Đêm Lễ Giáng sinh và ngày đầu tiên của lễ trôi qua với bọn trẻ một phần trong lễ cầu kinh ở nhà thờ, một phần để ngắm nghía những thứ quà tặng mà chúng nhận được, và phần nữa dành để huấn luyện Xaba. Người bạn mới này tỏ ra sáng dạ không ngờ. Ngay trong ngày đầu tiên, nó đã học được cách đưa chân cho người ta bắt, mang khăn mùi soa lại cho chủ theo mệnh lệnh – tuy nó không dễ dàng trao trả những chiếc khăn ấy – và hiểu được rằng việc dùng lưỡi liếm mặt Nen là việc làm không xứng đáng với một con chó lịch sự. Với một ngón tay đặt lên cánh mũi, Nen giảng giải cho nó nhiều bài học khác nhau, còn nó vẫy đuôi để chứng tỏ rằng nó rất chăm chú lắng nghe và thâu nhận vào đáy lòng những bài học ấy. Trong những chuyến đi dạo trên quảng trường đầy cát của thành phố, tiếng tăm của Xaba tại Mêđinét mỗi giờ một lớn lên, thậm chí, cũng như mọi thứ vinh quang khác, cái tiếng tăm này bắt đầu có mặt khó chịu của nó, bởi nó kéo theo hàng đàn lũ trẻ con Ả Rập. Ban đầu chúng còn đứng xa xa, nhưng sau đó, bạo dạn hơn vì sự hiền lành của con “quái vật”, chúng mỗi lúc một tiến lại gần, và cuối cùng ngồi vây chặt quanh lều đến nỗi không ai còn có thể cử động thoải mái được nữa.Thêm nữa, vì đứa trẻ Ả Rập nào cũng hít mía từ sáng tới đêm, nên bọn trẻ kéo theo hàng binh đoàn ruồi nhặng; bọn này không những chỉ gây khó chịu mà thậm chí còn nguy hiểm nữa, bởi chúng truyền bệnh đau mắt Ai Cập. Vì vậy, gia nhân buộc phải xua bọn trẻ con đi, nhưng Nen đứng ra bảo vệ chúng, và cô bé còn phân phát helou tức là kẹo bánh, cho bọn trẻ ít tuổi nhất, vì thế Nen rất được chúng yêu mến, và dĩ nhiên, cũng khiến cho số lượng đám trẻ con tăng lên khá nhiều.
Ba ngày sau bắt đầu những chuyến đi chơi chung, thường là một phần bằng tàu hoả chạy trên đường ray hẹp – những đường ray mà người Anh đã xây dựng khá nhiều ở Mêđinét Em Phaium – một phần bằng lừa, và đôi khi bằng lạc đà. Hoá ra, mặc dù trong những lời ca ngợi mà Iđrix dành cho những con vật này dẫu có nhiều phần khoác lác, bởi không những hạt đậu mà thậm chí ngay cả con người cũng chật vật lắm mới ngồi yên được trên lưng chúng, song vẫn có phần đúng. Số lạc đà này dĩ nhiên là thuộc loại lạc đà để cưỡi, và vì chúng được nuôi dưỡng khá đầy đủ bằng ngô địa phương hoặc ngô Xiri nên bướu của chúng rất nhiều mỡ và chúng chạ y rất hăng, đến mứ c cần phải ghìm bớt chúng lại. Hai gã người Xuđan là Iđrix và Ghebơrơ đã lấy được lòng tin và tình cảm của mọi người (mặc dù mắt họ đôi khi loáng lên những ánh hoang dã), và điều đó chủ yếu là do sự tuân thủ hết mực cùng sự chăm lo rất tận tình dành cho Nen. Ghebơrơ lúc nào cũng có vẻ mặt tàn ác và hơi thú vật, song Iđrix thì nhanh chóng nhận ra rằng cô bé là nhân vật được yêu quý nhất trong cả đoàn, nên mỗi khi có dịp là y lại tìm cách chứng tỏ rằng y lo lắng cho cô chủ hơn lo cho chính “linh hồn” của mình. Dĩ nhiên ông Rôlixơn hiểu được rằng, thông qua Nen, Iđrix muốn lần đến túi tiền của ông, nhưng vốn cho rằng, trên đời này không có một ai có thể không yêu mến cô con gái một của ông, ông vẫn biết ơn y và không tiếc tiền.
Trong vòng năm ngày, họ đã đi tham quan những di tích của thành phố cổ đại Crôcôđilôpôlix nằm gần thành phố, nơi đó ngày xưa những người Ai Cập thờ một vị thần tên là Xêbắc, thần có mình người nhưng đầu cá sấu. Chuyến du lịch tiếp đó là chuyến đi tới kim tự tháp Hanarơ và thăm các di tích mê cung, song chuyến đi dài nhất và toàn bằng lạc đà là chuyến đi tới hồ Cairôun. Bờ phía bắc của hồ là sa mạc mênh mông, trên đó, ngoài di tích của các thành phố thuộc Ai Cập cổ đại, không còn một dấu vết nào khác của sự sống. Ngược lại, về phía Nam là một miền đất phì nhiêu và tuyệt vời; ngay bên bờ hồ, mọc đầy thạch thảo và lau sậy, là hàng đàn bồ nông, hồng hạc, diệc, ngỗng trời và vịt trời. Tại đây, Xtas có dịp để biểu diễn tài thiện xạ của mình. Bằng khẩu súng săn thông thường bắn đạn chì không có rãnh khương tuyến cũng như bằng khẩu súng săn bắn đạn viên với nòng có rãnh xoắn, những phát đạn của em tuyệt vời đến nỗi sau mỗi tiếng nổ dường như đều nghe thấy tiếng tắc lưỡi kinh ngạc của Iđrix và những người Ả Rập chèo thuyền, và những con chim bị bắn rơi xuống nước bao giờ cũng đi kèm với tiếng kêu không đổi: Tuyệt! Tuyệt vời!
Những người dân Ả Rập đoán chắc rằng ở phía bờ “sa mạc” bên kia có rất nhiều chó sói và linh cẩu, và chỉ cần ném một xác cừu ra cồn cát là có thể chắ c chắn săn được thú rồi. Do nghe theo những lời cam đoan ấy, ông Tarcôpxki và Xtas thức hai đêm liề n ngoài sa mạc, gần các di tích của Đine. Nhưng con cừu đầu tiên bị dân Bêđuin cuỗm mất, ngay sau khi những người thợ săn vừa quay gót, còn con cừu thứ hai chỉ dụ được mỗi một con lang núi thọt chân và liền bị Xtas hạ ngay. Những chuyến đi săn tiếp theo phải tạm thời hoãn lại, vì hai kĩ sư đã đến lúc phả i lên đường đi kiểm tra các công trình thuỷ lợi tiến hành ở sông Bahơrơ Duxép,gần En Lahum, về phía Đông Nam Mêđinét.
Ông Rôlixơn chỉ chờ cô Oliviơ đến. Chẳng may, thay vì cô gia sư là một lá thư của bác sĩ, trong đó báo tin rằng, những vết han đỏ trên mặt lại xuất hiện sau khi bị bọ cạp đốt, và trong một thời gian dài nữa, người bệnh không thể rời khỏi Port Xaiđơ được. Tình thế trở nên khá rắc rối. Mang theo cả bọn trẻ, bà Đina, lều trại cùng toàn bộ đám gia nhân là điều không thể thực hiện được, chí ít cũng vì lí do đơn giản là các kĩ sư phải nay đây mai đó, và thậm chí họ có thể được lệnh phải đi đến tận kênh đào lớn Ibrahim. Vì vậy, sau một cuộc bàn bạc ngắn, ông Rôlixơn quyết định để Nen ở lại dưới sự chăm sóc của bà Đina và Xtas, cùng với viên đại diện cho toà lãnh sự Italia và viên thống đốc của địa phương, mà trước đó ông đã làm quen. Ông cũng hứa với Nen – cô bé tiếc vì phải chia tay với cha – rằng cùng với ông Tarcôpxki, ông sẽ từ những địa điểm là m việc ở gần đấy ghé về Mêđinét, hoặc nếu tìm thấy gì đáng tham quan, thì họ sẽ gọi bọn trẻ đến nơi ấy.
– Ba và bác sẽ mang theo Khamix, – ông nói, và nếu cần thiết thì sẽ cử anh ta trở lại đón các con. Bà Đina lúc nào cũng phải đi kèm Nen, nhưng vì với bà Nen có thể làm mọi chuyện theo ý mình, nên cháu, Xtas, cháu phải canh chừng cho cả hai nhé.
– Bác có thể tin chắc rằng, – Xtas đáp, – cháu sẽ trông nom em Nen như em gái của cháu. Em có Xaba, cháu có khẩu súng săn, thách kẻ nào dám đụng tới em.
– Không phải bác muốn nói chuyện đó. – ÔngRôlixơn nói. – Chắc chắn là các con sẽ không cần tới Xaba cũng như khẩu súng săn. Chỉ cần cháu làm ơn trông chừng cho em khỏi mệt nhọc quá, và cẩn thận chớ để cho em bị cảm lạnh. Bác đã yêu cầu ông lãnh sự, hễ khi nào em cảm thấy không được khoẻ lắm thì ông ta sẽ mời bác sĩ từ Cairô đến. Bác và ba cháu sẽ thường xuyên phái Khamix về đây để lấy tin tức. Ngài thống đốc của địa phương cũng sẽ tới thăm các con. Thêm nữa, bác đồ rằng, ba cháu và bác sẽ chẳng khi nào vắng mặt lâu lâu.
Ông Tarcôpxki cũng không tiếc lời căn dặn Xtas. Ông nói với em rằng Nen không cần tới sự bảo vệ của em, vì rằng ở Mêđinét cũng như trong toàn tỉnh En Phaium không có những người dã man, cũng không hề có thú dữ. Thật là một chuyện tức cười và không xứng đáng với một thiếu niên chẳng bao lâu sẽ hết tuổi mười bốn nếu nghĩ như thế. Chỉ cần em ân cần và thận trọng, chớ tự ý một mình, hoặc cùng với Nen tiến hà nh một chuyến du lịch nào, nhất là bằng lạc đà, vì việc cưỡi lạc đà bao giờ cũng khiến cho người ta mệt mỏi.
Nghe thấy thế, Nen làm ra vẻ buồn bã, khiến ông Tarcôpxki phải an ủi cô.
– Dĩ nhiên, – ông vừa nói vừa vuốt mái tóc cô bé – các con có thể cưỡi lạc đà, nhưng chỉ khi nào có mặt chúng ta, hoặc khi đến với chúng ta, nếu Khamix được phái đến đón các con.
– Thế chúng con không được phép du lịch, dù chỉ là những chuyến đi chút chút ngần này hay sao ạ?
– Cô bé hỏi.
Và cô bé đưa ngón tay nhỏ bé chỉ mức độ bé nhỏ của những chuyến du lịch ấy. Cuối cùng hai ông bố đồng ý rằng, chúng có thể đi chơi bằng lừa, chứ không phải bằng lạc đà, và không được đến các di tích cổ, nơi chúng dễ dàng lọt xuống một cái hang hốc nào đó, mà chỉ được phép đi chơi trên đường cái tại những cánh đồng lân cận, và tới những khu vườn nằm ngoài thành phố mà thôi.
Người thông ngôn cùng với một nhân viên phục vụ của công ti Cúc sẽ có nhiệm vụ luôn luôn đi kèm bọn trẻ.
Sau đó, hai ông ra đi, nhưng chỉ đi gần thôi, đến Hamarét En Macta, nên chỉ sau mười giờ đồng hồ họ lại quay trở về Mêđinét nghỉ đêm. Chuyện đó lặp đi lặp lại trong vài ngày, cho tới khi họ kiểm tra hết công việc ở những địa điểm gần nhất. Sau đó, khi công việc ở xa hơn, nhưng vẫn chưa phải ở những địa phương quá xa, thì đêm đêm, Khamix quay trở về, và sáng sớm hôm sau đưa Xtas và Nen tới những thị trấn nhỏ, mà cha chúng muốn cho chúng tham quan một chốn nào đó thú vị. Phần lớn thì giờ ban ngày, bọn trẻ sống cùng với cha, gần tối, chúng quay trở về Mêđinét, về lại khu lều trại. Cũng có những ngày Khamix không quay lại, và khi đó, mặc dù có Xtas và Xaba làm bạn – càng ngày cô bé càng phát hiện ra ở con vật những đứ c tính mới – song Nen vẫn cứ trông ngóng người liên lạc ấy đến. Cứ như thế, thời gian trôi đi đến lễ Ba Vua, khi cả hai kĩ sư quay về Mêđinét nghỉ lễ.
Hai ngày sau họ lại ra đi, nói rằng lần này sẽ đi lâu hơn, và có lẽ sẽ tới tận Beni Xuép, từ đó tới En Phakhen, nơi bắt đầu con kênh đào cùng tên rồi đi mãi về phía Nam dọc theo sông Nin.
Vì vậy, bọn trẻ con vô cùng ngạc nhiên, khi vào hôm thứ ba, quãng chừng mười một giờ trưa, chúng thấy Khamix xuất hiện tại Mêđinét. Xtas là người đầu tiên gặp anh ta khi em đi tới bãi chăn nuôi ngắm lạc đà. Khamix đang nói chuyện với Iđrix và chỉ nói vắn tắt với Xtas rằng anh ta về để đón em và Nen, rằng anh ta sẽ tới ngay khu lều để báo rõ địa điểm mà các ông chủ bảo bọn trẻ phải đến. Cậu bé lập tức lao đi, mang tin vui về cho Nen, và gặp Nen đang đùa nghịch với Xaba trước lều.
– Em biết không? Khamix tới rồi! – Ngay từ xa cậu bé đã kêu lên.
Thế là Nen bắt đầu nhảy cẫng cả hai chân lên, như kiểu bọn con gái thường nhảy dây.
– Ta đi đi! Ta đi đi!
– Phải, chúng ta sẽ lên đường, và đi xa đấy.
– Đi đâu hả anh? – Cô bé hỏi, lấy hai tay gạt mớ tóc xoã vào mắt.
– Không biết. Khamix bảo rằng lát nữa sẽ tới báo.
– Sao anh biết là đi xa?
– Anh nghe Iđrix nói rằng, ông ta và Ghebơrơ sẽ cùng đoàn lạc đà lên đường ngay lập tức. Thế có nghĩa là chúng ta sẽ đi tàu lửa và sẽ gặp lạc đà tại nơi hai ba đón chú ng ta, rồi từ đó chắc chúng ta sẽ đi tham quan ở một nơi nào khác.
Cô bé nhảy liên tục, những sợi tóc xoà xuống không những che riêng mắt mà cả mặt cô bé, còn đôi chân thì nẩy bật trên mặt đất như bằng cao su vậy.
Mười lăm phút sau, Khamix tới, cúi chào hai trẻ:
– Thưa cậu chủ, – y nói với Xtas, – ba giờ nữa chúng ta sẽ đi chuyến tàu đầu tiên.
– Tới đâu?
– Tới En Garắc Xuntani, rồi từ đó, cùng với các ông chủ đi lạc đà tới Vađi Raian.
Trái tim Xtas rộn lên vì vui sướng, song đồng thời những lời của Khamix cũng khiến em ngạc nhiên. Em biết rằng, Vađi Raian là một vành đai rộng lớn của các quả đồi cát nổi lên trên sa mạc Libi, về phía Nam và Tây Nam Mêđinét, trong khi đó ông Tarcôpxki và ông Rôlixơn khi ra đi lại nói rằng họ đi theo hướng hoàn toàn ngược hẳn lại, tức là về phía sông Nin.
– Có chuyện gì xảy ra vậy? – Xtas hỏi. – Thế cha tôi và bác Rôlixơn không phải đang ở Beni Xuép mà lại ở En Garắc ư?
– Sự tình lại diễn ra thế đấy ạ! – Khamix đáp.
– Thế sao cha tôi lại bảo viết thư cho Người thì gửi về En Phakhen?
– Các ông chủ viết cả trong bức thư này lí do tại sao lại đang ở En Garắc. Y tìm trong người bức thư một lúc, rồi kêu lên:
– Ôi, Đấng tiên tri! Tôi để quên bức thư trong cái túi ở chỗ những tay quản lạc đà rồi. Tôi phải đi ngay kẻo Iđrix và Ghebơrơ đi mất thì hỏng.
Và y chạy ngay tới chỗ những người chủ lạc đà, trong khi đó, bọn trẻ cùng với bà Đina chuẩn bị lên đường. Vì có lẽ sẽ là một chuyến đi chơi dài, nên bà Đina gói ghém vài chiếc áo dài, một ít đồ lót và mang một bộ quần áo ấm hơn cho Nen. Xtas cũng sửa soạn cho mình, em không quên mang theo khẩu súng và đạn dược, vì hi vọng rằng sẽ đụng độ với lũ chó sói và linh cẩu tại những gò cát Vađi Raian.
Mãi một tiếng đồng hồ sau, Khamix mới quay lại, người đẫm mồ hôi, thở hổn hà hổn hển, đến nỗi một lúc lâu không nói được nên lời.
– Tôi không tìm thấy những người chủ lạc đà nữa, – y nói, – tôi chạy đuổi theo họ, nhưng chẳng được ích gì. Song cũng chẳng sao, đến En Garắc chúng ta sẽ tìm được cả thư lẫn các ông chủ thôi mà. Liệu bà Đina có cần phải đi với chúng ta không ạ? Có thể tốt hơn là bà ấy ở lại nhà. Các ông chủ có nói gì tới bà ta đâu?
– Nhưng khi ra đi ông chủ bảo rằng lúc nào bà Đina cũng phải đi cùng với cô chủ, vậy thì bây giờ bà ấy cũng sẽ đi cùng.
Khamix khom người xuống, đặt tay lên trái tim và nói:
– Chúng ta phải mau lên, thưa ông chủ, nế u không tầu hoả sẽ chạy mất.
Đồ đạc sẵn sàng nên cả bọn tới ga vừa kịp giờ. Khoảng cách từ Mêđinét tới Garắc không vượt quá ba mươi cây số, nhưng tầu hoả trên con đường nhánh nối hai địa điểm đó chạy rất chậm và lại đỗ rất nhiều lần. Giá như có một mình, thì hẳn là Xtas đã chọn cách đi lạc dà chứ không đời nào chịu ngồi tầu, vì em tính rằng, Iđrix và Ghebơrơ, xuất phát trước tầu hoả hai tiếng đồng hồ, hẳn sẽ đến En Garắc trước chú ng. Song, đối với Nen, con đường đó quá dài, nên anh chàng đỡ đầu trẻ tuổi, người đã ghi tâm khắ c cốt những lời căn dặn của hai ông bố, không muốn làm cô bé bị mệt.
Và nói cho cùng, thời gian trôi qua đối với hai đứa cũng nhanh đến nỗi, ngoảnh đi ngoảnh lại, chú ng đã tới Garắc rồi.
Cái ga xép, mà những người Anh thường dùng làm nơi xuất phát đi thăm Vađi Raian, vắng tanh vắng ngắt. Bọn trẻ chỉ gặp có vài người đàn bà mang những giỏ quýt, hai người đàn ông Bêđuin,những chủ lạc đà không quen biết, cùng Iđrix và Ghebơrơ với bảy con lạc đà, trong đó một con thồ nặng hàng. Còn chẳng thấy bóng dáng ông Tarcôpxki và ông Rôlixơn đâu cả.
Nhưng Iđrix giải thích sự vắng mặt của họ như sau:
– Hai ông chủ đi vào sa mạc để dựng lều mà người ta đã chở từ Etxa tới, các ông chủ ra lệnh bảo chúng ta đi sau.
– Làm sao ta có thể tìm được họ trong vù ng đồi núi này? – Xtas hỏi.
– Các ông chủ đã phái tới đây những người dẫn đường để đưa chúng ta đi.
Vừa nói thế hắn vừa trỏ hai người Bêđuin. Người già hơn trong hai người đó cúi chào, đưa tay lau con mắt độc nhỡn, và nói:
– Lạc đà của chúng tôi không béo bằng lạc đà của các ông, nhưng chạy chẳng kém đâu. Chỉ một giờ đồng hồ là chúng ta tới nơi thôi.
Xtas rất vui thích vì sẽ được ngủ đêm giữa sa mạc, nhưng Nen cảm thấy hơi thất vọng, vì trước đó cô bé cứ đinh ninh rằng sẽ được gặp cha ở Garắc.
Lúc đó, viên trưởng ga, một người Ai Cập ngái ngủ, đội mũ phêđơ màu đỏ và mang kính đen, tiến lại gầ n, và vì chẳng có việc gì làm, ông ta bắt đầu ngắm nghía bọn trẻ người Âu.
– Đây là con của các người Anh mà sáng hôm nay đã mang súng săn đi trước vào sa mạc. – Iđrix vừa nói vừa đặt Nen lên yên.
Đưa khẩ u súng cho Khamix cầm, Xtas leo lên ngồi bên Nen, vì cái yên rộng rãi, có dáng một cái bành, có điều là không có mái che. Bà Đina ngồi sau lưng Khamix, những người khác cũng leo lên lạc đà và tất cả lên đường.
Giá như viên trưởng ga dõi theo họ lâu hơn một chút, hắn là ông ta sẽ thấy ngạc nhiên, vì những người Anh mà Iđrix vừa nói tới đã đi thẳng về phía di tích cổ, tức là về phía Nam, còn họ lại hướng về phía Talea, nghĩa là về phía ngược lại. Song trước đó, viên trưởng ga đã quay về nhà rồi, vì hôm đó không còn đoàn tàu nào tới Garắc nữa.
Đã năm giờ chiều. Thời tiết thật là tuyệt diệu. Mặt trời đã ngả sang bên kia sông Nin và xuống thấp trên sa mạc, chìm vào trong những ráng chiều màu vàng và đỏ rực đang cháy lên ở phía trời Tây. Không khí dường như chứa chan những ánh hồng, khiến mắt người phải nheo lại vì ánh sáng quá thừa thãi. Đồng ruộng nhuốm màu tim tím, còn những rặng núi xa xa, nổi bật trên nền ráng chiều, lại có màu thạch anh tím ngắt. Thế giới mất đi những đường nét thực và dường như chỉ còn là một trò đùa của những ánh sáng từ thiên giới mà thôi.
Khi họ còn đi qua những vùng đồng ruộng xanh tươi có trồng cây thì những người Bêđuin dẫn đường cho đoàn lạc đà đi những bước khoan thai, nhưng ngay khi dưới gót chân lạc đà bắt đầu rin rít tiếng cát cứng thì mọi thứ đều thay đổi ngay lập tức.
– Yalla! Yalla!1 – Những tiếng kêu man rợ bỗng rú lên. Đồng thời nghe thấy tiếng rít của những chiếc roi vụt xuống, và đàn lạc đà, chuyển từ nước kiệu sang nước đại, bắt đầu lao đi như một cơn lốc, vó chúng làm bắn tung cát và sỏi sa mạc.
– Yalla! Yalla!
Nước kiệu của lạc đà xóc hơn, còn nước đại bước chạy mà chúng ít khi dùng – lại lắc lư nhiều hơn, nên ban đầu lũ trẻ thích chí với cuộc chạy điên cuồng này. Nhưng sự tròng trành quá nhanh, ngay cả khi chơi đu, cũng dễ khiến cho người ta chóng mặt.
Vì vậy, một lát sau, khi nhịp chạy không hề giảm bớt đi, cô bé Nen bắt đầu thấy quay cuồng trong đầu và hoa mắt.
– Anh Xtas này, tại sao ta lại phóng ác thế anh?
– Cô bé vừa kêu lên vừa quay lại phía người bạn của mình.
– Anh nghĩ rằng bọn họ đã thúc lũ lạc đà chạy quá nhanh, bây giờ không thể hãm bớt chúng lại được. – Xtas đáp.
Song nhận thấy rằng, giờ đây, nét mặt của cô bé hơi tái đi, Xtas bắt đầu gọi những người Bêđuin đang phóng như bay phía trước để bảo họ chậm bớt lại. Song tiếng gọi của em chỉ mang lại mỗi một kết quả duy nhất la khiến cho tiếng kêu: Yalla lại vang lên, và đàn súc vật càng tăng thêm tốc độ.
Lúc đầu, cậu bé ngỡ rằng những người Bêđuin không nghe thấy tiếng gọi của em, song khi tiếng gọi lần sau cũng không được một lời đáp lại, còn gã Ghebơrơ phi sau em vẫn không ngừng quất roi vào con lạc đà mà em và Nen đang cưỡi, thì em lại nghĩ rằng, có lẽ không phải do lạc đà hăng máu, mà rõ ràng là do bọn người này đang rất vội vã, vì một nguyên do nào đó không rõ.
Em thoáng nghĩ rằng, có thể do họ đi lạc đường, bây giờ họ muốn rút bớt thời gian đã mất nên họ mới phóng nhanh như thế, vì sợ rằng các ông chủ sẽ quở phạt họ về quá muộn. Song chỉ lát sau em hiểu rằ ng, điều đó không đúng, bởi lẽ, hẳn là ông Rôlixơn sẽ giận hơn nhiều nếu bọn họ làm Nen bị mệt. Vậy thì chuyện này là nghĩa lí gì? Tại sao họ không tuân theo lệ nh của em. Trái tim cậu bé bắt đầu nổi lên cơn giận và nỗ i lo lắng cho Nen.
– Dừng lại! – Em lấy hết sức thét lên, quay người lại phía Ghebơrơ.
– Ouxkout (câm mồm)! – Tên Xuđan quát lên đáp lại. Và chúng tiếp tục phóng đi.
Ở Ai Cập, đêm buông xuống vào khoảng sáu giờ, ráng chiều tắt dần, rồi lát sau trên bầu trời hiện lên vầng trăng to tướng, đỏ bầm vì nhuốm sắc ráng chiều, trải xuống sa mạc làn ánh sáng dìu dịu.
Trong tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng thở hồng hộc của lũ lạc đà, tiếng móng chân chúng nện gấp gáp và câm lặng xuống mặt cát, thỉnh thoảng tiếng roi vút. Nen mệt đến nỗi Xtas phải giữ em trên yên. Cứ chốc chốc cô bé lại hỏi đã sắp tới chưa, rõ ràng, em chỉ ước mong làm sao chóng được gặp cha. Nhưng chúng chỉ hoài công dõi nhìn bốn chung quanh. Một giờ trôi qua, rồi giờ nữa, không hề thấy bóng lều trại và đống lửa nào cả.
Lúc ấy, Xtas bất chợt “dựng đứng” tóc trên đầu; em hiểu ra rằng bọn em đã bị bắt cóc.
———————-
1 Yalla – tiếng kêu thúc giục lạc đà của người Ả Rập.
Quả thực, ông Rôlixơn và Tarcôpxki đang trông chờ bọn trẻ, nhưng không phải giữa những đồi cát Vađi Raian, nơi mà họ hoàn toàn không cần và cũng không hề muốn tới làm gì, mà tại một phía khác hẳn, tại thành phố En Phakhen, trên con kênh cùng tên, nơi họ đang theo dõi những công việc được tiến hành trong những ngày cuối năm. Tính theo đường thẳng, khoảng cách giữa En Phakhen và Mêđinét vào khoảng bốn mươi lăm cây số. Song do không có đường nối trực tiếp, mà cần phải đi tới En Vaxta, khiến đường xa gấp đôi, nên khi xem xét cuốn hướng dẫn về đường sắt, ông Rôlixơn đã tính toán như sau:
– Khamix ra đi vào buổi chiều, – ông nói với ông Tarcôpxki, – ở En Vaxta, anh ta sẽ đi chuyến tầu chạy từ Cairô tới, nghĩa là sáng nay anh ta sẽ tới Mêđinét. Bọn trẻ sẽ gói ghém hành trang chừng một tiếng đồng hồ. Ra đi từ trưa, hẳn chúng sẽ phải đợi chuyến tầu đêm đi dọc sông Nin, nhưng vì tôi không cho phép Nen đi đêm, nên chắc sáng nay chúng nó mới lên đường, và sẽ tới đây một lúc sau khi mặt trời lặn.
– Phải! – Ông Tarcôpxki nói. – Khamix phải nghỉ ngơi tí chút, thằng Xtas dẫu bao giờ cũng sốt sồn sột, nhưng nếu nói về cháu Nen, thì có thể tin ở thằng bé được anh ạ. Thêm nữa, tôi cũng đã gửi cho nó mẩu giấy dặn nó không được đi đêm.
– Thằng bé khá lắm, tôi hoàn toàn tin tưởng ở cháu. – Ông Rôlixơn đáp.
– Nói thật tình, tôi cũng vậy anh ạ. Tuy có nhiều nhược điểm, song Xtas có tính cách và không bao giờ nói dối, bởi cháu vốn dũng cảm, mà chỉ có bọn hèn nhát mới dối trá mà thôi. Cháu cũng không thiếu nghị lực, và nếu như thỉnh thoảng cháu biết cân nhắc chín chắn, thì tôi nghĩ rằ ng nó sẽ tự lập được trong cuộc sống.
– Chắc chắn là như vậy rồi. Còn nếu nói chuyện suy nghĩ chín chắn, thì hồi ở tuổi nó anh có chín chắn không?
– Phải thừa nhận là không, – ông Tarcôpxki vừa cười vừa đáp.
– Song, có thể, tôi không quá tự tin như nó.
– Rồi chuyện đó cũng qua thôi. Anh có thể lấy làm hạnh phúc vì có đứa con trai như thế.
– Còn anh thì vì có được một sinh linh dịu ngọt và đáng yêu như Nen.
– Cầu Chúa ban phước lành cho con bé! – ÔngRôlixơn xúc động đáp.
Hai người bạn thân siết chặt tay nhau, rồi họ cùng ngồi xem xét lại kế hoạch và bản hạch toán công việc. Công việc đó kéo dài mãi tới chiều.
Sáu giờ tối, lúc màn đêm đã buông xuống, họ có mặt trên sân ga, và vừa đi tản bộ dọc theo đường ke vừa nói tiếp chuyện bọn trẻ.
– Thời tiết tuyệt thật, nhưng hơi lạnh. – Ông Rôlixơn cất tiếng. – Không hiểu Nen có mang theo quần áo ấm hay không?
– Xtas hẳn sẽ nhớ điều đó, cả bà Đina cũng vậy.
– Tôi tiếc là đã không đi Mêđinét mà lại đưa chúng tới đây.
– Anh có nhớ là chính tôi đã khuyên thế không nào?
– Nhớ chứ. Nhưng giá như từ đây chúng ta không tiếp tục đi xuống phía Nam thì hẳn là tôi đã đồng ý với anh. Tôi tính rằng, việc đi đường sẽ làm chúng ta mất nhiều thời gian, khiến chú ng ta ở với bọn trẻ được ít hơn. Cũng xin thú thực với anh là chính Khamix đã gợi ý cho tôi nên đưa bọn trẻ tới đây. Anh ta nói với tôi rằng anh ta rất nhớ bọn trẻ và sẽ rất sung sướng nếu được tôi phái đi đón chúng. Thật cũng dễ hiểu vì sao anh ta lại gắn bó với bọn trẻ…
Câu chuyện bị gián đoạn bởi những tín hiệu báo rằng đoàn tàu đang tới gần. Lát sau, trong màn đêm hiện ra cặp mắt màu lửa của đầu máy, đồng thời nghe rõ tiếng còi cùng tiếng thở gấp gáp của nó.
Dẫy toa sáng ánh đèn trườn dọc theo đường ke, rùng rùng rồi dừng lại.
– Tôi chẳng thấy chúng ở cửa sổ nào hết. – Ông Rôlixơn nói.
– Có thể chúng nó ngồi phía trong và chắc chúng sẽ ra ngay bây giờ.
Hành khách bắt đầu xuống tầu, nhưng chủ yếu là người Ả Rập, vì ngoài các vườn cọ và xiêm gai ra, En Phakhen không có gì đáng để tham quan cả. Không thấy bọn trẻ xuống tầu.
– Hoặc là Khamix không đi kịp tầu ở En Vaxta, – ông Tarcôpxki cất tiếng với vẻ hơi bự c mình, – hoặc là sau chuyến đi đêm hắn ta ngủ bù, và cả bọn ngày mai mới tới.
– Có thể, – ông Rôlixơn đáp với vẻ lo lắng, nhưng cũng có thể là có đứa nào đó bị ốm chăng?
– Nếu thế thì hẳn là Xtas đã đánh điện.
– Biết đâu chúng mình lại sẽ nhận được điện ở khách sạn thì sao.
– Ta đi đi.Nhưng tại khách sạn không hề có tin tức nào đang đợi họ cả. Ông Rôlixơn mỗi lúc một thêm lo lắng.
– Anh biết còn có thể thế nào nữa không? – Ông Tarcôpxki nói, – Có thể là, nếu như Khamix ngủ quên, y sẽ không thừa nhận với bọn trẻ chuyện đó, mà mãi ngày hôm nay mới đến chỗ chúng bảo rằng ngày mai chúng lên đường. Trước mặt chúng ta chắc y sẽ bào chữa là y không hiểu kĩ mệnh lệnh của chúng ta. Dù sao tôi cũng phải điện cho Xtas đây.
– Còn tôi sẽ điện cho ngài thống đốc của Phaium.
Lát sau, cả hai bức điện được gửi đi. Tuy vẫn chưa có lí do gì để phải lo lắng, song trong khi chờ trả lời, cả hai kĩ sư đêm đó ngủ không ngon giấc và tờ mờ sáng hôm sau họ đã bật dậy.
Mãi gần mười giờ sáng mới có điện trả lời của ông thống đốc với nội dung như sau:
“Đã kiểm tra ở ga. Bọn trẻ đã đi Garắc En Xuntani ngày hôm qua”.
Để đoán được cái tin tức này đã khiến hai ông bố kinh ngạc và giận dữ biết chừng nào. Họ nhìn nhau một lúc lâu dường như không hiểu được lời lẽ của bức điện, sau đó ông Tarcôpxki, vốn là người nó ng nẩy, đập tay xuống bàn nói:
– Đây hẳn là sáng kiến của thằng Xtas thôi, nhưng tôi sẽ dạy cho nó phải từ bỏ những sáng kiến kiểu này đi!
– Tôi không ngờ nó lại làm việc đó. – Ông bố của Nen nói. Rồi lát sau ông hỏi:
– Thế còn Khamix thì sao?
– Hoặc là hắn không gặp bọn trẻ và không biết nên làm thế nào, hoặc là hắn cũng cùng đi với chúng.
– Tôi cũng nghĩ thế.
Một giờ sau, họ lên đường đi Mêđinét. Tại khu lều trại, họ được biết rằng cả bọn chủ lạc đà cũng không có mặt, còn tại ga người ta khẳng định rằng Khamix cùng đi với bọn trẻ tới En Garắc.
Mãi đến ga này, cái sự thật kinh khủng mới bắt đầu lộ ra.
Viên trưởng ga, chính người Ai Cập ngái ngủ mang cặp kính đen và đội mũ phêđơ màu đỏ ấy, trả lời cho họ biết, rằng ông ta trông thấy một đứa bé trai chừng mười bốn tuổi, cùng một em gái chừng tám tuổi và một người đàn bà da đen không còn trẻ nữa đi vào sa mạc. Ông ta không nhớ rõ tổ ng số lạc đà là tám hay chín con, nhưng có một con thồ nặng hàng, dường như chuẩn bị đi xa vậy, còn hai người Bêđuin cũng có hai bọc hàng lớn trên yên. Ông ta còn nhớ được rằng khi ông ta đang đứng quan sát đoàn người và vật nọ, thì một người Xuđan là chủ lạc đà nói rằng, đây là con của những người Anh đã đi Vađi Raian trước đó.
– Thế những người Anh ấy đã trở về chưa? – Ông Tarcôpxki hỏi.
– Đã về rồi ạ. Họ trở về ngay ngày hôm qua với hai con chó sói săn được. – Người trưởng ga đáp. -Tôi cũng ngạc nhiên là tại sao họ không về cùng bọn trẻ. Nhưng tôi không hỏi họ lí do, vì chuyện đó không liên quan đến tôi.
Nói xong, ông ta đi làm công việc của mình.
Trong khi ông ta kể, mặt ông Rôlixơn trắng nhợt ra như tờ giấy. Đưa cặp mắt không hồn nhìn sang bạn, ông bỏ mũ phớt, đưa bàn tay lên vầng trán đẫm mồ hôi, và lảo đảo như sắp ngã.
– Anh Rôlixơn, hãy cứng rắn lên nào! – Ông Tarcôpxki kêu lên. – Bọn trẻ của chúng mình bị bắt cóc rồi! Cần phải cứu chúng.
– Nen! Nen ơi! – Ông bố người Anh bất hạnh cứ lặp đi lặp lại.
– Nen và Xtas! Đó đâu phải là lỗi Xtas. Chúng nó đã lừa hai đứa tới đây một cách hèn hạ và bắt cóc chúng đi. Ai biết được vì sao cơ chứ?Để tống tiền chăng? Rõ ràng thằng Khamix là đồng loã. Iđrix và Ghebơrơ cũng thế.
Đến đây, ông chợt nhớ ra điều mụ Phátma nói, rằng cả hai tên Xuđan này đều thuộc về bộ tộc Dangan đã sinh ra Mahơđi.
Nhớ ra điều đó, tim ông như chết lặng giây lâu trong lồng ngực, vì ông chợt hiểu ra rằng, bọn trẻ có thể không phải bị bắt để tống tiền mà là để đánh đổi với gia đình Xmainơ.
Nhưng bọn đồng tộc của tên tiên tri tàn ác kia sẽ làm gì bọn trẻ cơ chứ? Chúng không thể ẩn náu trong sa mạc hoặc đâu đó dọc bờ sông Nin, vì trên sa mạc thì tất cả sẽ bị chết đói chết khát, còn dọc sông Nin thì chắc chắn là sẽ bị bắt ngay. Có lẽ, chúng mang theo bọn trẻ chạy đến với Mahơđi rồi.
Ý nghĩ ấy cũng khiến ông Tarcôpxki kinh hoàng, song người cựu binh đầy nghị lực này nhanh chóng định thần và bắt đầu lược qua tất cả các sự kiện đã diễn ra, đồng thời tìm phương sách ứng cứu.
“Mụ Phátma, – ông suy nghĩ, – không có lí do gì để trả thù chúng ta cũng như bọn trẻ con chúng ta, vậy thì nếu chúng nó bị bắt cóc hẳn là để nộp cho Xmainơ. Dù sao chăng nữ a, chúng cũng không bị cái chết đe doạ. Đó quả là cái may trong cái rủi. Song đang có một con đường kinh khủng chờ bọn trẻ, con đường có thể là tử đạo đối với chúng”.
Ông lập tức chia sẻ với bạn những suy nghĩ của mình rồi nói:
– Iđrix và Ghebơrơ, vốn là những kẻ hoang dã và ngu ngốc, tưởng rằng những đạo quân của Mahơđi đã ở gần đây, trong khi đó Kháctum, thành phố Mahơđi chưa đến được, còn cách đây những hai nghìn cây số. Chúng nó sẽ phải vượt quãng đường này bằng cách đi dọc sông Nin và không tách xa nó, nếu không, người và lạc đà sẽ chết gục vì khát. Anh hãy đi ngay tới Cairô và yêu cầu phó vương gửi điện tới tất cả các đồn binh, đồng thời truy đuổi ngay bên tả ngạn và hữu ngạn dọc theo dòng sông. Hãy hứa thưởng thật hậu cho các tù trưởng ven sông nếu như bắt được bọn đang chạy trốn. Hãy bắt giữ tất cả những ai đến gần các làng mạc để xin nước. Bằng cách ấy, chắc chắn Iđrix và Ghebơrơ sẽ lọt vào tay chính quyền, còn chúng ta sẽ đoạt lại được bọn trẻ.
Ông Rôlixơn đã lấy lại được bình tĩnh.
– Tôi sẽ đi ngay đây, – ông nói. – Lũ đểu cáng này quên rằng quân đội Anh quốc của Vônđơlây đi cứu viện cho tướng Goócđôn đã lên đường và sẽ chặn đường chúng đến với Mahơđi. Chúng không thoát đâu. Chú ng không thể thoát nổi. Tôi sẽ điện ngay cho bộ trưởng của chúng ta rồi sẽ lên đường. Còn anh định sẽ làm gì?
– Tôi sẽ điện xin nghỉ phép, và không cần chờ phúc đáp, tôi sẽ lên đường ngay theo vết bọn chúng dọc sông Nin đến Nubia để đốc thúc thêm vào việc đuổi bắt.
– Thế nghĩa là chúng ta nhất định sẽ gặp nhau, vì từ Cairô tôi cũ ng sẽ làm như thế.
– Được lắm! Bây giờ vào việc thôi.
– Cầu Chúa phù hộ! – Ông Rôlixơn đáp.