XIII.
Hopton Stoddard thắng kiện.
Ellsworth Toohey viết trong cột báo của mình rằng: “Ông Roark đã định đóng vai Phryne trong toà án nhưng vai của ông không thành. Chúng ta chưa bao giờ tin vào câu chuyện đó cả…”
Toà án yêu cầu Roark thanh toán các chi phí chỉnh sửa ngôi đền. Anh nói rằng anh sẽ không kháng án. Hopton Stoddard tuyên bố rằng Ngôi đền sẽ được thiết kế lại thành Nhà tình thương Hopton Stoddard cho trẻ em thiểu năng.
Một ngày sau vụ xét xử, Alvah Scarret há hốc miệng kinh ngạc khi nhìn thấy bản in thử các chuyên mục Nhà của bạn đặt trên bàn làm việc của mình: bài báo trích lại hầu hết những lời chứng của Dominique ở toà án. Lời làm chứng của cô đã được trích trong những bài tường thuật của tờ báo về vụ kiện này nhưng chỉ là những đoạn vô hại. Alvah Scarret vội vã chạy đến phòng làm việc của Dominique.
“Em yêu, em yêu, em yêu” ông nói, “chúng ta không thể in bài này được.”
Cô nhìn ông trống rỗng và chẳng nói gì.
“Dominique, em yêu, hãy biết điều một chút. Không thể một số ngôn từ của em sử dụng và một số ý tưởng hoàn toàn không thể in được của em, em hoàn toàn hiểu rõ quan điểm của tờ báo này đối với vụ kiện cơ mà. Em biết chiến dịch mà chúng ta đã thực hiện. Em đã đọc bài xã luận sáng nay của tôi rồi đấy – Một chiến thắng của cái thiện. Chúng ta không thể để một tác giả đi ngược lại chính sách chung của chúng ta.”
“Anh sẽ phải in bài báo này.”
“Nhưng, em yêu…”
“Hoặc tôi sẽ phải bỏ việc.”
“Ồ, nào, nào, đừng ngốc nghếch thế chứ em. Đừng có lố bịch vậy chứ. Em biết rõ mà. Chúng tôi không thể hoạt động nếu không có em. Chúng tôi không thể…”
“Anh phải lựa chọn thôi, Alvah.”
Scarret biết rằng ông chắc chắn sẽ điêu đứng với Gail Wynand nếu ông cho in bài báo này, và ông cũng có thể điêu đứng nếu ông mất Dominique Francon vì mục báo của cô rất nổi tiếng. Wynand vẫn chưa quay về từ chuyến du ngoạn ngoài khơi của mình. Scarret đánh điện cho ông ở Bali và giải thích tình hình.
Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, Scarret đã nhận được câu trả lời. Nó được viết bằng mật mã riêng của Wynand. Bức điện được dịch thành SA THẢI CON CHÓ ĐÓ.G.W.
Scarret hoang mang nhìn bức điện. Nó là một mệnh lệnh không cho phép có bất kỳ phương án thay thế nào, kể cả nếu như Dominique đầu hàng. Ông hy vọng cô sẽ từ chức. Ông không thể đối diện với ý nghĩ phải sa thải cô.
Thông qua một cậu nhân viên mà ông đã giới thiệu vào làm việc, Toohey có được bản sao giải mã bức điện của Wynand. Ông bỏ nó vào túi và đến phòng làm việc của Dominique. Ông đã không gặp lại cô từ sau phiên toà. Ông thấy cô đang dọn sạch các ngăn kéo bàn làm việc của mình.
“Xin chào,” ông nói cộc lốc. “Cô đang làm gì vậy?”
“Đang chờ tin của Alvah Scarret.”
“Là sao?”
“Đang chờ xem liệu tôi có phải từ chức không?”
“Cô có muốn nói chuyện về vụ kiện không?”
“Không.”
“Tôi thì muốn nói chuyện đó. Tôi nghĩ rằng tôi nợ cô lời thừa nhận một cách lịch sự rằng cô đã làm một việc mà chưa ai từng làm trước đây: cô đã chứng minh rằng tôi sai. “Ông nói lạnh lẽo; khuôn mặt ông vô cảm; đôi mắt ông không có dấu hiệu của từ tâm. “Tôi không trông đợi cô làm cái điều mà cô đã làm trên bục nhân chứng. Nó là một thủ đoạn hèn hạ. Mặc dù nó phù hợp với chuẩn mực thông thường của cô. Tôi đơn giản chỉ là tính toán lầm về mục tiêu của sự hiểm độc của cô. Tuy nhiên, cô đã cảm nhận đúng rằng hành động của cô là vô ích. Tất nhiên, cô đã làm rõ được quan điểm của cô. Và làm rõ cả quan điểm của tôi nữa. Để bày tỏ sự tôn trọng, tôi có một món quà cho cô.”
Ông đặt bức điện lên bàn làm việc của cô.
Cô đọc và đứng cầm nó trong tay.
“Cô thậm chí không thể từ chức, cô bé thân mến” ông nói. “Cô không cả được phép hy sinh cho vị anh hùng vung vãi vàng ngọc của cô. Tôi nhớ cô luôn coi trọng việc không để ai đánh bại cô ngoại trừ chính cô; nên tôi nghĩ cô hẳn sẽ thích thú cái này.”
Cô gấp bức điện và nhét nó vào ví của mình.
“Cảm ơn, Ellsworth.”
“Nếu cô định sẽ chống lại tôi, cô bé thân mến, thì chỉ có những bào diễn thuyết suông là không đủ.”
“Không phải tôi đã luôn chống lại ông sao?”
“Tất nhiên, tất nhiên là cô đã làm vậy. Hoàn toàn đúng. Cô lại sửa cho tôi đấy. Cô đã luôn chống lại tôi – và lần duy nhất mà cô gục ngã và gào thét xin xự thương hại là ở trên cái bục nhân chứng đó.”
“Đúng vậy.”
“Đó là chỗ mà tôi đã tính toán nhầm.”
“Đúng vậy.”
Ông cúi người một cách trịnh trọng và rời khỏi phòng.
Cô đóng gói những thứ mà cô muốn mang về nhà. Sau đó cô đi đến phòng làm việc của Scarret. Cô cho ông xem bức điện trong tay cô, nhưng không đưa nó cho ông.
“Được thôi, Alvah,” cô nói.
“Dominique, tôi không thể làm được gì, tôi không thể làm được gì – Làm thế quái mà em có được nó vậy?”
“Không sao đâu, Alvah. Không, tôi sẽ không đưa lại cho anh đâu. Tôi muốn giữ nó.” Cô bỏ bức điện trở lại vào túi của mình. “Gửi séc và những gì cần bàn bạc với tôi qua đường bưu điện.”
“Dù sao thì em… em đã định từ chức phải không?”
“Đúng vậy. Nhưng tôi thích điều này hơn – bị sa thải.”
“Dominique, giá mà em biết được tôi cảm thấy tồi tệ đến thế nào. Tôi không thể tin được. Đơn giản là tôi không thể tin được.”
“Vậy là sau cùng, các người cũng đã biến tôi thành một kẻ tử vì đạo. Và đó là điều mà tôi đã cố gắng né tránh suốt cuộc đời mình. Trở thành một kẻ tử vì đạo thật vô duyên. Nó vinh danh đối thủ của tôi quá nhiều. Nhưng tôi sẽ nói với anh điều này, Alvah Tôi sẽ nói điều này với anh vì tôi không thể tìm được ai khác ít phù hợp hơn để lắng nghe nó; chẳng có gì mà các người làm với tôi – hoặc với anh ấy – sẽ tồi tệ hơn cái mà tôi sẽ tự làm với bản thân mình. Nếu các người nghĩ rằng tôi không thể chịu đựng được chuyện Đền Stoddard, thì hãy chờ cho đến khi các người thấy tôi có thể chịu đựng những gì.”
*
* *
Vào một buổi tối ba ngày sau vụ xét xử, Ellsworth Toohey ngồi trong phòng của mình nghe đài. Ông không có hứng làm việc tối nay và ông cho phép mình nghỉ ngơi. Ông thư giãn một cách thoải mái trong ghế bành, gõ gõ các ngón tay theo nhị một bản giao hưởng phức tạp. Ông nghe thấy tiếng gõ cửa phòng. “M…ời vào,” ông làu bàu nói.
Catherine bước vào. Cô liếc nhìn cái đài như để xin lỗi vì đã bước vào phòng.
“Cháu biết là chú không làm việc, chú Ellsworth. Cháu muốn nói chuyện với chú.”
Cô đứng khom khom, dáng người mảnh dẻ và không hề có các đường cong. Cô mặc một cái váy vải tuýt đắt tiền thùng thình. Cô đã xoá bớt một phần lớp trang điểm trên mặt; làn da cô dưới những lớp phấn son thật không có sức sống. Ở tuổi 26, trông cô như một phụ nữ đang cố che giấu những dấu vết của độ tuổi ngoài 30.
Trong một vài năm qua, với sự giúp đỡ của chú Ellsworth, cô trở thành một người làm công tác xã hội có năng lực. Cô làm việc ở một nhà tế bần, cô có một khoản ngân hàng nho nhỏ của riêng mình; cô dẫn bạn bè đi ăn trưa – những phụ nữ lớn tuổi hơn làm cùng nghề với cô và họ nói chuyện về những vấn đề của các bà mẹ không hôn thú, về biểu hiện của những đứa trẻ nghèo và về tội ác của các tập đoàn công nghiệp.
Trong một vài năm qua, Toohey dường như đã quên mất sự tồn tại của cô. Nhưng ông biết rằng cô biết hết về ông, một cách lặng lẽ và nhút nhát. Ông hiếm khi là người cởi lời nói chuyện với cô. Nhưng cô luôn đến gặp ông để xin những lời khuyên nhỏ nhặt. Cô giống như một cái động cơ nhỏ chạy bằng năng lượng của ông và thỉnh thoảng cô dừng lại để nạp nhiên liệu. Cô sẽ không đi đến nhà hát nếu không hỏi ý kiến ông. Một lần, thông qua một đồng nghiệp, cô kết bạn với một cô gái thông minh, có năng lực, vui vẻ và yêu quý những người nghèo. Toohey không đồng tình. Và Catherine từ bỏ tình bạn đó.
Khi cô cần lời khuyên, cô hỏi xin một cách ngắn gọn, theo kiểu nhân tiện vì sợ sẽ làm trì hoãn những việc ông đang làm. Cô hỏi vào khoảng trống giữa các món trong một bữa ăn, khi ông đứng chờ ở thang máy lúc ra khỏi nhà, trong phòng khách khi một chương trình phát sóng quan trọng nào đó dừng để dò đài. Cô cố ý chứng tỏ rằng cô không dám hỏi bất kỳ cái gì ở ông ngoài những mẩu vụn thời gian mà ông thừa ra.
Do vậy Toohey ngạc nhiên nhìn cô bước vào phòng đọc của ông. Ông nói:
“Tất nhiên rồi, mèo con của chú. Chú không bận. Với cháu thì chú không bao giờ quá bận cả. Vặn nhỏ đài xuống đi cháu.”
Cô vặn nhỏ đài và ngồi sụp xuống cái ghế bành đối diện với ông. Những chuyện động của cô thật kỳ cục và mâu thuẫn, giống như chuyển động của một thiếu niên vậy: cô đã mất thói quen di chuyển với sự tự tin và đôi khi một cử chỉ, một cái lắc đầu của cô, cho thấy sự mất bình tĩnh mà cô đã phải cố gắng đè nén và giờ đang tăng lên quá sức chịu đựng.
Cô nhìn chú của mình. Đằng sau cặp kính, đôi mắt cô bất động và căng thẳng. Đôi mắt không bộc lộ điều gì. Cô nói:
“Chú đang làm gì vậy, chú Ellsworth? Cháu đọc thấy trên các báo về việc thắng một vụ kiện lớn mà chú có liên quan. Cháu rất vui. Cháu đã không đọc báo trong nhiều tháng. Cháu quá bận… À, không hẳn là vậy. Cháu có thời gian, nhưng khi cháu về đến nhà thì cháu không muốn làm bất kỳ cái gì, cháu chỉ nằm vật ra giường và ngủ thoi. Chú Ellsworth, người ta ngủ nhiều vì họ mệt hay vì họ muốn thoát khỏi một cái gì đó?”
“Nào, cháu yêu quý, thế này nghe chẳng giống cháu chút nào cả. Hoàn toàn không.”
Cô lắc đầu bất lực. “Cháu biết.”
“Có chuyện gì nào?”
Cô nói trong lúc nhìn vào mũi giày, đôi môi cô cố gắng chuyển động:
“Cháu đoán là cháu chẳng được tích sự gì, chú Ellsworth ạ.” Cô nhướn mắt lên nhìn ông. “Cháu vô cùng bất hạnh.”
Ông lặng lẽ nhìn cô, khuôn mặt sốt sắng, đôi mắt dịu dàng. Cô thì thầm:
“Chú hiểu?” Ông gật đầu.
“Chú không giận cháu chứ? Chú không coi thường cháu chứ?”
“Cháu yêu quý, làm sao mà chú có thể?”
“Cháu đã không muốn nói điều này. Kể cả nói với chính mình. Không chỉ đêm nay, mà lâu lắm rồi.Chú cứ để cháu nói hết, chú đừng ngạc nhiên nhé, cháu phải nói ra. Giống như cháu vẫn xưng tội trước đây – ồ không, đừng nghĩ là cháu sẽ quay lại chuyện đó đâu, cháu biết tôn giáo chỉ là… chỉ là một công cụ bóc lột thôi, cháu sẽ không làm chú thất vọng sau khi chú đã giải thích chuyện đó cho cháu. Cháu không luyến tiếc chuyện đi nhà thờ. Có điều… có điều là cháu cần có ai đó lắng nghe cháu.”
“Katie, cháu yêu quý, trước hết, tại sao cháu lại sợ hãi đến thế? Cháu không được phép sợ hãi. Cháu không được sợ nói chuyện với chú. Bình tĩnh nào, hãy là chính mình và nói cho chú biết chuyện gì đã xảy ra.”
Cô nhìn ông đầy vẻ biết ơn. “Chú thật… nhạy cảm, chú Ellsworth ạ. Cháu đã không muốn nói điều đó nhưng chú đã đoán được. Đúng là cháu sợ. Bởi vì, chú thấy đấy, như chú vừa nói, phải là chính mình. Nhưng cháu lại sợ phải là chính mình nhất. Bởi vì cháu thật xấu xa.”
Ông phá ra cười, không phải để xúc phạm cô. Đấy là một tiếng cười ấm áp; âm thanh của nó phá tan câu nói của cô.Nhưng cô không mỉm cười.
“Chú, chú Ellsworth, cháu nói thật đấy. Cháu sẽ cố giải thích. Chú thấy đấy, từ lúc cháu còn bé, cháu đã luôn muốn làm đúng mọi việc. Cháu từng nghĩ rằng mọi người đều như thế cả nhưng giờ cháu không nghĩ thế nữa. Một vài người cố hết sức mình, kể cả nếu họ phải mắc lỗi, còn một số người khác thì chẳng buồn cố gắng. Cháu thì luôn cố gắng. Cháu đã luôn coi trọng mọi chuyện. Dĩ nhiên, cháu biết là cháu không thông minh và chuyện tốt xấu là một chuyện to lớn. Nhưng cháu cảm thấy bất kể cái tốt là gì – theo như cháu có thể cảm nhận được – thì cháu sẽ cố gắng hết sức mình để sống xứng đáng với nó. Và mọi người cũng đều có thể làm thế, đúng không? Chuyện này chắc là rất trẻ con với chú.”
“Không, Katie, nó không trẻ con. Cháu nói tiếp đi.”
“Thì, đầu tiên, cháu biết rằng ích kỷ là xấu. Điều đó thì cháu chắc chắn. Vì thế cháu đã cố gắng không bao giờ đòi hỏi cái gì cho bản thân. Khi Peter đi mất hàng tháng trời… Không, cháu nghĩ chú không tán thành chuyện đó.”
“Tán thành chuyện gì, cháu yêu quý?”
“Chuyện giữa Peter và cháu. Cháu sẽ không nói đến chuyện đó nữa. Đằng nào thì nó cũng chẳng đáng quan trọng. Nhưng, chú có thể thấy tại sao cháu đã rất vui khi cháu đến sống với chú. Chú là người không ích kỷ nhất mà một người có thể đạt được. Cháu đã cố gắng sống như chú. Chính vì thế mà cháu đã chọn công việc cháu đang làm. Chú chưa bao giờ bảo cháu nên chọn việc này, nhưng cháu có cảm giác chú nghĩ thế. Đừng hỏi cháu vì sao cháu cảm thấy thế – không có gì cụ thể cả, chỉ là những thứ nho nhỏ mà chú nói. Cháu đã rất tự tin khi cháu bắt đầu. Cháu biết là đau khổ đến từ sự ích kỷ, và cháu biết là người ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thực sự khi dâng hiến bản thân cho người khác. Chú đã nói thế. Nhiều người đã nói thế. Tất cả những vĩ nhân trong lịch sử đều nói thế.”
“Và?”
“Thì, nhìn cháu xem.”
Khuôn mặt ông bất động trong giây lát; rồi ông mỉm cười vui vẻ và nói:
“Cháu làm sao nào, mèo con? Ngoài việc cháu bị cộc-lệch và cháu nên cẩn thận hơn với đồ trang điểm?”
“Đừng cười, chú Ellsworth. Xin chú đừng cười. Cháu biết chú nói rằng phải luôn có khả năng cười nhạo mọi thứ, nhất là cười nhạo bản thân mình. Có điều là … cháu không thể.”
“Chú sẽ không cười, Katie. Nhưng có chuyện gì nào?”
“Cháu thật khổ sở. Cháu khổ sở một cách tồi tệ và kinh tởm nhất. Theo cách mà có vẻ… bẩn thỉu. Và không trung thực nữa. Nhiều này liền cháu sợ không dám nghĩ, không dám nhìn vào bản thân mình. Và thế là sai. Cháu đang … trở nên đạo đức giả. Cháu luôn luôn muốn trung thực với bản thân mình. Nhưng mà cháu lại không trung thực. Cháu không hề. Không hề.”
“Khoan đã nào, cháu yêu quý. Đừng gào lên thế. Hàng xóm sẽ nghe thấy cháu.”
Cô lấy mu bàn tay vuốt ngang qua trán. Cô lắc đầu. Cô thì thầm:
“Cháu xin lỗi… Cháu sẽ ổn thôi…”
“Thế vì sao cháu lại khổ sở, cháu yêu quý?”
“Cháu không biết. Cháu không thể hiểu được. Ví dụ, chính cháu là người sắp xếp các lớp học cho phụ nữ sắp đẻ con ở dưới nhà Clifford, đấy chính là ý cháu, cháu tự quyên góp tiền, cháu đi tìm giáo viên. Các lớp học đều đang rất tốt. Cháu tự nhủ là cháu luôn vui mừng vì điều đó. Nhưng cháu lại không. Chuyện đó chẳng có ý nghĩa gì với cháu cả. Cháu ngồi và cháu tự nhủ: Chính mình là người sắp xếp để con của Marie Gonzales được nhận nuôi ở một gia đình tử tế, nào, hãy vui vẻ lên. Nhưng cháu lại không vui. Cháu chẳng cảm thấy mệt mỏi mà thôi. Không phải mệt mỏi về thể chất. Mà là mệt mỏi thôi. Kiểu như là… như là chẳng còn có cả con người cháu để mà cảm thấy mệt nữa.”
Cô bỏ kính ra, như thể đôi kính của cô và đôi kính của ông ngăn cô tiếp cận ông. Cô nói, giọng cô thấp, những lời lẽ phải cố gắng lắm mới bật được ra:
“Nhưng không chỉ có thể. Có cái còn tồi tệ hơn nhiều. Nó đang làm khổ cháu. Chú Ellsworth, cháu bắt đầu ghét mọi người. Cháu bắt đầu trở nên độc ác, ti tiện và xấu xa; cháu chưa bao giờ như thế cả. Bây giờ, cháu trông đợi mọi người biết ơn cháu. Cháu… cháu đòi hỏi họ phải biết ơn. Cháu thấy hài lòng khi những người nghèo cúi đầu, lúng túng, và xun xoe với cháu. Cháu thấy mình chỉ thích những người biết phục tùng. Một lần… một lần cháu bảo một người đàn bà rằng chị ta không biết cảm ơn những gì mà chúng ta làm cho loại rác rưởi như chị ta. Sau đấy, cháu khóc mấy tiếng liền. Cháu quá xấu hổ. Cháu bắt đầu nổi cáu khi người ta cãi lại cháu. Cháu cảm thấy họ không có quyền phát biểu ý kiến riêng, cháu thấy mình biết rõ hơn họ, cháu thấy mình có quyền tối cao hơn họ. Có một cô gái mà bọn cháu rất lo, bởi vì cô ta chơi bời với một anh chàng điển trai và tai tiếng. Cháu hành hạ cô ta nhiều tuần liền về chuyện đó; cháu bảo cô ta rằng anh ta sẽ khiến cô ta khốn đốn và cô ta phải bỏ anh ta. Thế mà họ lấy nhau và họ là đôi hạnh phúc nhất. Chú nghĩ là cháu sẽ vui? Không. Cháu tức điên lên và cháu gần như thô lỗ khi cháu gặp cô ta. Khi có một cô gái rất cần việc làm, hoàn cảnh gia đình cô ấy thực sự kinh khủng, cháu đã hứa với cô ấy là cháu sẽ tìm việc cho cô ấy. Nhưng trước khi cháu tìm được việc, cô ấy đã tự tìm thấy. Cháu không hài lòng. Cháu thấy bực mình vì cô ta thoát khỏi sự cùng quẫn mà không cần cháu. Hôm qua, cháu nói chuyện với một cậu bé muốn vào đại học và cháu đã không khuyến khích cậu ta; cháu bảo cậu ta hãy đi tìm việc làm. Cháu cũng nổi giận nữa. Và cháu chợt nhận ra cháu nổi giận vì cháu đã rất muốn đi học đại học – chú nhớ chứ, chú đã không để cháu đi học – và vì thế cháu không muốn cậu bé đó được đi học. Chú Ellsworth, chú thấy không? Cháu đang trở nên ích kỷ. Cháu đang trở thành một kẻ ích kỷ theo cái cách còn tồi tệ hơn nếu như cháu chỉ là những kẻ lừa đảo chuyên gian lận tiền công của những người thợ.”
Ông hỏi khẽ:
“Hết chưa?”
Cô nhắm mắt lại; rồi cô nói trong lúc dán mắt vào hai bàn tay:
“Rồi ạ… có điều, cháu không phải là người duy nhất như thế. Rất nhiều người như thế, hầu hết những người phụ nữ làm việc ở chỗ cháu đều như thế… Cháu không biết họ đã biến thành như thế bằng cách nào… Cháu không biết việc đó xảy ra với cháu thế nào… Cháu đã từng hạnh phúc khi giúp đỡ người khác. Cháu nhớ một lần – hôm đó cháu ăn trưa với Peter – và trên đường về, cháu thấy một người chơi đàn rong, và cháu cho ông ta 5 đô la cháu có trong túi. Đấy là tất cả số tiền cháu có; cháu đã tiết kiệm để mua một chai “Đêm giáng sinh”; cháu đã rất muốn có nó, nhưng về sau, mỗi lần nghĩ đến người chơi đàn rong đó, cháu thấy rất vui… Hồi đó, cháu còn gặp Peter… Cháu thường về nhà sau khi gặp anh ấy và cháu muốn ôm hôn tất cả những đứa trẻ rách rưới trong khu nhà của chúng ta… Cháu nghĩ là bây giờ cháu ghét người nghèo… Cháu nghĩ những đồng nghiệp của cháu cũng vậy… Nhưng những người nghèo lại không ghét chúng cháu, lẽ ra họ phải thế. Họ khinh bỉ chúng cháu… Chú thấy không, thật là nực cười, lẽ ra phải là ông chủ khinh bỉ nô lệ và nô lệ căm ghét ông chủ. Nhưng bây giờ cháu chẳng biết ai là chủ ai là nô lệ nữa. Có thể ẩn dụ này không hợp. Cũng có thể là nó hợp. Cháu không biết nữa…”
Cô ngẩng đầu lên để thổ lộ nốt.
“Chú có thấy cái mà cháu cần phải hiểu không? Tại sao cháu đã thành thực bắt tay vào làm một việc mà cháu nghĩ là đúng đắn, thế mà rồi cháu lại trở nên tội lỗi? Cháu nghĩ có lẽ vì cháu có bản chất xấu xa và cháu không có khả năng hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Đấy là lý giải duy nhất. Nhưng… đôi khi cháu nghĩ thật là vô lý khi một người hoàn toàn thành tâm muốn làm điều tốt nhưng cái tót lại là cái không dành cho anh ta. Cháu không thể nào tội lỗi đến mức ấy. Nhưng… nhưng cháu đã bỏ tất cả, cháu không có một ham muốn cá nhân nào nữa, cháu không còn gì của riêng cháu cả… và cháu thật khổ sở. Và những người giống như cháu đều thế cả. Cháu không biết một người không ích kỷ nào mà lại hạnh phúc cả – trừ chú.”
Cô gục đầu xuống và không ngẩng lên; dường như cô thờ ơ cả với câu trả lời mà cô đang tìm kiếm.
“Katie.” Ông nói khẽ, vẻ trách cứ, “Katie, cháu yêu quý.”
Cô im lặng chờ đợi
“Cháu có thực sự muốn chú cho cháu câu trả lời không?” Cô gật đầu.
“Bởi vì, cháu biết đấy, cháu đã có câu trả lời, ngay trong những điều cháu nói.”
Cô ngước mắt lên một cách trống rỗng.
“Cháu vừa nói gì nào? Cháu vừa phàn nàn về việc gì nào? Về việc cháu khổ sở. Về Katie Halsey – thế thôi. Đấy là bài diễn thuyết tự cao tự đại nhất mà chú từng nghe trong đời chú.”
Cô chớp chớp mắt, như một học sinh đang cố hiểu một bài học khó.
“Cháu không thấy là cháu đã ích kỷ thế nào ư? Cháu đã chọn một sự nghiệp cao cả không phải vì những điều tốt đẹp cháu có thể làm, mà vì hạnh phúc của cá nhân cháu. Cháu hy vọng sẽ tìm thấy nó trong công việc của cháu.”
“Nhưng cháu đã thực lòng muốn giúp đỡ mọi người.”
“Bởi vì cháu nghĩ là cháu sẽ trở nên tốt đẹp và đạo đức nhờ việc đó.”
“Thì… vâng. Bởi vì cháu nghĩ là điều đó đúng đắn. Chả nhẽ làm điều đúng đắn lại là xấu xa sao?”
“Phải, nếu như đấy là động cơ chính của cháu. Cháu không thấy điều đó là ích kỷ đến thế nào ư? Mặc xác mọi người, miễn là ta có đạo đức.”
“Nhưng nếu người ta không có… không có sự tự tôn, thì người ta còn là cái gì nữa?”
“Người ta có nhất thiết phải là cái gì không?”
Cô xoè hai bàn tay, kinh ngạc.
“Nếu như động cơ chính của cháu là những gì cháu nghĩ, cháu cảm thấy, cháu có hoặc không có – thì cháu vẫn cứ là một kẻ ích kỷ thông thường.”
“Nhưng cháu không thể nhảy ra khỏi người cháu được.”
“Không. Nhưng cháu có thể nhảy ra khỏi linh hồn chật chội của cháu.”
“Ý chú là cháu phải mong muốn được khổ sở?”
“Không. Cháu phải triệt tiêu việc mong muốn bất cứ cái gì. Cháu phải quên cô Catherine Halsey quan trọng đến thế nào đi. Bởi vì, cháu thấy đấy, cô ấy không quan trọng. Con người chỉ quan trọng trong quan hệ với những người khác, trong sự hữu dụng của họ, trong những lợi ích mà họ mang lại cho người khác. Trừ khi cháu hiểu điều này hoàn toàn, cháu không thể mong chờ điều gì ngoài sự đau khổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Tại sao lại phải khổ sở đến thế chỉ vì cháu nhận thấy cháu có cảm giác độc ác với mọi người? Thế thì sao nào? Đấy chỉ là sự đau khổ khi người ta trưởng thành. Không ai có thể nhảy ra khỏi trạng thái động vật hoang dã để lên làm một sinh linh thần thánh mà không trải qua những chuyển đổi nhất định. Một số chuyển đổi thậm chí còn có vẻ xấu xa. Một phụ nữ đẹp thường là một cô bé xấu xí đã. Tất cả sự trưởng thành đều đòi hỏi sự phá huỷ. Cháu không thể rán trứng mà không đập vỏ trứng. Cháu phải sẵn sàng chịu đựng, phải độc ác, phải không trung thực, phải bẩn thỉu – bất cứ thứ gì, cháu yêu quý, bất cứ thứ gì để giết chết những mầm mống bướng bỉnh nhất của cái tôi. Và chỉ khi cái tôi đã hoàn toàn chết, khi cháu không còn quan tâm nữa, khi cháu không còn danh tính và lãng quên tên hiệu của chính linh hồn mình – chỉ khi đó cháu mới biết đến trạng thái hạnh phúc mà chú vẫn nói đến, và khi đó cánh cửa bước vào sự cao cả của linh hồn mới mở toang trước mặt cháu.”
“Nhưng chú Ellsworth,” cô thì thầm, “khi cửa mở toang ra, thì ai là người bước vào?”
Ông phá ra cười giòn giã. Tiếng cười có âm hưởng của sự ngạc nhiên.
“Cháu yêu quý.” Ông nói, “chú chưa bao giờ nghĩ là cháu lại có thể làm chú ngạc nhiên.”
Rồi khuôn mặt ông trở lại vẻ sốt sắng.
“Đấy là một vết nứt, Katie, nhưng cháu biết đấy, chú hy vọng, đấy chỉ là một vết nứt thôi?”
“Vâng.” Cô nói rụt rè. “Cháu đoán thế. Nhưng mà…”
“Chúng ta không được bám lấy nghĩa đen khi chúng ta bàn về những thứ trừu tượng. Dĩ nhiên, cháu sẽ là người bước qua cổng. Cháu sẽ không đánh mất danh tính của cháu – cháu chỉ có một danh tính mới rộng lớn hơn, một danh tính sẽ là một phần của tất cả mọi người và của cả vũ trụ.”
“Làm thế nào? Theo nghĩa nào? Một phần của cái gì ạ?”
“Giờ thì cháu thấy đấy, thật khó nói những chuyện này khi mà toàn bộ ngôn ngữ của chúng ta là ngôn ngữ của chủ nghĩa cá nhâ, với tất cả những thuật ngữ và tín điều của nó. ‘Danh tính’ là một ảo tưởng, cháu biết đấy. Nhưng cháu không thể xây một ngôi nhà mới từ những đống gạch cũ. Cháu không thể nào hiểu chú hoàn toàn nếu cháu dùng những khái niệm thông thường. Chúng ta đã bị đầu độc bởi những tín điều về cái tôi. Chúng ta không thể phân biệt được cái tốt và cái xấu mà không nghĩ đến cái tôi, chúng ta không thể phân biệt được cảm giác và cũng chẳng biết tại sao. Phải tiêu diệt cái tôi trước. Đó là lý do tại sao trí tuệ lại không đáng tin. Chúng ta không được nghĩ. Chúng ta phải tin. Phải tin, Katie, ngay cả nếu trí óc cháu cưỡng lại điều đó. Đừng nghĩ. Hãy tin. Hãy tin tưởng trái tim cháu, đừng tin đầu có cháu. Đừng nghĩ. Đừng cảm. Hãy tin.”
Cô ngồi yên, ngay ngắn nhưng trông cô như thể vừa bị một cỗ xe tăng đè bẹp. Cô thì thầm một cách ngoan ngoãn:
“Vâng, chú Ellsworth… Cháu… Cháu đã không nghĩ theo cách đó. Ý cháu là cháu đã luôn luôn cho rằng cháu phải nghĩ… Nhưng chú nói đúng, nếu như đúng là từ thích hợp ở đây, nếu như có một từ để diễn tả… Vâng, cháu sẽ tin… Cháu sẽ cố hiểu… Không, không phải là hiểu… Mà là cảm thấy. Cháu sẽ cố tin… Ý cháu là… Có điều, cháu thật yếu ớt… Cháu luôn cảm thấy thật nhỏ mọn sau khi nói chuyện với chú… Cháu đoán là cháu đã đúng chút ít… Cháu thật vô ích… nhưng không sao… không sao cả…”
* * *
Khi chuông cửa vang lên vào tối hôm sau, Toohey đích thân ra mở cửa.
Ông mỉm cười khi dẫn Peter Keating vào. Từ sau phiên toà, ông đã chờ Keating đến; ông biết rằng Keating sẽ có nhu cầu đến gặp ông. Nhưng ông đã nghĩ Keating sẽ đến sớm hơn thế này.
Keating ngập ngừng bước vào. Hai bàn tay anh dường như trĩu nặng dưới cổ tay. Mắt anh húp lên và da mặt anh sệ xuống.
“Chào Peter.” Toohey vui vẻ nói. “Muốn gặp tôi hả? Vào đi. Anh thật may. Tôi có cả buổi tối rảnh rỗi.”
“Không.” Keating nói, “cháu muốn gặp Katie.”
Anh không nhìn Toohey và anh không thấy vẻ mặt Toohey phía sau đôi mắt kính.
“Katie? Dĩ nhiên rồi.” Toohey nói vui vẻ. “Anh biết không, anh chưa bao giờ đến đây tìm Katie, vì thế tôi đã không nghĩ ra, nhưng… Vào đi, nó có nhà đấy. Lối này – anh không biết phòng nó hả? – cửa thứ hai.”
Keating nặng nề đi qua hành lang và gõ cửa phòng Catherine. Khi cô trả lời, anh bước vào. Toohey đứng nhìn theo anh; trông ông trầm tư.
Catherine nhảy lên khi cô nhìn thấy anh. Cô đứng bần thần, hoang mang một giây, rồi cô chạy tới giường vội vã thu dọn một cái thắt lưng cô để trên giường và giấu nó xuống dưới gối. Rồi cô vội vã gỡ kính ra, nắm chặt nó trong tay và luồn nó vào túi áo. Cô băn khoăn không biết cách nào sẽ tệ hơn: cứ ngồi nguyên ở đây hay ngồi xuống bàn trang điểm và trang điểm ngay trước sự có mặt của anh.
Cô không gặp Keating đã sáu tháng. Trong ba năm qua, họ gặp nhau thỉnh thoảng, cách những quãng dài; họ ăn trưa với nhau vài lần, ăn tối với nhau vài lần, họ đi xem phim hai lần. Họ đã luôn hẹn gặp nhau ở nơi công cộng. Từ lúc anh bắt đầu biết Toohey, Keating không muốn đến gặp cô ở nhà cô. Khi họ gặp nhau, họ nói chuyện như thể chưa có thay đổi gì đã xảy ra. Nhưng họ cũng không hề nói đến chuyện kết hôn từ lâu nay.
“Hello Katie” – Keating nói khẽ – “Anh không biết là em đeo kính.”
“Chỉ… chỉ để đọc thôi… Em… Hello Peter… Em đoán là tối nay trông em thật kinh khủng… Em rất mừng được gặp anh, Peter…”
Anh nặng nhọc ngồi xuống, mũ cầm trong tay, để nguyên cả áo khoác ngoài. Cô đứng mỉm cười sốt sắng. Rồi cô khoát tay thành những vòng tròn mơ hồ và hỏi:
“Anh chỉ vào một chút hay… hay là anh muốn bỏ áo khoác ra?”
“Không, anh chỉ vào một chút thôi.” Anh đứng dậy, ném áo khoác và mũ lên giường; rồi anh cười lần đầu tiên và hỏi:
“Hay là em bận và muốn tống cổ anh đi?”
Cô lấy cùi tay dụi vào hốc mắt rồi nhanh chóng thả rơi hai bàn tay. Cô phải gặp anh như cô đã luôn gặp anh. Cô phải nói chuyện nhẹ nhàng và bình thường.
“Không, không, em không hề bận.”
Anh ngồi xuống và dang tay ra, im lặng mời mọc. Cô lập tức lại gần anh. Cô đặt tay vào tay anh và anh kéo cô ngồi lên thành ghế.
Ánh đèn chiếu vào người anh và cô đã trấn tĩnh lại đủ để nhận thấy vẻ mặt anh.
“Peter,” cô há hốc miệng kinh ngạc, “anh làm gì với bản thân anh thế? Trông anh thật kinh khủng.”
“Uống rượu.”
“Không… không đến mức như thế!”
“Đến mức thế đấy. Nhưng hết rồi.”
“Có chuyện gì vậy?”
“Anh đã muốn gặp em, Katie. Anh đã muốn thấy em.”
“Anh yêu… họ đã làm gì anh thế?”
“Không ai làm gì anh cả. Giờ anh ổn rồi. Anh không sao. Bởi vì anh đã ở đây… Katie, em có nghe đến Hopton Stoddard bao giờ không?”
“Stoddard?… Em không biết. Em đã thấy cái tên đó ở đâu đó.”
“Không sao đâu, chẳng có gì cả. Anh chỉ nghĩ mọi việc thật là. Em thấy đấy, Stoddard là một lão già; lão ta không thể chịu nổi sự thối tha của lão ấy thêm nữa, thế là lão ấy chuộc tội bằng cách xây một món quá lớn cho thành phố. Nhưng khi anh… khi anh không thể chịu được nữa, anh cảm thấy cách duy nhất anh có thể chuộc tội là làm điều anh muốn làm nhất. Là đến đây.”
“Khi anh không thể chịu đựng được cái gì hả Peter?”
“Anh đã làm một việc rất bẩn thỉu, Katie. Một ngày nào đó anh sẽ nói cho em, nhưng không phải bây giờ… Em có thể nói là em tha thứ cho anh mà không hỏi là là cái gì không? Anh sẽ nghĩ… anh sẽ nghĩ là anh đã được tha thứ bởi một người không bao giờ có thể tha thứ cho anh. Một người không thể bị tổn thương và vì thế không thể tha thứ- nhưng điều đó làm mọi việc càng khủng khiếp với anh.”
Cô không có vẻ bối rối. Cô nói sốt sắng:
“Em tha thứ cho anh, Peter.”
Anh gật đầu chậm chạp vài lần rồi nói:
“Cảm ơn em.”
Rồi cô áp đầu mình vào đầu anh và thì thầm:
“Anh vừa mới đi qua địa ngục, phải không anh?”
“Phải. Nhưng giờ thì ổn rồi.”
Anh kéo cô vào trong vòng tay anh và hôn cô. Rồi anh không nghĩ đến Đền Stoddard nữa, và cô không nghĩ đến chuyện tốt và xấu. Họ không cần nghĩ đến; họ cảm thấy mình trong sạch.
“Katie, tại sao chúng ta chưa cưới nhau?”
“Em không biết” – cô nói. Rồi cô vội vã nói thêm – chỉ vì tim co đang đập mạnh, bởi vì cô không thể giữ im lặng và bởi vì cô thấy cô không được lợi dụng anh – “Em đoán là vì chúng ta biết rằng chúng ta không cần phải vội.”
“Nhưng chúng ta phải vội. Nếu không phải là chúng ta đã quá muộn rồi.”
“Peter, anh … anh đang cầu hôn em lại à?”
“Đừng có ngạc nhiên thế, Katie. Nếu em ngạc nhiên, anh sẽ biết là em đã luôn nghi ngờ điều đó suốt những năm qua. Và anh không thể chịu được ý nghĩ đó vào lúc này. Tối nay anh đến tìm em để nói với em chuyện đó. Chúng ta sẽ cưới nhau. Chúng ta sẽ cưới nhau ngay lập tức.”
“Vâng, Peter.”
“Chúng ta không cần tuyên bố, không cần hẹn ngày, không cần chuẩn bị, khách khứa, không cần gì cả. Chúng ta đã để cho những thứ đó ngăn chúng ta lại. Thực sự anh cũng không hiểu làm sao mà chúng ta lại chần chứ đến tận giờ… Chúng ta sẽ không nói gì với ai cả. Chúng ta sẽ chuồn khỏi thành phố và sẽ cưới nhau. Chúng ta sẽ tuyên bố và giải thích sau, nếu có ai cần giải thích. Và ý anh là chú em, mẹ anh, và tất cả mọi người.”
“Vâng, Peter.”
“Em sẽ nghỉ cái công việc chết tiệt của em ngay ngày mai. Anh sẽ thu xếp ở văn phòng để nghỉ một tháng. Guy chắc sẽ phát điên – anh sẽ rất thích. Chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng – em không cần nhiều đâu – không cần quan tâm đến đồ trang điểm – mà em nói là tối nay trông em khủng khiếp à – chưa bao giờ trông em đáng yêu như bây giờ. Anh sẽ đến đây chín giờ sáng ngày kia. Em phải sẵn sàng để khởi hành lúc đó.”
“Vâng, Peter.”
Sau khi anh đi khỏi, cô nằm trên giường, khóc thành tiếng, không kìm nén, không xấu hổ, không quan tâm đến bất cứ thứ gì khác.
Ellsworth Toohey đã để cửa phòng đọc sách của ông mở. Ông đã nhìn thấy Keating đi ngang qua cửa mà không nhận ra ông và rồi Keating bước ra ngoài. Rồi ông nghe tiếng Catherine khóc. Ông bước vào phòng cô mà không gõ cửa. Ông hỏi:
“Có chuyện gì thế, cháu yêu quý? Peter làm gì cháu à?”
Cô nâng đầu lên khỏi gối. Cô nhìn ông, hất tóc ra khỏi mặt và khóc thổn thức. Cô nói mà không kịp nghĩ xem mình định nói gì. Cô nói một điều mà cô không hiểu nhưng ông thì hiểu:
“Cháu không sợ chú đâu, chú Ellsworth.”