Quái Vật Ở Berlin - Chương 20: Quái vật

Tại thành phố Berlin, gió rét không quăng quật dữ dội như ở miền núi, thật may, nhưng Herbert vẫn có chút thất vọng, bởi cậu bé con biết mình sẽ không thể chiêm ngưỡng những dải màu sáng tối đẹp đẽ khi chiều tà dần buông. Lúc này đã gần chín giờ sáng, khi cậu cuối cùng cũng được bước đi trên đường phố Berlin. Cậu trố mắt trầm trồ trước từng ngôi nhà mình đi qua, tự hỏi làm sao thế giới lại có thể thay đổi nhanh như vậy trong lúc cậu sống tại Transylvania với những kiến trúc, quần áo, con người thật khác biệt, như thể tất cả đến từ một dòng thời gian khác, và ngay cả những cỗ xe cũng chẳng cần ngựa kéo như trước kia. Herbert thật sự không khỏi xuýt xoa khi cậu băng ngang đường.

“Sáng nay người im lặng quá, Ngài Thiên Thần.” Cậu bé bình phẩm khi đang đi dạo trong công viên. “Con không làm gì khiến người phật lòng chứ?”

Giọng nói của kẻ được gọi là thiên thần kia thở dài, phần nào nhừa nhựa vì buồn ngủ, “Không có, bé con ạ. Chỉ là… có quá nhiều người ở xung quanh con thôi.”

“Quá nhiều sao? Người không thích loài người ạ?”

“Kiểu vậy.”

“Kỳ lạ. Thiên thần thì phải thân thiện chứ.” Cậu bé nghiêng đầu thắc mắc. Giọng nói tiếp tục:

“Ồ, tất nhiên là ta thân thiện chứ. Rất thân thiện nữa là đằng khác.” Hắn có vẻ tự hào. “Nhưng chúng ta đang chơi trò chỉ dành cho hai người mà, phải không? Ta cảm thấy khó chịu khi có quá nhiều người chắn ngang tầm nhìn để ta trông chừng con.”

“Nhưng lúc này đâu có ai ở đây đâu ạ? Chỉ có con mèo béo ú kia đang nằm ngủ trên ghế dài thôi. Nhưng mà đúng là lũ mèo cũng tinh mắt lắm, hay ghê.”

“Quan sát rất tốt, Herbert, nhưng mặt trời đang khiến mắt ta đau.”

“Con không hiểu.”

“Ta không nhìn được nhiều vào ban ngày. Ta cứ tưởng xe lửa sẽ cập bến vào xế chiều, được như vậy đã tốt.” Ngài Thiên Thần bắt đầu có vẻ bực bội khi giải thích, nhưng Herbert không thắc mắc gì về việc này. Mặt khác, cậu cứ tiếp tục hỏi:

“Tại sao?” Cậu bé cắn môi. “Người là một thiên thần mà. Mà trên thiên đường thì phải có nhiều ánh sáng hơn ở đây nữa.”

“Ta là một thiên thần của màn đêm.” Giọng nói cục cằn.

“Ồ, con hiểu rồi. Lạ ghê.” là một câu trả lời khiến hắn ngạc nhiên vô cùng. “Nhưng đối với con thì nghe vẫn hay lắm. Đừng lo, con đã lớn rồi. Con tự chăm sóc mình được.”

“Thật may mắn.”

“Chúng ta đang đi đâu đây? Con đã lòng vòng quanh mấy dãy nhà này suốt rồi! Con mệt, chân của con bé xíu mà.”

“Ta tưởng con bảo mình đã lớn.”

“Ý con là lớn về tuổi, chứ không phải ngoại hình.”

“Herbert, cẩn thận ngữ điệu, con đang trả treo với ta đấy.”

“Con không có trả treo, con chỉ nói những gì mình nghĩ thôi mà!” Cậu bé con nhai nhải. “Chúng ta ghé chợ được không? Nó ở gần đây, và con có thể ngửi thấy mùi thức ăn rồi! Thơm quá!”

“Ồ, thức ăn ngon thì tuyệt thật, bé con ạ, nhưng chẳng phải giành được phần thưởng tốt hơn sao?

“Nhưng con đói.”

“Con đã ăn rồi.”

“Nhưng đó là nửa ngày trước! Một ổ bánh mỳ không thể giúp con no lâu vậy được. Nha? Con sẽ chỉ tạt ngang qua thôi.”

“Được rồi…” Ngài Thiên Thần thở dài, “Chúng ta có thể ghé chợ.”

Khu chợ tọa lạc giữa một quảng trường rộng lớn, tấp nập người qua lại vào thời điểm ban trưa, khi mặt trời lên cao và kinh doanh thuận lợi. Một bức màn sương của mùi thơm bao quanh nó, kéo Herbert đến gần nơi được biết đến là “Khu chợ Trung tâm” của Berlin. Bên này trưng bày những ổ bánh mỳ và bánh nướng vàng giòn màu của bơ mới, thu hút cậu bé con, và bên kia là mùi mặn thơm nồng của món xúc xích nướng mà có thể khiến bất kỳ ai thèm thuồng. Herbert chạy từ sạp hàng này qua sạp hàng nọ, tự hỏi rằng không biết mẩu thịt xông khói bé tý kia có thể cho không cậu được không. Cậu đã rất muốn chôm nó, đằng nào cũng chỉ là một mẩu thịt không ai để mắt đến mà thôi, và đằng nào Ngài Thiên Thần cũng sẽ trả tiền giúp cậu, nhưng lương tâm cậu sẽ cắn rứt vô cùng nếu cậu ăn cắp vặt, và tất cả những điều trên khiến cậu bé con cứ đứng thẫn thờ trước sạp thức ăn.

“Cháu thích món đó lắm sao?”

Một giọng trầm kéo Herbert về thực tại và cậu bé lắc đầu nguây nguẩy. Khi cậu xoay người lại nhìn, thì một khách hàng – là đàn ông – bệ vệ, giàu có đang cúi nhìn cậu mỉm cười, nhưng đôi mắt màu bạc khác thường của ông ta khiến cậu nhóc không khỏi chết điếng. Cậu còn chẳng nghe thấy tiếng ông ta bảo, “Ta có thể mua cho cháu nếu cháu thích”, và khi ông ta gọi cậu thêm lần nữa, mặc kệ cơn đói cồn cào của mình, Herbert bỏ chạy.

Không may cho Herbert, khi cậu quay phắt người chạy đi, cậu lập tức va phải những người khác đang đi chợ, và đánh rơi chiếc mũ beret của mình trên đường, trước khi mất hút vào dòng người chen chúc. Cậu không hề biết rằng người đàn ông lạ mặt kia cũng cảm thấy bàng hoàng vô cùng trước sự việc, và dù ông ta có thấy khó hiểu ra sao, người đàn ông quyết định nhặt chiếc mũ của Herbert lên và giữ nó.

Ngài Thiên Thần lại cất tiếng khi Herbert đang thở hổn hển nơi góc đường cách xa khu chợ, “Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Hắn ra tỏ vẻ lo lắng.

“Con bắt gặp một người. Ông ta trông đáng sợ lắm!” Cậu bé vừa nhớ lại vừa run.

“Ôi, thật tiếc khi con phải chịu cảnh như thế.” Giọng nói thương cảm chép miệng. “Hãy đến một nơi an toàn đi, xa khỏi những kẻ đáng sợ đó.”

“Vâng ạ.” Herbert lí nhí. “Chúng ta đi đâu đây?”

“Đến chỗ ta. Không xa lắm đâu, cứ đi theo lời ta nói là được.” Giọng nói an ủi. “Ta biết lối tắt.”

Kể từ phút đó, Herbert, tuy vẫn còn hơi chần chừ vì mệt và đói, vẫn vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình, hướng đến một ngôi nhà không tên tọa lạc tại vùng ngoại ô ở phía tây Berlin. Cậu né tránh quảng trường lớn như được hướng dẫn, men theo những con hẻm bất tận nơi không ai phát hiện ra cậu. Cảm giác như hàng giờ đã trôi qua, nhưng sự kiên nhẫn của cậu cuối cùng cũng được đền đáp. Tại một ngõ cụt cậu đối diện với mặt sau của một tòa nhà hai tầng, không có cửa sổ, chỉ có một cửa cái ở tầng trệt và bức tường ở tầng trên đã sờn mòn, mọi đường nét lộ rõ sự bẩn thỉu thiếu tu bổ từ lâu. Cánh cửa sắt chẳng có chuông hay tay nắm cũng đã rộp sơn và phai màu.

“Chúng ta đến nơi rồi.” Ngài Thiên Thần nói, khiến mắt Herbert ánh lên. “Mau vào đi, cửa không khóa.”

Đó là một cánh cửa kéo, vang lên ầm ĩ tiếng kẽo kẹt méo mó khi Herbert đưa tay vào khe cửa và kéo nó sang bên. Chỉ có bóng tối ngập tràn chào đón cậu, nhưng người bạn có vẻ như là thiên thần của cậu động viên, và cậu bé con lập tức tiến vào.

Với tiếng rầm của cánh cửa bị kéo đóng lại và khóa, cậu bé con phải giật bắn mình, ánh đèn cam vàng chập chờn bật lên, hiện ra bên trong một ngôi nhà trống hoác chẳng có gì ngoài một chiếc giường, một bộ bàn ghế, và một máy sưởi làm bằng gang, cùng với vài hộp điện mà cậu không hiểu thực chất là gì. Sự can đảm của cậu bắt đầu lung lay, bằng giọng nhỏ nhẹ, Herbert gọi:

“Ngài… Ngài Thiên Thần? Người có ở đó không?”

Có thứ gì như sát khí trong giọng nói khi nó đáp lại, “Chúc mừng. Con đã về đến đích của trò chơi rồi.”

“Thật ạ?”

“Và phần thưởng bí mật chính là… không có phần thưởng nào cả. Chẳng có điều ước nào thành hiện thực đâu, Herbert bé nhỏ.”

Nó kéo theo một giọng gầm gừ lớn tiếng biến thành tràng cười man dại, đầy ắp sự thích thú nhưng lại khiến bất kỳ ai lạnh sống lưng và buộc cậu bé con phải rên rỉ. “Sao…? Con không hiểu, Ngài Thiên Thần, người đang nói gì vậy?”

“Chậc chậc!” Giọng nói đáp. “Chẳng có Ngài Thiên Thần, hay người bạn tưởng tượng nào cả, đứa bé con ngu ngốc.” Khi nó gầm lên cả ngôi nhà dường như rung lắc, từng cột bụi khói bắt đầu rơi xuống từ trên trần nhà. Giọng nói như thể phát ra từ dưới lòng đất, lập tức hét lên, “Chỉ có Asmodeus mà thôi! Phù thủy [1] và tạo hóa quyền năng nhất của tất cả!”

[1]: Có một sự phân biệt giữa chức danh phù thủy của Asmodeus và người phụ nữ áo đen cũng như Johannes mà tác giả muốn đề cập đến. Asmodeus nằm trong nhóm sorcerer – loại pháp sư được cho là sở hữu năng lực phép thuật bẩm sinh, có năng lực thay đổi cả vận mệnh người khác nên vượt trội hơn nhiều loại phù thủy, ấy là nếu biết cách giữ gìn và phát triển năng lực. Người phụ nữ áo đen là witch, dạng cơ bản và phổ biến nhất khi nhắc đến phù thủy, thường sử dụng ma thuật hay yểm bùa, thờ phụng nhiều thế lực thiên nhiên lẫn siêu nhiên và các vị thần. Trong khi đó, Johannes chỉ thuộc dạng tự học không qua trường lớp, có hơi hướng giống wizard nhưng bản thân tác giả thích nghĩ theo hướng magician nghiệp dư hơn.

Herbert lập tức khóc ré lên, ầm ĩ và tuyệt vọng, khi trước mắt cậu xuất hiện một thứ sinh vật nửa người, nửa rắn. Đó chẳng là gì khác ngoài con quái vật cậu chạm trán trước kia, hắn nhe nanh cười khiếp đảm, rít lên đầy thích thú khi hắn quan sát cậu như thể cậu là một con mồi ngon lành. “Muốn chơi trò chơi khác không?” Asmodeus hỏi, chầm chậm trườn bò về phía cậu bé con.

“Không, không chơi! Tôi không quan tâm nữa, để tôi yên!” Herbert run rẩy van xin.

“Ồ, nhưng tất nhiên là ngươi quan tâm chứ. Ngươi biết cha mình cần điều ước đó mà.”

“Phải…”

“Nhưng ngươi đã không thực sự tập trung khi chơi trò chơi ta đưa ra, phải không? Thật dễ bị xao lãng.” Hắn gừ, thè chiếc lưỡi chẻ của mình ra mà rít. “Đứa bé con hư đốn. Thằng cha thảm hại của ngươi sẽ không sống nổi đâu.”

“Ý… Ý ông là sao?”

“Ý ta là như vậy đấy!” Hắn lại cười to. “Ông ta bây giờ hẳn đã chết rồi!”

“Không… không thể như thế được.” Herbert khóc. “Không thể! Ông nói tôi…”

“Nhưng không may, hoàn toàn có thể. Hitler cũng hứa sẽ không xâm lược Ba Lan đó thôi, nhưng ngươi biết cách thế giới này vận hành mà. Bọn ta nói dối.” Asmodeus chậc lưỡi, lượn lờ gần hơn lại cậu bé con. “Hiếm ai nhiễm nọc độc của ta mà sống sót. Mà có kể như cha ngươi sống được, thì ta đã đảm bảo mặt trời sẽ xử lý cái xác cằn cỗi của ông ta. Thật tiếc khi ngươi không thể nhìn mặt ông ta lần cuối.” Hắn giả vờ bĩu môi, chỉ khiến nước mắt Herbert thêm giàn giụa. Hắn tiếp, “Cứ khóc bao nhiêu tùy thích, gào lên cũng được, không ai nghe thấy ngươi đâu.”

“Làm ơn, để tôi đi…” Cậu bé van xin.

“Đi đâu? Ngươi chẳng có nhà, không có ai bảo trợ, lại xa gia đình. Ta đoán bây giờ ngươi chỉ còn ta là người quen duy nhất mà thôi.”

“Tôi không muốn.”

“Trẻ con lúc đầu bao giờ cũng bướng.” Asmodeus trêu. “Nhưng đừng lo…” Hắn cười rộng, “Kể từ bây giờ, ta sẽ chăm sóc cho ngươi.”

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ