Trên sa mạc và trong rừng thẳm - Chương 3 – 4

Tối hôm sau, cả hai kĩ sư lên đường đi Cairô. Tại đó, họ sẽ tới thăm thống sứ Anh và vào yết kiến phó vương. Xtas tính rằng, có thể chuyện đó sẽ khiến họ mất chừng hai ngày, và quả thật, những tính toán của em rất chính xác, vì chiều hôm thứ ba, em nhận được một bức điện của cha, đánh từ Mêđinét, với nội dung như sau: “Lều trại đã sẵn sàng. Các con, hãy đi ngay sau khi con bắt đầu được nghỉ. Báo cho Phátma thông qua Khađigi biết là chúng ta không làm gì được cho chị ta…”. Cô Oliviơ cũng nhận được một bức điện tương tự, và với sự giúp đỡ của bà da đen Đina, cô bắt đầu tiến hành việc chuẩn bị để lên đường.

Chỉ riêng cảnh chuẩn bị thôi cũng đã làm cho trái tim bọn trẻ náo nức vui sướng. Bỗng nhiên một chuyện không lành xảy ra suýt nữa khiến cho mọi dự định đều bị đảo lộn, thậm chí có thể chuyến đi phải đình lại. Vào hôm kì nghỉ của Xtas bắt đầu, ngay trước hôm ra đi, khi đang chợp mắt ban trưa trong vườn, cô Oliviơ bị một con bọ cạp đốt. Thông thường, những con vật có nọc độc này ở Ai Cập không mấy nguy hiểm, nhưng lần này vết đốt lại rất có thể nguy đến tính mạng. Con bọ cạp đã bò lên chỗ tựa đầu của chiếc ghế vải và đốt vào cổ cô Oliviơ khi cô tựa đầu vào đó. Và vì rằng trước đây cô đã có lần bị nổi ban đỏ trên mặt, nên người ta e rằng bệnh ấy lại tái phát. Người ta lập tức cho mời bác sĩ, song mãi hai giờ sau ông ta mới tới, vì ông bận việc ở một nơi nào khác.

Khi ấy, cả cổ lẫn mặt cô đã bị sưng vù lên, cô bị sốt và có những triệu chứ ng thường có của sự nhiễm độc. Trong những điều kiện như thế, bác sĩ cho rằng không thể nói tới chuyện đi đâu được cả, và ra lệnh đặt bệnh nhân vào giường. Vì vậ y bọn trẻ bị đe doạ bởi triển vọng sẽ phải nghỉ lễ Thiên Chúa giáng sinh tại nhà. Nói cho công bằng, trong những phút đầu tiên, quả tình Nen lo lắng nhiều tới nỗi đau đớn của cô giáo hơn là nghĩ ngợi về những điều sung sướng bị mất đi tại Mêđinét. Em chỉ khóc thầm ở góc phòng khi nghĩ rằng em sẽ không được gặp mặt cha trong mấy tuần lễ liền.

Tuy nhiên, Xtas không dễ dàng chấp nhận điều không may đến thế, em lập tức gửi đi một bức điện, rồi tiếp đó, một bức thư, hỏi xem chúng cần làm gì.

Hai ngày sau có điện trả lời. Trước đó, ông Rôlixơn đã trao đổi với bác sĩ, và sau khi được biết rằng nguy hiểm đã qua, và giờ đây chỉ còn lo bệnh ban đỏ tái phát nên không thể để cho cô Oliviơ rời khỏi Port Xaiđơ được. Ông bèn chỉ thị trước hết phải lo lắng theo dõi và chăm sóc cô, rồi sau đó mới gửi cho bọn trẻ, cho phép chúng được lên đường cùng với bà Đina. Bà Đina, mặc dù vô cùng gắn bó với Nen nhưng không thể đảm đương chuyện tàu xe và khách sạn, nên người dẫn đường và thủ quỹ của chuyến đi sẽ là Xtas. Dễ dàng có thể hiểu được cậu bé tự hào đến thế nào về cương vị ấy, và với lòng can trường của một hiệp sĩ, cậu bé đã bảo đảm với Nen rằng sẽ không kẻ nào động được đến một sợi tóc của Nen, cứ hệt như là trong thực tế, đường đến Cairô và Mêđinét có biết bao hiểm nguy và gian khó vậy.

Vì mọi việc chuẩn bị đã xong xuôi, nên ngay hôm ấy, bọn trẻ lên đường đến Idơmailơ theo kênh đào, rồi từ Idơmailơ đi tàu hoả tới Cairô, tại đó chúng nghỉ đêm, rồi hôm sau tới Mêđinét. Khi rời khỏi Idơmailơ, chúng trông thấy hồ Timxa mà Xtas đã từng được biết, vì ông Tarcôpxki, vốn là một thợ săn hăng hái trong những lúc rảnh rỗi, thỉnh thoảng có đưa em tới đây săn chim nước. Sau đó, con đường chạy dọc theo lũng Vađi Tumilat, gần con kênh nước ngọt chảy từ sông Nin tới Idơmailơ và Xuê. Người ta đào con kênh này trước khi khởi công đào kênh Xuê, vì nếu không thì công nhân làm việc cho cái công trình vĩ đại của ông Lecxép hẳn sẽ không có nước ngọt để uống. Tuy nhiên, việc đào con kênh này còn có thêm một tác dụng tốt nữa: vùng đất trước kia vốn là một sa mạc cằn cỗi nay lại được hồi sinh bởi có được dòng nước ngọt to lớn và đầy sức sống chảy ngang qua.

Từ cửa sổ toa tầu, về phía bên trái, bọn trẻ có thể nhìn thấy một dải xanh mênh mông gồm những đồng cỏ – trên có ngựa, lạc đà và cừu đang gặm cỏ – và những cánh đồng trồng ngô, kê, có linh lăng cùng những thứ cỏ chăn nuôi khác xen lẫn nhau. Trên bờ kênh là đủ mọi loại công cụ lấy nước, từ những bánh xe nước có gầu múc đến những cần vọt thông thường, mà những nông dân đang cần cù lấy nước vào các thửa ruộng hoặc chở đi trong những thùng chứa đặt trên các xe trâu. Trên những ruộng ngũ cốc mới nẩy mầm dày đặc hàng đàn bồ câu, thỉnh thoảng một đàn chim cun cút lại bay vọt lên. Dọc bờ kênh lũ cò và sếu long trọng dạo bước. Phía xa xa, trên những túp nhà bằng đất sét của nông dân, nhữ ng tán cây chà là vươn lên cao trông như những chiếc mũ cắm lông chim.

Ngược lại, phía Bắc đường tàu trải dài một sa mạc mênh mông, nhưng không giống cái sa mạc nằm phía bên kia kênh đào Xuê. Sa mạc kia trông như một đáy biển bằng phẳng mà nước đã chảy đi hết, chỉ còn lại mặt cát gợn sóng, còn ở đây, cát vàng hơn, dường như được đổ thành từng gò đống lớn, trên sườn gò mọc đầy các bụi cây màu xám. Giữa các gò đống ấy – những gò thỉnh thoảng nhô lên thành những quả đồi cao – là những thung lũng rộng; trên đó đôi khi có thể trông thấy những đoàn thương khách kéo dài.

Từ cửa sổ toa tàu, bọn trẻ có thể nhìn thấy những con lạc đà thồ nặng hàng đi thành một dãy dài, con nọ nối con kia, đi trên con đường cát. Trướcmỗi con lạc đà là một người Ả Rập mặc áo khoác đen và đội một vành khăn trắng trên đầu. Nen chợt nhớ lại những bức tranh trong quyển kinh thánh mà cô bé được xem ở nhà vẽ cảnh những người dân Ixraen tiến vào đất Ai Cập từ thời thánh Duxép. Chúng giống hệt nhau. Tiếc một điều là cô bé không thể ngắm được đoàn thương khách kĩ hơn, bởi có hai sĩ quan người Anh đứng ở phía bên ấy của toa tàu chắn mất tầm nhìn của cô bé.

Song khi cô bé vừ a nói với Xtas điều đó, thì cậu bé liền quay sang các sĩ quan, đặt một ngón tay lên vành mũ phớt và nói với vẻ mặt rất long trọng:

– Thưa các quý ông, không rõ các quý ông có vui lòng nhường chỗ cho tiểu thư đây chăng, bởi tiểu thư rất muốn được nhìn kĩ đoàn lạc đà?

Cả hai vị sĩ quan, cũng có vẻ trang trọng như vậy, chấp nhận lời đề nghị, và một người không những chỉ nhường chỗ cho cô tiểu thư đang tò mò mà còn nhấc bổng cô bé lên, đặt vào chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ.

Thế là Xtas bắt đầu giảng bài:

– Đây là đất nước Gôsen cổ xưa, mà vua Pharaon đã nhường cho thánh Duxép để dành cho những người anh em Ixraen của ông ta. Ngày xưa, vào thời cổ đại, đây cũng đã từng có một con kênh nước ngọt, nên con kênh mới này chỉ là làm lại con kênh cũ mà thôi. Song sau đó, con kênh ấy bị cạn đi và đất đai biến thành sa mạc. Giờ đây, một lần nữa, đất đai sẽ trở lại phì nhiêu.

– Vì sao quý anh biết điều đó? – Một trong hai sĩ quan hỏi.

– Ở lứa tuổi tôi, ai cũng biết những điều đó. -Xtas đáp. – Thêm nữa cách đây không lâu, giáo sư Xtơling vừa giảng cho chúng tôi nghe về lũng Vađi Tumilat.

Mặc dù Xtas nói tiếng Anh rất thạo, nhưng cách phát âm của em hơi lơ lớ, nên người sĩ quan thứ hai để ý và hỏi:

– Hình như quý anh trẻ tuổi không phải là ngườiAnh?

– Cô đây là tiểu thư Nen, mà cha cô giao phó cho tôi chăm sóc lúc đi đường, còn tôi không phải là người Anh, tôi là người Ba Lan và là con của một kĩ sư làm việc tại kênh đào.

Người sĩ quan mỉm cười khi nghe câu trả lời của cậu bé và nói:

– Tôi rất trọng người Ba Lan. Tôi thuộc trung đoàn kỵ binh từ thời Napoleon đã vài lần được chiến đấu cùng với khinh kị binh Ba Lan, và cho tớ i nay, truyền thống đó trở thành niềm tự hào và vinh dự của trung đoàn1.

– Rất hân hạnh được làm quen với ông, – Xtas đáp.

Và thế là câu chuyện diễn ra rôm rả, bởi rõ ràng hai viên sĩ quan rất thích thú. Hoá ra, cả hai cũng đi từ Port Xaiđơ đến Cairô để yết kiến đại sứ Anh quốc, nhận các chỉ thị cuối cùng về chuyến đi tiếp theo đang chờ đợi họ. Người trẻ hơn trong số hai người là bác sĩ quân y, còn người nói chuyện với Xtas là đại uý Glen. Đại uý được lệnh của chính phủ đi từ Cairô qua Xuê tới Mombaxa để phụ trách toà n bộ khu vực kế cận với hải cảng này và kéo dài mãi tới tận vùng đất chưa được biết là Xamburu. Vốn rất say mê đọc sách về nhữ ng cuộc thám hiểm châu Phi, Xtas biết rõ rằng, Mombaxa nằm ở vài độ vĩ tuyến phía bên kia xích đạo và các đất nước kế cận với nó, mặc dù đã được tính vào phạm vi những vùng thuộc quyền lợi của Anh quốc, nhưng thực ra vẫn rất ít được biết đến, hoàn toàn hoang dã, đầy voi, hươu cao cổ, tê giác, trâu và các loài linh dương mà các đoà n quân, các đoàn truyền giáo cũng như các đoàn khách thương thường xuyên đụng độ với chúng. Với cả tấm lòng, em ghen thầm với đại uý Glen và nói rằng em phải đến Mombaxa thăm ông ta và cùng ông ta săn sư tử hoặc trâu rừng.

– Hay lắm, nhưng khi đến thăm xin hãy đi cùng với cô tiểu thư bé nhỏ này, – đại uý Glen vừa cười vừa đáp và trỏ sang Nen, cô bé lúc nãy vừa rời cửa sổ đến ngồi bên ông.

– Tiểu thư Rôlixơn còn có cha, – Xtas đáp, – còn tôi chỉ là người đỡ đầu tiểu thư trong khi đi đường mà thôi.

Nghe thấy thế, viên sĩ quan kia liền quay lại hỏi:

– Rôlixơn? Có phải đó là một trong các giám đốc của kênh đào và có anh trai ở Bombay hay không?

– Ở Bombay hiện có bác tôi. – Nen vừa đáp vừa đưa một ngón tay nhỏ bé lên.

– Thế thì bác của em, cô bé thân mến, lấy chị tôi làm vợ. Tôi là Clery. Chúng ta là bà con với nhau đấy, và tôi rất mừng là đã được gặp và quen biết với em, con chim bé bỏng ạ.

Quả thực bác sĩ rất vui mừng. Ông nói rằng, ngay sau khi tới Port Xaiđơ ông đã hỏi thăm ông Rôlixơn, nhưng ở Văn phòng ban giám đốc người ta nói với ông rằng ông Rôlixơn đã đi nghỉ lễ. Ông cũng tiếc rằng chiếc tầu mà ông đã cùng với ông Glen đi Mombaxa sẽ rời Xuê sau vài ngày nữa, nên ông không thể tạt qua Mêđinét được.

Ông yêu cầu Nen chuyển lời chúc sức khoẻ tới cha em và hứa sẽ viết thư về cho cô bé từ Mombaxa. Bây giờ hai sĩ quan chủ yếu chỉ nói chuyện với Nen, khiến Xtas hơi đứng ra ngoài rìa.Để bù lại, cứ đến ga là lại xuất hiện hàng tá quýt, chà là tươi, thậm chí cả quả thanh lương trà rất tuyệt nữa. Ngoài Xtas và Nen, cả bà Đina cũng được thưởng thức những thứ quả ấy. Bên cạnh tất cả các đức tính của mình, bà nổi bật lên với tính phàm ăn ít gặp.

Nhờ thế, con đường đi Cairô đối với bọn trẻ nhanh chóng trôi qua. Lúc chia tay, các sĩ quan hôn bàn tay và mái đầu bé nhỏ của Nen, bắt chặt tay Xtas. Đại uý Glen, người rất thích cậu bé tháo vát và bạo dạn này, nói nửa đùa nửa thật:

– Anh bạn trẻ của tôi! Trong cuộc đời nào ai biết được khi nào, tại đâu và trong hoàn cảnh nào chúng ta lại có thể gặp nhau.

Tuy nhiên xin anh hãy nhớ rằng, bao giờ anh cũng có thể dựa vào tấm lòng và sự trợ giúp của tôi.

– Và cả ông cũ ng vậy! – Xtas đáp lại và em cúi chào đầy vẻ tự trọng.

—————

1. Trung đoàn kị binh Anh từng gặp gỡ kị binh Ba Lan trong thời Napoleon, cho tới nay vẫn còn tự hào về điều đó, và mỗi sĩ quan, khi nói về trung đoàn mình thường bảo: “Chúng tôi đã được cùng chiến đấu với người Ba Lan” (Chú thích của tác giả).

Ông Tarcôpxki cũng như ông Rôlixơn, vốn yêu thương cô bé Nen hơn cả cuộc sống của mình, rất vui mừng khi bọn trẻ đến. Đôi trẻ cũng vui sướng được gặp lại cha, nhưng chỉ lát sau đã bắt đầu đi thăm các căn lều bên trong đã được bài trí xong hoàn toàn và sẵn sàng chờ đón các vị khách đáng yêu. Những căn lều ấy thật tuyệt vời, hai lớp vải Flanen, một mặt màu xanh, một mặt màu đỏ, bên dưới trải nỉ thô và rộng rãi như những căn phòng lớn. Công ti muốn làm đẹp lòng các quan chức cao cấp của Hiệp hội kênh đào nên đã cố gắng để họ được tiện nghi và thoả mãn. Lúc đầu ông Rôlixơn sợ rằng việc sống một thời gian dài trong lều sẽ có hại cho sứ khoẻ của Nen, nhưng ông đồng ý chuyện đó cũng là vì, nếu như thời tiết xấu thì bất kì lúc nào cũ ng có thể chuyển vào ở trong khách sạn. Song bây giờ đây, sau khi xem xét kĩ lưỡng mọi thứ tại chỗ, ông lại tin rằng, ngày đêm tiếp xúc với không khí trong lành sẽ trăm lần tốt hơn cho sức khoẻ của cô con gái rượu của ông so với chuyện sống trong những căn phòng hôi hám của các khách sạn nhỏ của địa phương. Thêm vào đó, thời tiết rất tuyệt. Mêđinét, tức En Mêđine, được vây quanh bởi những đồi cát của sa mạc Libi, có khí hậu tốt hơn nhiều so với Cairô, và chẳng phải tự nhiên người ta lại mệnh danh là “xứ sở hoa hồng”. Với vị trí được che chắn tốt, độ ẩm không khí lại cao, nên tại đây ban đêm không quá lạnh như ở những miền khác của Ai Cập, kể cả những miền nằm xa hơn nữa về phía Nam. Mùa đông ở đây thật là dễ chịu, và từ tháng mười một trở đi lại chính là mùa cây cối phát triển nhanh nhất. Những cây chà là, ôliu, vốn rất ít gặp ở Ai Cập, nhữ ng cây vả, cây cam, quýt, những cây thầu dầu khổng lồ, những cây lựu và biết bao nhiêu thứ thực vật phương Nam khác tạo nên một rừng cây lớn trùm lên cái ốc đảo tuyệt diệu này. Những khu vườn như được bao trùm trong một làn sóng khổng lồ của những cây xiêm gai, tử đinh hương và hồng, đến nỗi về đêm, mỗi làn gió đều mang về hương thơm dễ chịu của những loài hoa ấy. Ở đây, người ta căng ngực thở, và nói như các cư dân địa phương thì “chẳng ai muốn chết”.

Khí hậu tương tự như vậy chỉ có ở một địa điểm khác là Hêluan, nằm phía bên kia sông Nin, nhưng tại đó cây cối cũng không tươi tốt bằng ở đây.

Tuy nhiên, với ông Rôlixơn, Hêluan gắn liền với một kỉ niệm đau đớn, vì mẹ của Nen qua đời ở đó. Vì lí do đó, ông chọn Mêđinét, và giờ đây, khi ngắm nhìn nét mặt tưng bừng rạng rỡ của cô bé, ông tự nhủ thầm trong lòng rằng, trong thời gian tới, ông sẽ mua ở đây một mảnh đất có cả vườn tược, sẽ dựng lên trên đó một ngôi nhà đầy tiện nghi theo kiểu Anh, và sẽ về đây, về miền đất lành này, để nghỉ ngơi trong tất cả những kì nghỉ phép mà ông có thể có được, và rồi sau khi đã kết thúc công vụ ở kênh đào, thậm chí ông sẽ về ở hẳn tại đây.

Dù sao, đó cũ ng mới chỉ là kế hoạch cho một tương lai xa và chưa hoàn toàn chắc chắn. Trong khi đó, từ lúc đặt chân tới đây, lũ trẻ lùng sục mọi chỗ như hai chú ruồi, vì chúng muốn ngắm nghía tất cả các căn lều cùng lũ lừa và lạc đà mà công ti Cúc đã thuê tại chỗ, ngay trước bữa cơm. Song hoá ra rằng lũ súc vật hiện đang ở trên bãi chăn cách xa đấy, nên mãi ngày mai mới có thể thấy chúng được. Ngượ c lại, bên cạnh căn lều của ông Rôlixơn, Nen và Xtas rất vui mừng được gặp lại Khamix, con trai Khađigi, một người quen tốt bụng của chúng từ Port Xaiđơ. Anh ta không thuộc đám gia nhân do công ti Cúc thuê, thậm chí ông Rôlixơn còn ngạc nhiên khi gặp anh ta ở En Mêđine, song vì trước đây ông vẫn sử dụng anh ta làm ngườ i mang dụng cụ, nên giờ đây ông cũng dùng anh ta làm kẻ sai vặt.

Bữa cơm chiều thật thịnh soạn, vì ông lão Cốptơ, người đã nhiều năm liền đảm nhiệm chức đầu bếp trong công ti Cúc, muốn biểu diễn tài nghệ của mình. Bọn trẻ kể lại chuyện người mới quen trong khi đi đường là hai viên sĩ quan, điều này khiến ông Rôlixơn rất quan tâm, vì anh ruột của ông là Risác, có vợ là chị của bác sĩ Clery, quả thực đã sinh sống nhiều năm tại Ấn Độ. Đôi vợ chồng ấy không có con, nên ông bác nọ rất yêu quý cô cháu gái bé nhỏ mà ông ta chỉ được biết chủ yếu qua các bức ảnh, và trong tất cả mọi bức thư ông đều thăm hỏi kĩ lưỡng về cô bé. Cả hai ông bố cũng rất buồn cười về lời mời đi Mombaxa mà Xtas nhận được từ đại uý Glen. Cậu bé coi đó là lời mời nghiêm túc và cương quyết tự hứa với mình rằng, khi nào đó, cậu sẽ tới thăm người bạn mới quen ở bên kia đường xích đạo. Mãi sau, ông Tarcôpxki phải giải thích cho em biết rằng các quan chức người Anh không bao giờ làm việc lâu tại một chỗ, vì khí hậu châu Phirất độc, và trước khi Xtas kịp lớn lên thì hẳn là đại uý đã thay đổi nhiệm sở tới mười lầ n rồi, hoặc đã không còn trên cõi đời này nữa cũng nên.

Sau bữa ăn, cả nhà bước ra trước lều, nơi gia nhân đã bầy sẵn cái ghế vải gấp, đồng thời chuẩn bị riêng cho người lớn những bình xiphông chứa nước khoáng và rượu brandi.

Đêm đã buông xuống, nhưng là đêm rất ấm áp, và vì đúng tiết rằm, nên trời sáng như ban ngày. Những bức tường trắng của các toà nhà trong thành phố đối diện với khu lều sáng lên mầu xanh mờ mờ, những vì sao long lanh trên bầu trời, trong không khí lan toả mùi hương hoa hồng, mùi cây xiêm gai và mùi hoa vòi voi.

Thành phố đã say ngủ. Trong sự tĩnh mịch của đêm thảng hoặc mới có vài tiếng kêu của lũ sếu, diệc và hồng hạc đang bay từ phía sông Nin về phía Cairôun. Bỗng chợt có tiếng chó sủa rất lâu, trầm, tiếng sủa khiến Nen và Xtas kinh ngạc, bởi hình như nó vang ra từ căn lều mà chúng chưa vào thăm, căn lều dùng để chứa yên cương, dụng cụ và các thứ đồ dùng đi đường các loại.

– Con chó này hẳn phải to lắm! Ta đi xem nó đi!

– Xtas nói.

Ông Tarcôpxki bắt đầu cười thành tiếng, còn ông Rôlixơn thì cũng vừa cười, vừ a gẩy tàn thuốc từ điếu xìgà:

– Thôi được! Chẳng có cách nào giữ kín được! Rồi quay sang phía lũ trẻ:

– Ngày mai, các con biết đấy, là ngày lễ Giáng sinh, con chó này sẽ là món quà bất ngờ mà bác Tarcôpxki dành để tặng Nen, nhưng vì cái điều bất ngờ đã bắt đầu sủa, nên ba buộc phải thông báo ngay từ hôm nay.

Nghe thấy thế, trong chớp mắt Nen trèo lên đầu gối của ông Tarcôpxki và ôm chầm lấy cổ ông, rồi tiếp đó cô bé nhảy sang đầu gối cha:

– Cha ơi, con sung sướng quá! Con sung sướng quá đi mất!

Những cái ôm và cái hôn dường như bất tận. Mãi sau, khi đã đứng xuống đất trên đôi chân của mình, Nen mới bắt đầu nhìn vào mắt ông Tarcôpxki:

– Bác Tarcôpxki…

– Gì cơ, Nen?

– Nếu như cháu đã biết rằng có nó ở đó, thì cháu có được phép nhìn nó một chút ngay hôm nay không hở bác?

– Tôi biết mà, – ông Rôlixơn giả vờ phẫn nộ kêu lên, – cái con ruồi con này chẳng bao giờ chịu để yên khi nghe tin mới.

Còn ông Tarcôpxki quay lại phía con trai của Khađigi và bảo:

– Khamix, dẫn chó ra đây.

Cậu thanh niên Xuđan biến vào sau căn lều dùng làm bếp và một lát sau lại xuất hiện, dắt theo một con vật to tướng có đeo vòng cổ.

Nen thốt nhiên lùi lại.

– Ối! – Cô bé kêu lên, túm lấy tay cha.Còn Xtas thì lại hăng hái:

– Đấy là sư tử chứ đâu phải là chó.

– Tên nó là Xaba (sư tử). – Ông Tarcôpxki đáp. Nó thuộc giống maxtif, là giống chó to nhất trên thế giới. Con này mới được hai tuổi, nhưng quả là to.Đừng sợ, Nen, nó lành như một chú cừu non thôi mà. Nào, can đảm lên! Thả nó ra, Khamix!

Khamix buông dây vòng cổ mà anh ta vẫn giữ, con chó thấy được tự do, liền ve vẩy đuôi, sán lại ông Tarcôpxki, người mà trước đó nó đã quen biết và sủa lên vui sướng.

Bọn trẻ kinh ngạc ngắm cái đầu tròn với đôi môi trễ của con chó, ngắm nghía những cái chân đồ sộ, và thân hình với bộ lông màu vàng nhạt thật giống dáng sư tử dưới ánh trăng. Trong đời, quả thực chúng chưa từng gặp một con vật nào tương tự như thế.

– Với một con chó thế này có thể đi xuyên suốt châu Phi một cách an toàn. – Xtas thốt lên.

– Con hãy hỏi thử xem liệu nó có thể mang được tê giác về theo mệnh lệnh hay không? – Ông Tarcôpxki bảo.

Thực ra Xaba không thể trả lời câu hỏi đó, song nó vẫy đuôi mỗi lúc một vui vẻ hơn và sán vào những người ngồi đó một cách chân thành đến nỗi Nen hết sợ hãi mà bắt đầu vuốt ve đầu nó.

– Xaba, Xaba đáng yêu, Xaba quý mến!

Ông Rôlixơn cúi xuống nâng đầu con chó lên hướng vào mặt cô bé và nói:

– Xaba, hãy nhìn cho kĩ cô bé này. Đây là cô chủ của mày.

Mày phải vâng lời và phải bảo vệ cô chủ, hiểu chưa?

– Gâu! – Xaba liền đáp lại bằng giọng trầm, dường như quả thực nó hiểu được điều người ta nói.

Thậm chí nó còn hiểu rõ hơn là người ta tưởng, vì nhân lúc đầu cao gần ngang với khuôn mặt cô bé, nó dùng cái lưỡi rộng bản của mình liếm cái mũi nho nhỏ và đôi má cô bé để ra điều bày tỏ lòng thành kính của mình.

Mọi người phá lên cười. Nen phải vào lều để rửa mặt. Mười lăm phút sau quay trở ra, cô bé thấy Xaba đang đặt chân lên vai Xtas, còn cậu bé thì còng người dưới sức nặng của nó. Con chó cao hơn cậu bé một cái đầu.

Đã tới lúc đi nghỉ, nhưng cô bé xin phép được chơi nửa giờ nữa để làm quen thân hơn với người bạn mới. Sự quen biết lẫn nhau diễn ra rất dễ dàng, đến nỗi chẳng mấy chốc, ông Tarcôpxki đã có thể đặt Nen ngồi bỏ chân một bên trên lưng con chó và đỡ lấy cô bé phòng khi nó ngã, rồi bảo Xtas cầm cổ dề dắt chó đi. Cô bé cưỡi chó như vậy tới mười mấy bước, sau đó cả Xtas cũng thử cưỡi lên lưng con “ngựa” đặc biệt này, nhưng “ngựa” ngồi xệp hai chân sau xuống, khiến chú bé bất ngờ bị tuột xuống mặt cát gần đuôi chó.

Đến lúc bọn trẻ phải đi nghỉ, thì chợt từ phía xa xa, trên bãi chợ sáng ánh trăng, hiện ra hai bóng trắng tiến dần lại phía khu lều.

Xaba vốn hiền lành từ nãy đến giờ bỗng bắt đầu gầm gừ một cách dữ tợn, khiến cho Khamix, theo lệnh ông Rôlixơn, phải tóm cổ dề giữ chặt lấy nó. Trong khi đó hai người đàn ông, mặc áo choàng kín đầu, đã dừng lại trước cửa lều.

– Ai đấy? – Ông Tarcôpxki hỏi.

– Chúng tôi là người quản lạc đà ạ. – Một trong hai người mới đến lên tiếng đáp.

– A, Iđrix và Ghebơrơ đấy à? Các anh muốn gì?

– Chúng tôi đến để hỏi xem ngày mai chúng tôi có cần thiết cho ngài hay chăng?

– Không. Ngày mai và ngày kia là những ngày lễ lớn, chúng tôi không thể đi tham quan vào những ngày ấy được. Ngày kìa các anh hãy đến vào buổi sáng.

– Xin cảm ơn các ngài.

– Lạc đà của các anh có tốt không? – Ông Rôlixơnhỏi.

– Tuyệt vời ạ!(1) – Iđrix đáp – Những con lạc đà có bướu nhiều mỡ và hiền lành như cừu. Nếu không thì Cúc đã không thuê của chúng tôi.

– Chúng có lắc nhiều lắm không?

– Thưa ngài, có thể đặt một nắm đậu lên lưng từng con mà không một hạt nào bị rơi xuống trong khi chúng chạy với tốc độ nhanh nhất.

– Đã nói khoác thì nói khoác kiểu Ả Rập! – Ông Tarcôpxki bật cười nói.

– Hoặc theo kiểu Xuđan. – Ông Rôlixơn thêm.

Trong lúc đó, Iđrix và Ghebơrơ đứng yên như hai cây cột màu trắng, nhìn chòng chọc vào Xtas và Nen. Mặt trăng soi sáng hai khuôn mặt rất sẫm màu của họ, trong ánh trăng nom họ như được đúc bằng đồng. Dưới vành khăn trắng, tròng trắng của mắt họ ánh lên màu lục nhạt.

– Chào các anh! – Ông Rôlixơn chào.

– Cầu đứ c Ala canh giữ cho các ngài, đêm cũng như ngày.

Nói xong họ cúi chào rồi đi. Tiễn chân họ là tiếng gầm gừ trầm trầm của Xaba tựa như tiếng sấm xa xa, rõ ràng là nó không thích hai người đàn ông Xuđan này chút nào hết.

—————

1. Nguyên văn: Bismillach! – Thán từ mà người Ả Rập hay dùng để biểu lộ sự thán phục.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ