. Gia đình tôi mời bác sĩ tới. Bác sĩ Faulhaber đến khám cho tôi. Không mất nhiều thời gian, ông ấy đã đoán ra bệnh.
“Đây là do bị sốc. Thằng bé bị sang chấn nặng. Nó sẽ chỉ sống sót nếu có thể vượt qua cú sốc.”
Gloria tiễn ông bác sĩ ra ngoài và nói với ông.
“Nó đã bị một cú sốc, thưa ông. Nó trở nên như thế này từ khi nghe tin người ta dự định đốn hạ cây cam của no.”
“Vậy thì cô nên thuyết phục thằng bé rằng chuyện đó không phải là sự thật.” “Chúng tôi đã thử mọi cách, nhưng nó không tin chúng tôi. Đối với nó, cái cây đó là một con người. Nó là một thằng bé kỳ lạ. Rất nhạy cảm và khôn trước
tuổi.”
Tôi nghe lỏm được toàn bộ cuộc trò chuyện đó, nhưng tôi vẫn không muốn sống. Tôi muốn lên thiên đường, và chẳng ai còn sống mà lên trên đó cả.
Họ mang thuốc tới, nhưng tôi vẫn tiếp tục nôn.
Rồi chính khi đó, một điều tốt đẹp xảy ra. Mọi người trong phố bắt đầu đến thăm tôi. Họ đã quên tôi là hiện thân của quỷ. Ông chủ quán Đói Khổ tới, mang cho tôi chiếc kẹo dẻo. Bà Eugenia mang cho tôi mấy quả trứng và chắp tay phía trên bụng tôi cầu nguyện để tôi không nôn nữa.
“Thằng con trai của Paulo sắp chết.”
Họ nói những lời tử tế, ân cần với tôi.
“Cháu cần phải bình phục, Zezé ạ. Không có cháu và những trò nghịch ngợm của cháu thì con phố này buồn lắm.”
Cô Cecilia Paim đến thăm, mang trả cặp sách cho tôi, kèm theo một bông hoa. Điều đó chỉ khiến tôi lại bắt đầu khóc.
Cô kể tôi đã rời khỏi lớp và kể từ đó cô không nhận được tin tức gì của tôi. Nhưng thật buồn khi ông Ariovaldo đến thăm tôi. Tôi nhận ra giọng ông
nhưng giả vờ ngủ.
“Ông có thể đợi ở ngoài cho đến khi thằng bé thức dậy.”
Ông ngồi xuống, nói với Gloria,“Này Cô, tôi đã đi khắp nơi hỏi đủ mọi người xem có ai biết thằng bé sống đâu không, cho tới tận khi tìm thấy ngôi nhà này.”
Ông khụt khịt rõ to.
“Vị thánh tí hon của tôi không thể chết được. Đừng để cậu bé chết, CÔ ơi. Có phải cô chính là người mà thằng bé mang những cuốn sách in lời bài hát về tặng không?” Gloria hầu như không thể trả lời.
“Đừng để sinh linh nhỏ bé này chết, Cô ơi. Nếu có chuyện gì xảy ra với thằng bé, thì tôi sẽ không bao giờ đến cái góc điêu tàn này của thành phố nữa.”
Khi bước vào phòng, ông ngồi xuống cạnh giường và cầm bàn tay tôi áp lên má ông.
“Nghe này,Zezé. Cháu phải bình phục và lại đi hát nhé. Ta hầu như chẳng bán được gì. Ai cũng hỏi, “Này, Ariovaldo, chú chim hoàng yến nhỏ của ông đâu rồi?” Hãy hứa với ta cháu sẽ khỏe lại, hứa nhé?”
Mắt tôi dâng đầy nước mắt và Gloria, thấy tôi lại buồn, liền dẫn ông Ariovaldo ra ngoài.
Tôi bắt đầu khá lên. Tôi đã có thể nuốt thức ăn và giữ chúng trong dạ dày. Nhưng bất cứ khi nào tôi nhớ tới nỗi đau ấy, con sốt lại tái phát dữ dội hơn, cùng với chứng nôn. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy tàu Mangaratiba lao ầm ầm tới, cán lên ông. Tôi không thể đừng được. Tôi cầu xin Chúa Hài Đồng, nếu Ngài có chút quan tâm đến tôi, mong rằng ông đã không cảm thấy gì hết.
Gloria thường đến vuốt tóc tôi.
“Bé con, đừng khóc. Mọi chuyện rồi sẽ qua. Nếu em muốn, toàn bộ cây xoài của chị sẽ là của em. Sẽ không ai làm gì nó đâu.”
Nhưng tôi biết làm gì với một cây xoài già khu thậm chí không còn ra quả nữa? Ngay cả cây cam của tôi chẳng bao lâu nữa cũng sẽ mất đi vẻ hấp dẫn của nó và trở thành một cái cây giống như bất cứ cây nào khác… Ấy là nếu người ta cho cái cây tội nghiệp đó một cơ hội.
Đối với một số người, chết thật dễ dàng. Một đoàn tàu hỏa tàn nhẫn buộc phải chạy tới và thế là hết. Vậy mà đối với tôi, việc lên thiên đường mới khó biết nhường nào. Tất cả mọi người cứ giữ chặt chân tôi để tôi không thể đi.
Sự ân cần và tận tâm của Gloria đã giúp tôi nói được chút ít. Ngay cả cha tôi tối tối cũng không ra ngoài nữa. Totoca gầy rộc đi vì ân hận đến mức Jandira phải mắng anh một trận.
“Một người ốm còn chưa đủ sao, Totoca?”
“Chị có phải là em đâu mà hiểu được cảm giác của em. Em là người đã nói với nó tin đó. Em vẫn cảm thấy nó trong lòng đây này, thậm chí ngay cả khi em ngủ, khuôn mặt nó, khóc, khóc hoài.”
“Này, đừng có mà cũng để con khóc. Mày lớn rồi Còn thằng bé sẽ bình phục thôi. Giờ thì mạnh mẽ lên và đi mua cho chị một hộp sữa đặc ở quán Đói Khổ đi.”
“Vậy thì đưa tiền cho em đi, vì ông ấy không ghi nợ cho cha nữa đâu.” Tình trạng yếu mệt khiến tôi ngủ li bì. Tôi không còn phân biệt được ngày
và đêm. Cơn sốt đã đỡ một chút và những con run cũng như sự kích động đã chấm dứt. Tôi mở mắt và, trong cảnh nhập nhoạng, nhìn thấy Gloria, người chị không bao giờ rời khỏi chỗ tôi. Chị đã mang chiếc ghế bập bênh vào phòng và thường ngủ thiếp đi trên ghế, chị đã quá mệt. “Gló, đã trưa chưa chi?”
“Gần trưa rồi, bé yêu.”
“Chị có muốn mở cửa sổ ra không?”
“Như thế không làm em đau đầu chứ?” “Chắc không đâu ạ.”
Ánh sáng tràn vào và tôi có thể nhìn thấy một mảng trời thật đẹp. Tôi nhìn nó một lát và lại bắt đầu khóc.
“Sao thế,Zezé? Chúa Hài Đồng tạo ra bầu trời xanh đẹp đẽ như vậy cho em đấy. Hôm nay Ngài nói với chị như vậy…”
Gloria không biết rằng bầu trời khiến tôi nghĩ tới thiên đường.
Chị rướn người tới, nắm tay tôi, cố làm tôi vui lên. Khuôn mặt chị mệt mỏi, hốc hác.
“Này, Zezé, em sẽ sớm khá lên thôi. Đi thả diều này, thắng được cả đống bị này, trèo cây này, cưỡi Pinkie này. Chị muốn nhìn thấy em trở lại như trước, ca
hát, mang những tập sách lời bài hát về cho chị. Bao nhiêu thứ thú vị như thế. Em có biết đường phố dạo này buồn như thế nào không? Mọi người đều nhớ cuộc sống và sự vui vẻ mà em mang tới cho cả phố. Nhưng em phải giúp chứ. Phải sống, sống và sống.”
“Nhưng em không muốn nữa, Gló ạ. Nếu khỏe hơn, em sẽ lại xấu xa như trước. Chị không hiểu đâu. Em không còn ai để mà ngoan ngoãn vì người đó nữa.”
“Em không cần phải ngoan như thế đâu. Hãy cứ là một cậu bé con, hãy cứ là đứa trẻ như em trước đây.” “Để làm gì kia chứ, Gló? Để mọi người lại có thể đánh đập em ư? Để mọi người có thể đối xử tồi tệ với em ư?”
Chị bao những ngón tay quanh mặt tôi và nói một cách quả quyết, “Này, bé con. Chị hứa với em một điều. Khi em khỏe hơn, sẽ không ai, không một ai, thậm chí cả Chúa, đụng đến được một sợi tóc của em. Họ sẽ phải bước qua thi thể của chị đã! Em có tin chị không?”
Tôi gật đầu.
“Thi thể là gì ạ?”
Lần đầu tiên, khuôn mặt Glória sáng lên niềm hạnh phúc. Chị bật cười, bởi vì chị biết nếu tôi quan tâm đến những từ khó thì điều đó có nghĩa rằng tôi đã lại muốn sống.
“Thi thể là xác chết, là thi hài. Nhưng có lẽ chúng ta nên đổi chủ đề đi.”
Tôi cũng nghĩ đó là một ý hay,nhưng tôi không thể không nghĩ rằng mấy ngày nay ông đã trở thành một thi thể. Glória vẫn tiếp tục nói, hứa hẹn điều này điều nọ, nhưng giờ tôi đang nghĩ đến hai con chim nhỏ của ông Bồ, con chim xanh và con chim hoàng yến. Chuyện gì sẽ xảy ra với chúng? Chúng có thể chết vì buồn như con chim sẻ của bác Orlando Tóc Cháy. Có thể ai đó đã mở cửa lồng thả chúng ra. Nhưng như thế có nghĩa là chúng chết chắc. Chúng không còn biết bay nữa. Chúng sẽ đậu trên những cây cam cho đến khi bị bọn trẻ con lấy súng cao su bắn. Khi Zico không thể chăm sóc chuồng chim được nữa, anh đã mở cửa lồng và chuyện đã xảy ra đúng như thế. Không con nào thoát.
Mọi sự trong nhà bắt đầu trở lại bình thường. Tiếng ồn ở khắp mọi nơi. Mẹ đã đi làm trở lại. Chiếc ghế bập bênh quay trở về phòng khách, nơi nó luôn sống
ở đó. Chỉ có Glória vẫn ở bên tôi. Chị sẽ không rời khỏi đó cho tới khi tận mắt thấy tôi lại đứng dậy được.
“Ăn món xúp này nhé, bé con. Jandira đã thịt con gà đen chỉ để làm món xúp cho em đấy. Xúp thơm không này.”
Và chị thổi thìa xúp cho bớt nóng.
Nếu cháu thích thì cứ nhúng bánh mì xào cà phê như thế này này. Nhưng đừng húp soàn soạt. Như thế không lịch sự đâu.
“Này, sao vậy, bé con? Đừng có nói với chị rằng em sắp khóc vì con gà đen đã chết đấy nhé. Nó già rồi. Già đến mức chẳng đẻ được quả trứng nào nữa.”
Vậy là cháu đã tìm ra được nơi ta sống cơ đấy.
“Chị biết nó là con báo đen ở vườn thú, nhưng chúng ta sẽ mua con báo đen khác, hoang dã hơn nó nhiều.”
Thế nào, cháu đã ở đâu suốt thời gian vừa rồi vậy?
“Bây giờ thì không được, Gló ạ. Nếu ăn bây giờ thì em sẽ nôn mất.” “Nếu lát nữa chị mang cho em, thì em sẽ ăn chứ?”
Và trước khi kịp kiềm chế, tôi gào lên, “Zezé hứa sẽ ngoan, sẽ không đánh nhau, sẽ không nói bậy, thậm chí không nói từ “đít. Nhưng Zezé luôn muốn ở bên người.” Mọi người nhìn tôi lo lắng, tưởng tôi lại đang nói chuyện với Pinkie.
Thoạt đầu đó chỉ là tiếng loạt soạt ở cửa sổ, nhưng sau đó nó biến thành tiếng gõ cửa. Một giọng nói nhẹ nhàng từ bên ngoài vọng vào.
“Zezé!” Tôi ngồi dậy áp đầu vào cửa chớp. “Ai đó?” “Tớ đây. Mở cửa ra nào.”
Tôi mở chốt cửa, không gây ra tiếng động gì để khỏi đánh thức Gloria. Pinkie đang đứng đó, trong bóng tối, toàn thân dát vàng lấp lánh, tựa như một phép mầu. “Tớ vào được không?”
“Chắc là được. Nhưng đừng gây tiếng động nhé, nếu không chị ấy sẽ tỉnh đấy.”
“Tớ hứa sẽ không làm chị ấy thức giấc đâu.”
Pinkie nhảy vào phòng và tôi quay trở về giường. “Nhìn xem tớ đưa ai đến gặp cậu này. Nó cứ đòi đi theo.”
Pinkie giơ cánh tay ra và tôi nhìn thấy một chú chim màu bạc.
“Tớ không nhìn rõ, Pinkie ạ.”
“Nhìn kỹ đi vì cậu sẽ ngạc nhiên đấy. Tớ trang trí cho nó bằng những chiếc lông bạc. Nó thật đẹp phải không?” “Luciano! Mày trông bảnh quá. Mày cứ phải như thế này mãi mới được. Tao cứ tưởng mày là chú chim ưng trong truyện Chú cò Khalip.”
Tôi vuốt đầu nó, lòng trào dâng xúc động, và lần đầu tiên tôi cảm nhận được rằng đầu nó thật mượt và rằng ngay cả loài dơi cùng thích sự ân cần.
“Cậu bỏ sót mất một điều rồi. Nhìn kỹ mà xem.” Pinkie xoay mình để tôi ngắm nó.
“Tớ đang mang bộ định thúc ngựa của Tom Mix. Mũ của Ken Maynard. Súng lục của Fred Thompson. Thắt lưng và giày ống của Richard Talmadge. Và trên hết, ông Ariovaldo đã cho tớ mượn chiếc áo kẻ ca rô mà cậu rất thích.”
“Tớ chưa bao giờ thấy thứ gì đẹp hơn thế, Pinkie ạ. Làm thế nào cậu kiếm được tất cả những thứ này?”
“Nghe tin cậu không khỏe, họ đã cho tớ mượn những thứ này.”
“Thật tiếc là cậu không thể mặc như thế này suốt.” Tôi chăm chú nhìn Pinkie, lo rằng có thể nó biết điều gì đang đợi mình. Nhưng tôi không nói gì.
Nó ngồi trên mép giường, đôi mắt tràn ngập sự dịu dàng và quan tâm. Nó nhích tới gần tôi.
“Có chuyện gì thế, Bạn Yêu?” nó nói. “Nhưng cậu mới là Bạn Yêu mà, Pinkie.”
“Ồ, vậy thì cậu là Bạn Yêu Nhỏ. Chẳng lẽ cậu không thể coi tớ là một người bạn thân đích thực, như tớ vẫn coi cậu là vậy sao?”
“Đừng nói vậy. Bác sĩ dặn tớ không được khóc.”
“Tớ cũng không muốn cậu khóc. Tớ đến vì tớ thực sự nhớ cậu và muốn thấy cậu khỏe mạnh, vui vẻ trở lại. Mọi chuyện trong đời đều sẽ qua thôi. Và để chúng minh điều đó, tớ đến để tặng cậu một chuyến cưỡi ngựa đây. Đi nhé?”
“Tớ vẫn còn yếu lắm.”
“Chút không khí trong lành sẽ giúp cậu bình phục đấy. Tớ sẽ giúp cậu nhảy ra ngoài cửa sổ.”
Và thế là chúng tôi đi.
“Chúng mình đi đâu đây?”
“Đi dạo một lát trên những đường ống dẫn nước nhé.”
“Nhưng tớ không muốn xuống đường Barão de Capanema đâu. Tớ sẽ không bao giờ đến đó nữa.”
“Vậy thì đi sang đường Acudes, ở ngay cuối phố này.”
Pinkie đã biến thành một con ngựa biết bay. Luciano vui sướng đầu trên vai
tôi.
Khi chúng tôi tới đó, Pinkie đưa tay đỡ tôi đi thăng bằng trên những đường ống nước to tướng. Thật thích khi có một lỗ thủng ở đó và nước phun lên như một vòi phun nhỏ, làm chúng tôi bị ướt và khiến bàn chân tôi nhồn nhột. Tôi thấy hơi chóng mặt, nhưng niềm vui mà Pinkie mang lại khiến tôi cảm thấy như thể mình đã khỏe hơn nhiều. Ít nhất, trái tim tôi đã bớt nặng nề hơn.
Bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng còi từ xa.
“Cậu có nghe thấy âm thanh đó không, Pinkie?” “Đó là tiếng còi tàu hỏa, từ
xa.”
Nhưng âm thanh lạ lùng ấy mỗi lúc một gần và những tiếng còi mới vang lên xé tan sự tĩnh lặng. Sự kinh hoàng tấn công tôi ngay lập tức.
“Tàu hỏa đấy, Pinkie. Tàu Mangaratiba đấy. Quân giết người!”
Và tiếng bánh tàu hỏa di chuyển trên đường ray rầm rầm vang lên, thật đáng
sợ.
“Trèo lên đây,Pinkie. Nhanh lên, Pinkie.”
Vì bộ định thúc ngựa sáng bóng, Pinkie không thể giữ thăng bằng trên ống nước.
“Nào, Pinkie, đưa tay cho tớ. Nó muốn giết cậu đấy. Nó muốn giết cậu đấy. Nó muốn cán chết cậu. Nó muốn băm vằm cậu đấy.”
Pinkie vừa kịp trèo lên đường ống thì đoàn tàu hỏa độc ác đó chạy qua, vừa hú còi vừa nhả khói.
“Quân giết người! Quân giết người!”
Nhưng đoàn tàu vẫn lao ầm ầm trên đường ray. Tiếng nó vọng tới chỗ chúng tôi giữa những tràng cười. “Đó không phải lỗi của tôi… Đó không phải lỗi của tôi… Đó không phải lỗi của tôi… Đó không phải lỗi của tôi…”
Toàn bộ bóng điện trong nhà đều được bật sáng và những khuôn mặt ngái ngủ ùa vào phòng tôi. “Thằng bé gặp ác mộng.”
Mẹ ôm tôi trong vòng tay, áp tôi vào lòng để cố gắng dập tắt cơn nức nở của
tôi.
“Chỉ là mơ thôi mà, con trai… Một cơn ác mộng thôi.”
Tôi lại bắt đầu nôn trong khi Glória kể cho Lala biết chuyện gì đã xảy ra. “Em tỉnh dậy,nghe thấy nó la quân giết người”. Nó nói đến giết, cán chết,
băm vằm… Chúa ơi, khi nào toàn bộ chuyện này mới kết thúc?”
Nhưng vài ngày sau, chuyện đó đã kết thúc. Tôi bị trừng phạt bằng cách phải tiếp tục sống và sống. Một buổi sáng, Gloria bước vào phòng, vui tươi rạng rỡ. Tôi ngồi dậy trên giường, cảm thấy buồn vì sự sống.
“Nhìn này,Zezé.”
Trong tay chị là một bông hoa trắng nhỏ xíu.
“Đây là bông hoa đầu tiên của Pinkie. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ trở thành một cây trưởng thành và cho quả.”
Tôi ngồi đó vuốt ve bông hoa trắng nhỏ xíu. Tôi sẽ không khóc vì bất cứ điều gì nữa. Dù Pinkie đã cố chào từ biệt tôi bằng bông hoa đó, nó đã rời khỏi thế giới những giấc mơ của tôi để đến với thế giới của hiện thực và nỗi đau khổ của tôi.
“Giờ thì ăn ít cháo và đi lại quanh nhà một chút như em đã làm ngày hôm qua nhé. Được chứ?”
Đúng lúc đó, Vua Luis trèo lên giường tôi. Bây giờ nó đã được cho phép đến gần tôi. Ban đầu mọi người không muốn nó sợ.
“Zezé!”
“Gì vậy, ông vua tí hon của tôi?”
Nó là ông vua đích thực duy nhất. Những vua khác, vua chất rô, vua chất cơ, vua chất bích, vua chất nhép, chỉ là các nhân vật bị những ngón tay người chơi vấy bẩn. Nhưng ông vua nhỏ này sẽ không sống để ngồi trên ngai vàng.
“Zezé, em yêu anh.”
“Anh cũng yêu em, em trai ạ.”
“Hôm nay anh có muốn chơi với em không?” “Có, hôm nay anh sẽ chơi với em. Em muốn làm gì nào?”
“Em muốn đi vườn thú, rồi đi châu Âu. Sau đó em muốn đến rừng rậm Amazon và chơi với Pinkie.”
“Nếu anh không quá mệt, chúng ta có thể thực hiện tất cả những việc đó.” Sau bữa sáng, khi Gloria hạnh phúc nhìn theo, chúng tôi bước ra sân sau, tay
nắm tay. Gloria đứng bên bậu cửa ngó ra, nhẹ nhõm. Trước khi chúng tôi ra đến chuồng gà, tôi ngoái lại vẫy tay với chị. Đôi mắt chị long lanh niềm vui sướng. Và tôi, với sự khôn sớm lạ lùng của mình, cảm nhận được những gì chị đang cảm thấy trong lòng, “Ơn Chúa, thằng bé đã quay trở lại với thế giới mơ mộng của nó!”
“Zezé?”
“Gì cơ?”
“Con báo đen đâu?”
Thật khó để quay trở lại với những trò chơi trước đây bởi vì tôi không còn tin những thứ như vậy nữa. Tôi muốn nói, “Đồ ngốc ạ, đã bao giờ có con báo đen nào đâu. Nó chỉ là con gà mái đen già khụ đã bị biến thành món xúp cho anh chén rồi.”
Nhưng tôi nói, “Chỉ còn lại hai con sư tử thôi, Luis ạ. Con báo đen đi nghỉ ở rừng Amazon rồi.”
Tốt nhất hãy cố hết sức gìn giữ những tưởng tượng của nó. Hồi còn nhỏ, tôi cũng đã tin những chuyện ấy.
Ông vua tí hon mở to mắt.
“Trong khu rừng đó hả, ở đó hả?”
“Đừng sợ. Con báo đen đã đi quá xa nên sẽ không bao giờ tìm được đường về đâu.”
Tôi mỉm cười cay đắng. Rừng Amazon chỉ là vài cây cam thù địch chi chít
gai.
“Luis này, em biết đấy, anh thấy mệt rồi, anh phải vào nhà thôi. Mai chúng ta chơi thêm nhé. Chơi cáp treo hoặc bất cứ trò gì em muốn.”
Nó gật đầu và chậm chạp theo tôi quay vào trong nhà. Nó vẫn còn quá nhỏ để biết sự thật. Tôi chẳng muốn đi đến bất cứ chỗ nào gần con mương hay sông Amazon. Tôi không muốn nhìn thấy Pinkie cùng phép mầu đã mất. Luis không biết rằng bông hoa trắng nhỏ là lời tạm biệt của chúng tôi.