Giết Con Chim Nhại - Chương 31

Khi Boo Rayley loẹt xoẹt đứng dậy, ánh đèn từ các cửa sổ phòng khách chiếu lấp lánh trên trán ông. Mọi cử động của ông đều không chắc chắn như thể ông không bảo đảm tay và chân mình đặt đúng vào những thứ ông tiếp xúc. Ông ho một trận dữ dội đến độ ông phải lảo đảo ngồi xuống lại. Tay ông mò tìm trong túi bên hông, và ông lôi ra một chiếc khăn tay. Ông ho vào đó, rồi ông lau trán.

Đã quá quen với sự vắng mặt của ông, tôi thấy thật không thể tin được rằng ông đã ngồi bên tôi suốt thời gian đó. Ông không gây một tiếng động nào.

Ông lại đứng lên. Ông quay sang tôi và hất đầu về phía trước.

“Ông muốn chúc Jem ngủ ngon phải không, ông Arthur? Cứ vào đi.”

Tôi dẫn ông đi theo hành lang. Bác Alexandra đang ngồi cạnh giường Jem. “Vào đi, Arthur,” bác nói. “Nó còn ngủ. Bác sĩ Reynolds cho nó một liều an thần mạnh, Jean Louise, bố cháu trong phòng khách hả?”

“Vâng, thưa bác, cháu nghĩ thế.”

“Để bác ra nói chuyện với bố cháu một lát. Bác sĩ Reynolds để lại một số….” giọng

bác xa dần.

Boo đã tới góc phòng, ông đứng đó với cái cằm hếch lên, nhìn Jem từ xa. Tôi cầm tay ông, bàn tay ấm một cách kinh ngạc so với vẻ trắng bệch của nó. Tôi giật nhẹ ông, và ông để cho tôi dẫn đến giường Jem.

Bác sĩ Reynolds đã làm một thứ giống như cái lều bên trên cánh tay Jem, giữ cho chăn khỏi phủ lên nó, và Boo chồm tới nhìn qua đó, một vẻ tò mò hiện lên trên mặt ông ta, cứ như thể ông ta chưa từng thấy một cậu con trai. Miệng ông ta hé mở, và ông ta nhìn Jem từ đầu đến chân. Boo giơ tay ra, nhưng ông lại buông thõng nó xuống bên hông.

“Ông có thể nựng anh ấy, ông Arthur, anh ấy ngủ rồi. Nhưng ông không thể làm chuyện đó nếu ảnh thức, ảnh sẽ không để cho ông…” Tôi nhận ra mình đang giải thích. “Cứ tự nhiên đi.”

Bàn tay Boo chờn vờn trên đầu Jem.

“Làm đại đi, ông, ảnh ngủ rồi.”

Bàn tay ông ta đáp nhẹ xuống tóc Jem.

Tôi bắt đầu hiểu ra tiếng Anh bằng ngôn ngữ cơ thể của ông. Tay ông siết chặt tay tôi vào báo hiệu ông muốn cáo lui.

Tôi dẫn ông ra hiên trước, ở đó những bước chân dùng dằng của ông dừng lại. Ông vẫn cầm tay tôi và không tỏ dấu hiệu muốn buông ra.

“Cô sẽ đưa tôi về nhà chứ?”

Ông hầu như thì thào câu đó, với giọng điệu một đứa trẻ sợ bóng tối.

Tôi đặt chân lên bậc thềm cao nhất và dừng lại. Tôi có thể dẫn ông đi qua nhà tôi, nhưng tôi không thể dẫn ông về nhà.

“Ông Arthur, cong cánh tay ông xuống vầy. Đúng rồi, thưa ông.”

Tôi đưa tay bám vào khuỷu tay khuỳnh ra của ông.

Ông phải khom xuống một chút để thuận tiện cho tôi, nhưng nếu cô Stephanie Crawford đang nhìn qua cửa sổ trên lầu nhà cô, cô sẽ thấy Arthur Radley đang hộ tống tôi đi dọc hè đường, như bất cứ trang nam tử nào sẽ làm.

Chúng tôi tới chỗ đèn đường ở góc phố và tôi tự hỏi bao nhiêu lần. Dill đã đứng đây ôm cây cột to tướng này, nhìn, đợi và hy vọng. Tôi tự hỏi đã bao nhiêu lần Jem và tôi thực hiện chuyến hành trình này, nhưng tôi đang bước vào cổng trước nhà Radley lần

thứ hai trong đời. Boo và tôi đi trên những bậc thềm đến hiên nhà. Những ngón tay của ông tìm nắm đấm cửa trước. Ông nhẹ nhàng buông tay tôi, mở cửa, đi vào trong và đóng lại. Tôi không bao giờ gặp lại ông nữa.

Hàng xóm mang thức ăn đến khi nhà có tang và mang hoa tới khi có người bệnh và các thứ linh tinh vào những lúc khác. Boo là láng giềng của chúng tôi. Ông đã cho chúng tôi hai con búp bê bằng xà phòng, một đồng hồ có dây chuyền bị đứt, hai đồng hai mươi lăm xu may mắn, và cả mạng sống của chúng tôi. Nhưng láng giềng thì thường cho qua cho lại. Chúng tôi không bao giờ để lại cái cây đó những gì chúng tôi đã lấy ra, chúng tôi chẳng cho ông ta thứ gì cả và điều đó làm tôi buồn.

Tôi quay người trở về nhà. Đèn đường sáng suốt con đường tới thị trấn. Tôi chưa từng nhìn con phố của chúng tôi từ góc này. Kia là nhà cô Maudie, nhà cô Stephanie Crawford, đó là nhà của chúng tôi, tôi có thể thấy chiếc xích đu ở hàng hiên, nhà của cô Rachel đằng sau nhà tôi, hơi khuất. Thậm chí tôi có thể thấy nhà của bà Dubose.

Tôi nhìn đằng sau. Bên trái cánh cửa nâu là một cửa chớp dài. Tôi đi tới đó, đứng trước nó, rồi quay lại. Vào ban ngày, tôi nghĩ, bạn có thể nhìn thấy tận ngã tư bưu điện.

Ban ngày… trong đầu tôi, đêm đã tàn. Đã là ban ngày và hàng xóm bận rộn. Cô Stephanie Crawford băng qua đường để kể tin tức mới nhất cho cô Rachel. Cô Maudie cúi người bên những bụi đỗ quyên khô của cô. Đó là mùa hè, và hai đứa trẻ chạy láu táu theo lề đường về phía người đàn ông ở xa đang tiến đến. Người đàn ông vẫy tay, và hai đứa trẻ đua nhau chạy đến bên ông ta.

Vẫn là mùa hè, và bọn trẻ đến gần hơn. Một cậu trai lê bước dọc lề đường lôi theo chiếc cần câu đằng sau. Một người đàn ông đứng đợi hai tay chống nạnh. Mùa hè, và bọn trẻ của ông ta chơi trong sân trước với bạn bè chúng, trình diễn một vở kịch nhỏ lạ lùng do chúng tự bịa ra.

Đó là mùa thu, và hai đứa con của ông ta đánh nhau trên lề đường trước nhà bà

Dubose. Cậu con trai giúp em gái nó đứng dậy, và chúng đi về nhà. Mùa thu, con cái ông ta chạy lúp xúp tới lui góc đường, niềm vui sướng và buồn phiền của ngày hôm đó. Chúng dừng trước ngay cây sồi lớn, thích thú, lúng túng, sợ hãi.

Mùa đông, và bọn trẻ của ông ta run rẩy ở cổng trước, in bóng vào một ngôi nhà đang cháy. Mùa đông và một người đàn ông bước xuống lòng đường làm rớt kính của ông và bắn một con chó.

Mùa hè, và ông theo dõi trái tim tan vỡ của bọn trẻ con ông. Mùa thu lại về, và bọn trẻ của Boo cần ông.

Bố Atticus đúng. Có lần ông nói bạn không bao giờ thực sự biết một người cho đến khi bạn ở vào địa vị của họ và cư xử theo kiểu của họ. Chỉ đứng bên hàng hiên nhà Radley cũng đủ.

Đèn đường mờ đi dưới hàng mưa bụi đang rơi. Trên đường về nhà, tôi cảm thấy mình rất già, nhưng chỉ nhìn vào chóp mũi mình tôi có thể thấy những hạt sương tuyệt đẹp, nhưng hai mắt tập trung nhìn vào một chỗ quá gần làm tôi chóng mặt nên tôi bỏ trò đó. Trên đường về nhà, tôi nghĩ nói với Jem về chuyện này vào ngày mai mới hay làm sao. Anh sẽ tức điên lên vì bỏ lỡ nó đến độ anh sẽ không nói chuyện với tôi trong nhiều ngày. Khi đi về nhà, tôi nghĩ Jem và tôi sẽ lớn lên nhưng không còn nhiều điều gì cho chúng tôi học, có lẽ trừ môn đại số.

Tôi chạy lên những bậc tam cấp vào nhà. Bác Alexandra đã đi ngủ, và phòng của bố Atticus tối thui. Tôi sẽ xem Jem tỉnh lại chưa. Bố Atticus trong phòng của Jem, ngồi cạnh giường. Bố đang đọc một cuốn sách.

“Jem thức chưa?”

“Ngủ ngon lành. Tới sáng nó mới thức.”

“Ô, bố ngồi suốt với anh ấy hả?”

“Chỉ một chút nữa thôi. Đi ngủ đi, Scout. Con đã trải qua một ngày dài rồi.”

“Ơ, con muốn ở lại với bố một lát.”

“Tùy con,” bố Atticus nói. Chắc phải quá nửa đêm, và tôi bối rối bởi sự đồng ý dễ chịu của ông. Tuy nhiên ông khôn ngoan hơn tôi: ngay lúc ngồi xuống tôi đã cảm thấy buồn ngủ.

“Bố đọc gì vậy?” Tôi hỏi.

Bố Atticus lật qua cuốn sách. “Sách của Jem. Tên là The Gray Ghost.”

Tôi chợt tỉnh hẳn. “Sao bố lấy cuốn đó?”

“Cục cưng, bố không biết. Bố chỉ lấy đại. Một trong mấy thứ bố chưa đọc,” ông nói rõ ràng.

“Đọc lớn lên đi, bố Atticus. Nó thấy ghê lắm.”

“Không,” ông nói. “Bữa nay con sợ thế là đủ rồi. Truyện này quá….”

“Bố Atticus, con không sợ.”

Ông nhướn mày và tôi phản đối, “Ít ra cũng không cho đến khi con kể cho ông Tate nghe. Jem không sợ. Đã hỏi và nói anh ấy không sợ. Với lại, chẳng có gì thực sự đáng sợ trừ trong sách.”

Bố Atticus mở miệng định nói điều gì đó, nhưng ngậm miệng lại. Ông nhấc ngón tay ra khỏi chỗ giữa cuốn sách và lật trở lại trang đầu. Tôi xoay người qua và kê đầu vào gối ông. “Hừm,” ông đọc. “Con ma xám của Seckatary Hawkins, Chương một….”

Tôi quyết chí thức, nhưng mưa quá êm và căn phòng quá ấm và giọng của ông quá trầm và gối ông quá êm đến độ tôi ngủ mất.

Có vẻ như vài giây sau, giày ông thúc nhẹ vào sườn tôi. Ông đõ tôi dậy và đi với tôi

về phòng tôi. “Vẫn nghe từng chữ bố đọc…” tôi lầm bầm, “…. đâu có ngủ gì đâu, nó

kể về một con tàu và Fred ba ngón và cậu trai của Stoner….”

Ông tháo móc bộ quần áo liền quần của tôi, dựa tôi sát vào ông, và kéo bộ áo ra. Ông vịn tôi một tay còn tay kia với bộ đồ ngủ của tôi.

“Phải, tất cả họ đều nghĩ chính cậu trai của Stoner đang quậy tung ngôi nhà của câu lạc bộ và rắc mực văng tứ tung và….”

Ông dẫn tôi tới giường và đặt tôi ngồi xuống. Ông giơ hai chân tôi lên và đắp mền cho tôi.

“Và họ đuổi theo cậu ta và không bao giờ bắt được cậu ta vì họ không biết mặt mũi cậu ta trông ra sao, và bố Atticus này, khi cuối cùng họ thấy cậu ta, tại sao cậu ta không làm bất cứ chuyện gì trong những chuyện đó….. bố Atticus, cậu ta thực sự dễ thương.”

Hai tay ông ở dưới cằm tôi, kéo mền lên, dém nó lại quanh tôi.

“Hầu hết con người là vậy, Scout, khi cuối cùng con gặp được họ.”

Ông tắt đèn và đi sang phòng Jem. Ông sẽ ở đó suốt đêm, và ông sẽ ở đó khi Jem thức dậy vào ngày mai.

Hà Nội, mùa Đông 2008

[1] Andrew Jackson (sau này thành tổng thống thứ bảy của Mỹ), trong Cuộc chiến Creek (1813-14) đã xua người da đỏ Creek ra khỏi Alabama, Georgia và Mississippi để bảo vệ các khu định cư của dân da trắng.

[2] Trận Hasting (1066): trận đánh quyết định trong cuộc chinh phục Anh của người Norman (Pháp).

[3] John Weslay (1703-1791): mục sư, nhà thần học Anh, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giáo phái Giám lý (Methodist) của đạo Tin lành. Giáo phái này xuất phát từ Anh, lan qua Mỹ, thu hút giới lao động và nô lệ.

[4] Tội giết người không dự mưu trước nhưng không kèm tình huống gia trọng, theo luật Mỹ, nhưng định nghĩa này thay đổi ít nhiều tùy từng tiểu bang.

[5]

[6]

Tên gọi thân mật của John

Ám chỉ khủng hoảng kinh tế 1929-1933.

[7] Chẳng có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ hãi: câu nổi tiếng trong diễn văn nhậm chức của Franklin Roosevelt, tổng thống thứ 32 của Mỹ (đắc cử năm 1932), người có công lớn trong việc đưa nước Mỹ vượt qua Khủng hoảng kinh tế. Ông đắc cử bốn kỳ bầu cử liên tiếp: 1932,1936,1940 và 1944.

[8] Merlin: nhà tiên tri, phù thủy và cố vấn của vua Arthur trong truyền thuyết Anh, ở đây hàm ý Dill là kẻ tài giỏi, tháo vát trong mọi chuyện.

[9] Nghĩa là Con ma xám

[10] Nghĩa là Tazn và những người kiến.

[11] Liên minh giữa các chủ đồn điền lớn với giới công nghiệp Alabama, chi phối nền chính trị của bang này, ủng hộ những chính sách bảo thủ.

[12] Ở đây Jem nói đùa với em gái dựa trên cuốn sách cậu đang đọc, cuốn Bullfinch’s Mythology(Thần thoại của Bulfinch), một tuyển tập các truyện thần thoại Hy Lạp phổ biến thời đó. Cách phát âm hai từ Bullfinch và Bulfinch tương tự nhau. Trong tiếng

Anh, Bukk nghĩa là con bò.

[13] Lorenzo Dow(1777-1834): Nhà truyền giáo thuộc phái Giám lý từng đi khắp nước Mỹ, có tới Alabama.

[14] Phương pháp đánh số phân loại sách trong thư viện do Melvil Dewey lập ra. Jem lẫn lộn ông này với John Dewey, lý thuyết gia về giáo dục tiến bộ.

[15] Trong thời khủng hoảng kinh tế này, một ổ bánh mì giá 5 xu, vé xem phim giá 10 xu, một gallon xăng (3,8lit) giá 16 xu.

[16] Scrip stamp: phiếu thay tiền giấy có mệnh giá nhỏ, dưới 1 USD, được phát hành khi khẩn cấp. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế, nhiều chính quyền địa phương cấp phát loại phiếu này cho dân thất nghiệp.

[17] Vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1929: sự kiện khơi mài cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ.

[18] Works Progress Administration-Sở quản lý tiến độ công trình: một trong nhiều cơ quan được thành lập để giải quyết nạn thất nghiệp trong khủng hoảng kinh tế. WPA ra đời năm 1935 để phát triển một chương trình công trình công cộng với kinh phí nhỏ cho vật tư và kinh phí lớn cho lương bổng.

[19]

[20]

Thuốc để giảm axit trong bao tử, thúc đẩy tiêu hóa.

Ngồi trên cột cờ là một trò biểu diễn kỳ quái nhưng phổ biến ở thập niên 1930

[21] Mũ giấy hình chóp, ngày xưa được đội như một hình phạt cho học sinh không làm bài tập.

[22] Đó là đồng một xu, một mặt đúc nổi hình đầu một người Da đỏ.

[23] Gia đình của một người: vở kịch truyền thanh nhiều kỳ bắt đầu từ tháng Tư năm 1932 kéo dài đến tháng Năm năm 1959 với 3.256 buổi phát thanh, cực kỳ ăn khách suốt ba thập niên. Vở này có cấu trúc nhân vật tương tự chuyện nhà Radley.

[24] Trận Marne thứ nhì, hoặc trận Reims: trận đánh mang tính bước ngoặt trong Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ thứ tháng Bảy đến tháng Tám năm 1918, trong đó Đức đại bại trước Đồng minh. Trận này cũng mở đầu một loạt chiến thắng khác của Đồng minh và dẫn đến kết thúc chiến tranh.

[25] Tín đồ Baptist (Tẩy lễ) sùng đạo đến mức cho rằng mọi thứ đều tội lỗi, nhất là những gì đem lại niềm vui.

[26] Nguyên văn: Closed communion: giáo xứ có chủ trương chỉ làm nghi thức thánh thể (rước lễ) cho những người trong giáo xứ, chứ không cho những tín hữu vãng lai.

[27] Đây là loại cải bẹ xanh (collard), lá rộng và dài mọc lòa xòa ra hai bên, nên rất khó đi giữa hai liếp cải mà không gây loạt xoạt.

[28]

[29]

Lò sưởi bằng sắt do Benjamin Franklin sáng chế.

Ý nói hai đứa tung hứng rất khớp

[30] Jem bắt chước dáng điệu của người Ai Cập qua tranh vẽ của họ (trên tường, đồ gốm…) còn Atticus bảo Scoutt bỏ tính từ trong câu nói của Jem đi nghĩa là: người Ai Cập chế ra giấy (chứ không phải giấy vệ sinh) và thuật ướp xác (đương nhiên là vĩnh viễn).

[31] Đá Rosetta được phát hiện năm 1799 ở Ai Cập, Đá Rosetta là một khối phún xuất thạch lớn có khắc văn bia về một đạo luật được ban hành năm 196 trước Công nguyên. Được viết bằng ba thứ tiếng, tảng đá này đem lại cho giới khảo cổ nhiều manh mối về ý nghĩa của các văn bản bằng chữ tượng hình người Ai Cập.

[32] Appomattox là một ngôi làng xưa ở miền trung Virginia. Ngày 9/4/1865, tướng Robert E.Lee của miền Nam đầu hàng tướng Ullysses S. Grant của miền Bắc tại Pháp đình Appomattox, chấm dứt cuộc Nội chiến Mỹ.

[33] Lường tịnh (tạm dịch chữ morphodite trong nguyên bản): Scout nghe nhầm lời cô Maudie, hẳn cô đã dùng chữ hermaphrodite (động thực vật lưỡng tính) để chỉ thằng người tuyết khi cô thấy nó có nét đàn ông lẫn đàn bà. Morphodite là một từ vô nghĩa do Harper Lee bịa ra nhưng sau này được nhiều tác giả Mỹ sử dụng lại.

[34] Bellingrath: gồm một dinh thự và nhiều khu vườn ở Mobile, Alabama, rộng

275.186m2, mở cửa cho thăm quan từ 1932 và được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1982.

[35] Hiệp ước dung hòa Missouri(1820) kết nạp Missouri vào liên bang mà vẫn được duy trì chế độ nô lệ ở bang này, nhưng quy định thêm rằng sẽ không cho phép có thêm tiểu bang có nô lệ nào nữa kể từ đường biên giới phía Nam Missouri trở lên phía Bắc.

[36] Stonewall Jackson (1824-1863): tướng miền Nam trong Nội chiến Mỹ, Ol’ Blue Light là biệt danh của ông.

[37] Dân miền Bắc nước Mỹ.

[38] Sân thượng có lan can trên nóc nhà(window’s walk, nghĩa đen, lối đi dạo cho quả phu) thường thấy ở những ngôi nhà ven biển, dành cho vợ của ngư phủ hoặc thủy thủ đứng ngóng tàu của chồng họ trở về.

[39] Huân tước Melborne(1979-1848): Thủ tướng đầu tiên của Nữ hoàng Victoria, cũng nổi tiếng là nịnh đầm

[40] Vào đêm trước khi bị đóng đinh trên thập giá, Jesus cầu nguyện rằng, “Lạy cha, nếu cha muốn, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con, một xin theo ý

cha.” Khi xin “cất chén này xa con” Jesus mong có thể tránh được số phận của mình (trong tiếng Hy lạp, “chén” có nghĩa bóng là “số phận”). Ở đây, Jack hiểu anh mình không muốn chịu số phận là phải biện hộ cho Tom Robinson.

[41] Jew’s harp: nhạc cụ nhỏ xíu, gọn trong lòng bàn tay, được cầm trong miệng và tạo âm thanh bằng cách gẩy ngón tay vào một lưỡi gà kim loại.

[42] Touch foolball: một biến thể của dòng bầu dục nhằm làm cho nó ít bạo lực hơn bằng cách thay vì giành bóng thì người ta chỉ cần chạm vào bóng rồi chạy.

[43] Confederate States of America (Liên hiệp các tiểu bang Mỹ) tên gọi chính thức của phe miền Nam trong Nội chiến Mỹ.

[44] Cách đọc trại tên Sir Walter Scout, tác giả tiểu thuyết Ivanhoe

[45] Biểu tình ngồi lì: một vũ khí hữu hiệu của giới công nhaanh ở thời Đại khủng hoảng kinh tế, họ ngồi tại xưởng, họ không làm việc và không cho ai khác làm việc, cho đến khi giới chủ chịu đàm phán với họ.

[46] Một trong ba người bị vua Nebuchadnezzar ném vào lò lửa, theo sách Daniel trong Cựu ước. Nhờ đức tin vào Thiên chúa, cả ba thoát nạn không chút hề hấn.

[47] Mardi Gras (gốc tiếng Pháp, nghĩa đen là thứ Ba béo): đợt lễ hội, vui chơi và diễu hành khi bước vào tuần chay mùa Phục sinh của người Công giáo, bắt đầu bằng thứ Tư lễ Tro.

[48] Nghĩa là món mua sắm đầu tiên.

[49 Nghĩa là: Ánh sáng của thế gian

[50] Kinh thánh tiếng Việt phiên âm thành Ghếtsêmani: nơi Jesus tới cầu nguyện vào đêm trước khi bị đóng đinh trên thập giá.

[51] Một trong những tác phẩm quan trọng nhất về luật pháp của Anh.

[52] Một liên minh Da đỏ gồm nhiều bộ tộc ở vùng Alabama, Georgia và Mississippi. Sau trận chiến 1813-14 họ bị người da trắng xua sang bờ Tây sông Mississippi.

[53] Reconstruction: thời kỳ trong khoảng 1867-1877, khi các bang miền Nam được tổ chức và xây dựng lại sau Nội chiến.

[54] Lydia E. Pinkham: nhà sản xuất những loại thuốc thông thường vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Hầu hết thuốc bào chế của Pinkham nhắm vào nữ giới, và phần lớn đều chứa một lượng cồn khá cao.

[55] Nghĩa là những suy ngẫm của Joshua S. St. Clair

[56] Đi săn dẽ giun: một trò đùa trong đó một nhóm dẫn một người đi săn chim dẽ giun trong rừng sâu, và khi người đó lo đi tìm giống chim đó thì cả bọn trốn về.

[57] Chỉ huy binh đoàn miền Tây của phe miền Nam trong Nội chiến, Bragg có binh nghiệp không lẫy lừng lắm và binh đoàn của ông cuối cùng đại bại.

[58] Câu trước của người ngồi xe là tục ngữ, câu sau của cô Maudie trích từ sách Châm ngôn (Cựu ước)

[59] William Jennings Bryan (1860-1925): luật sư, chính khách (từng ra tranh cử tổng thống ba lần) và là nhà hùng biện nổi tiếng. Diễn văn của ông thu hút rất đông người, nhất là ở miền Nam.

[60] Trong thời Cựu Ước, Ethiopia là một Vương quốc ở Đông Bắc châu Phi. Ngày nay, nó là một nước ở Đông Phi.

[61] Nghĩa là những kẻ ở không.

[62] Ám chỉ Robert Edward Lee (1807-1870) vị tướng lừng danh nhất của quân đội miền Nam trong Nội chiến.

[63] Nguyên văn: “counting his chickens,”Scout dùng nửa câu tục ngữ “Don’t count your chicken before they’re hatched” (Đừng đếm gà trước khi trứng nở) có nghĩa là đừng chắc chắn trước khi chuyện đó xảy ra. Vì Jem có vẻ chắc chắn rằng Atticus sẽ thắng, nên Scout nghĩ Jem quá tin chắc vào một chuyện chưa chắc xảy ra.

[64] Jingle: một nhân vật trong tiểu thuyết The Pickwick Papers của Charles Dickens, người thường bày tỏ ý kiến bằng những câu không trọn nghĩa.

[65] Đây là độ Fahrenheit, bằng khoảng 32 độ C

[66] Câu nói Atticus trích dân là từ Tuyên ngôn đọc lập của Mỹ do Thomas Jefferson soạn thảo. “Ngành hành pháp” ám chỉ tổng thống; ‘cánh nữ của ngành hàng pháp’ ám chỉ vợ tổng thống đương thời, bà Eleanor Roosevelt, người bị dân miền Nam chỉ trích gay gắt vì những quan điểm ủng hộ dân quyền của bà.

[67] Tức John D. Rockerfeller (1839-1937) vua dầu hỏa, một trong những người giàu nhất nước Mỹ thời đó.

[68] Bồi thẩm đoàn treo: (hung Jury): một bồi thẩm đoàn không thể nhất trí phán quyết trong một vụ xử.

[69] Anh em họ đôi (double cousin): khi hai chị em ruột lấy chồng là hai anh em ruột, con cái của hai cặp đó là anh em họ đôi, nghĩa là có họ theo bên nội lẫn bên ngoại. Scout đoán mò tầm bậy ý nghĩa của danh từ này.

[70] “Miệt trên” (Up there): ám chỉ miền Bắc, các tiểu bang ủng hộ giải phóng nô lệ, còn “miệt dưới” (Down there) ám chỉ các bang miền Nam, vốn chủ trương duy trì chế độ nô lệ. Bà Roosevelt tức Eleanor Roosevelt, vợ tổng thống Franklin Roosevelt. Năm 1939, bà tới Birmingham, một thành phố miền trung Alabama, để dự Hội nghị phía

Nam về An sinh nhân dân. Bà đã thách thức chính quyền tiểu bang bằng cách ngồi ở lối đi, giữa hai hàng ghế phân biệt dành cho người da đen và người da trắng, sau khi cảnh sát bảo rằng bà đã vi phạm luật phân cách chủng tộc khi ngồi chung với người da đen.

[71] Tín đồ nhảy múa(holy-roller): thành viên của một cô giáo nhỏ, thường biểu lộ lòng sùng đạo bằng cách la hét và di chuyển vòng quanh khi hành lễ.

[72] Natchell là nhân vật hí họa cho một loại phân bón có tên là Natural Chilean Nitrade of Soda. Nhiều mẩu quảng cáo cho sản phẩm này được làm dưới dạng truyện tranh. Little Chuck Little lầm tưởng những câu truyện này là sự kiện đương thời.

[73] Nhà báo và bình luân viên của đài CBS, sau đó phụ trách phòng thông tin chiến

sự.

[74] Tức Robert love Taylor (bob là tên gọi thân mật của Robert) chính khách và nhà hùng biện cuối thế kỷ mười chín.

[75] Ladies’ Law: bộ Hình luật Alabama, tập III, 1907, có ghi, “Bất cứ ai bước vào, hoặc đến đủ gần nơi cư trú của người khác, và trước sự hiện diện hoặc nghe thấy của gia đình người đó, hoặc bất cứ thành viên nào trong gia đình người đó, hoặc bất kỳ ai, trước sự hiện diện và nghe thấy của bất kỳ nữ giới nào, lại sử dụng ngôn từ tục tĩu, xúc phạm hoặc thô lỗ, nếu bị xác định có tội, sẽ bị phạt vạ tối đa 200 đô la, và có thể bị tù giam, hoặc lao động khổ sai cho hạt, tối đa sáu tháng.”

[76] J. Thomas “Cotton Tom” Heflin là một chính khách và nhà hùng biện của đảng Cộng hòa. Ông là tổng trưởng ngoại giao của bang Alabama vào đầu thế kỷ 20, sau đó được bầu vào Quốc hội Mỹ (1905-1920) và Thượng viện (1921-1931). Khối ủng hộ Heflin chủ yếu là nông dân và thành viên khu Klux Klan.

[77] NRA-WE DO OUR PART: Khẩu hiệu của NRA, tức National Recovery Administration (Cơ quan phục hồi kinh tế quốc gia). NRA cũng là tên viết tắt của

National Recovery Act (Đạo luật phục hồi kinh tế quốc gia) có mục đích tiến hành một loạt chương trình nhằm giúp nước Mỹ, nhất là các doanh nghiệp, phục hồi sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Năm 1935 Tối cao Pháp viện Mỹ phán quyết luật này

vi phạm hiến pháp. Atticus nói chính ông già giết chết NRA là ám chỉ chín thành viên của Tối cao Pháp viện.

[78] Dog Victrolas; ám chỉ biểu tượng quảng cáo của hãng RCA/ Victor, có hình một con chó “Nipper” đang nhìn vào loa của chiếc máy quay đĩa Victrolas.

[79] Tiếng latinh, nghĩa là: vượt qua khó khăn vươn tới các vì sao.

[80] Dân miền Nam nước Mỹ thường nói câu này (somebody just walked over my grave) khi họ bị một cơn ớn lạnh rùng mình.

[81] Atticus hàm ý cứ đem Jem ra xử trước tòa cho mọi người tới xem.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ