Đi Tìm Lẽ Sống - Tái bút 1984

Sau khi tìm hiểu cuốn tự truyện ngắn của tôi, các độc giả thường xuyên
yêu cầu giải thích đầy đủ và trực tiếp hơn về chủ trương điều trị của tôi.
Chính vì thế, tôi đã đưa một phần ngắn về liệu pháp ý nghĩa vào trong bản
gốc của cuốn From Death – Camp to Existentialism (Từ trại tập trung tử
thần cho đến Học thuyết sinh tồn). Nhưng điều đó vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu tìm hiểu của bạn đọc, mọi người lại hỏi tôi về phương pháp điều trị
sâu hơn. Vì vậy, trong ấn phẩm hiện hành, tôi đã viết lại hoàn toàn và mở
rộng câu chuyện của mình khá nhiều.
Nhiệm vụ đó không dễ chút nào. Để chuyển tải đến bạn đọc tất cả nội
dung tài liệu của một bộ sách dày hai mươi tập bằng tiếng Đức trong giới
hạn khuôn khổ của một tập sách nhỏ là một nhiệm vụ bất khả thi. Tôi nhớ lại
vị bác sĩ người Mỹ có lần đã đến văn phòng tôi ở Áo và hỏi: “Này tiến sĩ,
anh có phải là một nhà phân tâm học không?”. Tôi trả lời “Tôi không hẳn là
một nhà phân tâm học, hãy gọi tôi là chuyên gia điều trị tâm lý”. Và rồi ông
ấy tiếp tục hỏi: “Anh theo trường phái nào?”. Tôi trả lời: “Đấy là học thuyết
riêng của tôi; nó được gọi là Liệu pháp ý nghĩa.”. “Anh có thể giải thích cho
tôi một cách ngắn gọn về Liệu pháp ý nghĩa được không?” ông ấy hỏi. “Ít ra
thì đâu là sự khác biệt giữa phân tâm học với liệu pháp ý nghĩa?”. Tôi trả lời:
“Vâng, nhưng trước hết, anh có thể nói cho tôi nghe một câu xem anh nghĩ
bản chất của phân tâm học là gì không?”. Câu trả lời của anh ấy như sau:
“Trong phân tâm học, bệnh nhân phải nằm trên một chiếc ghế dài, và nói ra
những điều mà họ không muốn nói đến”. Ngay lập tức tôi đã đáp lời anh ấy:
“Vậy thì trong liệu pháp ý nghĩa, bệnh nhân vẫn ngồi thẳng lắng nghe những
điều mà đôi khi họ rất không thích nghe”.
Dĩ nhiên, nhận xét trên chỉ mang ý hài hước và không phải là cách nhìn
tổng quan về liệu pháp ý nghĩa. Tuy nhiên, điều quan trọng là liệu pháp ý
nghĩa, khi so sánh với phân tâm học, là một phương pháp ít hồi tưởng về quá
khứ và ít quán xét nội tâm hơn. Liệu pháp ý nghĩa tập trung hơn vào tương
lai, tức là vào những ý nghĩa cuộc sống sẽ được bệnh nhân xây đắp trong
tương lai. (Liệu pháp ý nghĩa thực ra là một phương pháp phân tâm học
nhưng tập trung vào ý nghĩa). Đồng thời, liệu pháp ý nghĩa không tập trung
vào các hình mẫu và cơ chế phản hồi theo vòng luẩn quẩn – nguyên nhân
chính khiến chứng rối loạn thần kinh gia tăng. Theo đó, tính vị kỷ trung tâm
của người bị rối loạn thần kinh sẽ bị phá vỡ thay vì tiếp tục được nuôi dưỡng

và củng cố.
Trên đây chỉ là những tóm tắt cơ bản nhất về liệu pháp ý nghĩa; nhưng
trong liệu pháp này, bệnh nhân thực sự đối mặt và thay đổi thái độ về ý
nghĩa cuộc sống. Liệu pháp ý nghĩa còn giúp bệnh nhân vượt qua căn bệnh
rối loạn thần kinh của mình.
Hãy để tôi giải thích tại sao tôi đã lấy thuận ngữ “Liệu pháp ý nghĩa”
(logotherapy) để đặt tên cho học thuyết của mình. Logos là một từ trong
tiếng Hy Lạp có nghĩa là “ý nghĩa”. Liệu pháp ý nghĩa, hay còn được một số
tác giả gọi là “Trường phái thứ ba của Áo về tâm lý liệu pháp”, tập trung vào
ý nghĩa của sự hiện hữu của con người cũng như ý nghĩa của việc con người
đi tìm lẽ sống của đời mình. Theo liệu pháp ý nghĩa, nỗ lực tìm kiếm ý nghĩa
trong cuộc sống chính là động lực thúc đẩy con người. Đó là lý do tại sao tôi
đã nói khát khao lẽ sống trái ngược với nguyên tắc hạnh phúc (hay còn gọi là
khát khao được thoả mãn) mà phân tâm học của Freud thường dùng, và nó
cũng trái ngược với khát khao quyền lực – hay cụm từ “phấn đấu trở thành
người xuất chúng” mà tâm lý gia Adler đã sử dụng.
Khát khao lẽ sống
Việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống ở con người là một động lực cơ bản chứ
không phải là một động lực “duy lý thứ cấp” theo bản năng. Ý nghĩa này
mang tính duy nhất và mang dấu ấn đặc thù của cá nhân; và chỉ như vậy nó
mới đáp ứng những tiêu chuẩn về ý nghĩa cuộc sống theo quan niệm của cá
nhân đó. Có một vài tác giả cho rằng ý nghĩa và giá trị của cuộc sống “chẳng
là gì khác ngoài cơ chế phòng thủ, các hình thái phản ứng và sự thăng hoa”.
Nhưng đối với tôi, tôi sẽ không sống đơn thuần chỉ vì “các cơ chế phòng
thủ” và cũng không muốn chết chỉ vì “các hình thái phản ứng” của mình.
Tuy nhiên, con người có thể sống và thậm chí hy sinh vì lý tưởng và các giá
trị của mình!
Một cuộc khảo sát ý kiến của công chúng đã được thực hiện nhiều năm
trước ở Pháp. Kết quả cho thấy có 89% người thừa nhận rằng con người cần
“một điều gì đó” để sống. Ngoài ra, 61% người cho rằng có một điều gì đó,
một người nào đó trong cuộc đời mà họ sẵn sàng chết cho điều ấy/người ấy.
Tôi lặp lại khảo sát này trong phòng khám ở Vienna với các bệnh nhân và
nhân viên trong viện, và kết quả thực tế cũng giống như kết quả mà hàng
ngàn người ở Pháp đã được khảo sát; chỉ có 2% khác biệt.
Một cuộc khảo sát khác được tiến hành với 7.948 sinh viên ở 48 trường
đại học đã được các nhà khoa học xã hội của đại học Johns Hopkins thực
hiện. Báo cáo sơ bộ của họ là một phần trong nghiên cứu kéo dài 2 năm

được viện sức khoẻ Tâm thần Quốc gia tài trợ. Khi được hỏi điều gì là “quan
trọng nhất” ở hiện tại, có 16% sinh viên đã đánh dấu vào ô “kiếm được nhiều
tiền”; 78% cho rằng mục tiêu đầu tiên của họ là “tìm được mục đích và ý
nghĩa của cuộc sống”.
Dĩ nhiên cũng có một vài trường hợp mà con người quan tâm tới giá trị
nhằm che đậy những mâu thuẫn bên trong. Nếu vậy, đó chỉ là những trường
hợp ngoài quy luật. Trong các trường hợp này, chúng ta đang thực sự đối
mặt với các giá trị giả tạo, và cần phải lột bỏ chúng. Tuy nhiên, việc này sẽ
chấm dứt ngay khi người ấy phải đương đầu với những giá trị đích thực và
chân chính của con người, chẳng hạn như khát khao về một cuộc sống có ý
nghĩa. Nếu việc đó không dừng lại, điều duy nhất mà “một chuyên gia tâm lý
gỡ mặt nạ” cần phải làm là lột bỏ “động cơ tiềm ẩn” của người đó – tức nhu
cầu vô thức của người ấy trong việc xem nhẹ sự chân thực, hạ thấp những
giá trị đích thực trong con người mình.
Nỗi thất vọng về sự tồn tại
Việc mong muốn tìm thấy lẽ sống cũng có thể khiến một người thất vọng,
và liệu pháp ý nghĩa gọi đó là “nỗi thất vọng về sự tồn tại”. Khái niệm “sự
tồn tại” có thể được phân làm ba cấp độ: một là bản thân sự tồn tại, ví dụ như
cách thức sống, tồn tại cụ thể của con người; hai là ý nghĩa của sự tồn tại; và
ba là cố gắng tìm kiếm ý nghĩa thực sự trong sự tồn tại của bản thân, tức lẽ
sống.
Nỗi thất vọng về sự tồn tại cũng có thể dẫn đến chứng rối loạn thần kinh.
Với loại rối loạn này, liệu pháp ý nghĩa đã đưa ra khái niệm “rối loạn tinh
thần” ngược với rối loạn thần kinh theo nghĩa đen, ví dụ như bệnh tâm thần.
Rối loạn tinh thần có nguồn gốc không phải từ tâm lý mà từ “tâm trí” về sự
tồn tại của con người (trong tiếng Hy Lạp, noös có nghĩa là tâm trí). Đây là
một thuật ngữ khác trong liệu pháp ý nghĩa, bao hàm bất cứ yếu tố nào gắn
liền với nhân tố con người cụ thể.
Rối loạn tinh thần
Tình trạng rối loạn tinh thần không xuất phát từ những xung đột về ý chí
và bản năng mà từ những mâu thuẫn trong các vấn đề về sự tồn tại. Trong số
các vấn đề này, việc thất vọng về ý nghĩa cuộc sống chiếm tỷ trọng đáng kể.
Rõ ràng đối với các trường hợp rối loạn tinh thần, liệu pháp điều trị thích
hợp và hiệu quả không chỉ là điều trị tâm lý nói chung; mà còn là phương
pháp điều trị từ bên trong, giúp bệnh nhân tìm lại được ý nghĩa cuộc sống.
Hãy để tôi đưa ra một ví dụ: Một nhà ngoại giao người Mỹ đến văn phòng

tôi ở Áo để tiếp tục việc điều trị mà ông ấy đã bắt đầu năm năm trước với
một bác sĩ tâm lý ở New York. Theo thông lệ, tôi hỏi ông ấy lý do tại sao
ông nghĩ mình cần phải điều trị và tại sao ông bắt đầu điều trị. Nguyên nhân
là vì bệnh nhân bất mãn với công việc và cảm thấy khó mà tuân theo chính
sách đối ngoại của Mỹ. Tuy nhiên, nhà phân tích tâm lý trước đây cứ khuyên
ông nên giảng hoà với cha của ông; bởi vì chính phủ Mỹ cũng như cấp trên
của ông “chẳng khác gì hơn” là hình ảnh của người cha đối với ông, và vì
thế sự bất mãn của ông với công việc là do lòng căm ghét mà ông đã che
giấu một cách vô thức đối với cha mình. Suốt quá trình trị liệu kéo dài năm
năm đó, các bác sĩ đã tìm cách thuyết phục ông chấp nhận lời giải thích của
họ, và kết quả là ông không thể nhìn thấy bản chất hiện trạng của mình mà
chỉ thấy một rừng những lý giải mang tính biểu tượng và hình ảnh. Sau nhiều
cuộc nói chuyện với ông, tôi nhận thấy rằng rõ ràng công việc đã khiến ông
thất vọng về sự tồn tại của bản thân, và thực ra ông mong muốn được làm
một việc khác. Bởi vì không có lý do gì buộc ông phải tiếp tục công việc của
mình nên tôi khuyên ông chuyển việc. Và thực tế là ông đã gặt hái những kết
quả đa phần tốt đẹp trong công việc mới này. Đã năm năm trôi qua và ông
thông báo với tôi là hiện ông vẫn hài lòng với công việc ấy. Vì vậy, tôi
không nghĩ đó là một bệnh nhân bị rối loạn tinh thần, và đó cũng là lý do tại
sao tôi nghĩ rằng ông ấy không cần phải điều trị tâm lý, thậm chí cũng chẳng
cần đến liệu pháp ý nghĩa. Ông ấy không phải là một bệnh nhân. Không phải
xung đột nào cũng là chứng rối loạn tinh thần; một số xung đột là bình
thường và cho thấy một trạng thái khoẻ mạnh. Như vậy, sự đau khổ không
phải lúc nào cũng là một bệnh lý, tuy nó thường được xem là một nguyên
nhân của chứng rối loạn tinh thần. Nỗi đau khổ cũng có thể đánh dấu một
bước trưởng thành của con người, đặc biệt là khi nó có khả năng đưa con
người vượt lên nỗi thất vọng về sự tồn tại của bản thân. Trong bất kỳ trường
hợp nào, tôi cũng tuyệt đối lên án những nghi ngờ cho rằng việc con người
tìm kiếm ý nghĩa cho sự tồn tại là kết quả hay biểu hiện của một căn bệnh
nào đó. Bản thân sự thất vong về hiện trạng cuộc sống không phải là một căn
bệnh hoặc biểu hiện của bệnh tật. Mối bận tâm hàng đầu của một người đang
tuyệt vọng là tình trạng chán nản với sự tồn tại của mình, nhưng điều đó
không có nghĩa là họ mắc bệnh tâm thần. Rất có thể vì cho rằng tình trạng
chán nản ấy là triệu chứng của bệnh tâm thần nên nhiều bác sĩ đã dùng các
loại thuốc an thần như một phương án giúp các bệnh nhân chôn giấu sự thất
vọng về cuộc sống. Trong khi đó, đúng ra nhiệm vụ của bác sĩ là phải dẫn
dắt bệnh nhân trưởng thành và phát triển qua những bất hạnh trong đời.
Liệu pháp ý nghĩa có nhiệm vụ trợ giúp bệnh nhân tìn thấy ý nghĩa trong
cuộc sống của họ. Bởi vì liệu pháp ý nghĩa khiến người bệnh nhận ra được ý
nghĩa bị che khuất trong sự tồn tại của mình, cho nên nó là một quá trình

phân tích. Theo hướng tiếp cận này, liệu pháp ý nghĩa cũng có điểm giống
với phân tâm học. Tuy nhiên, trong nỗ lực giúp bệnh nhân nhận thức được
điều gì đó một lần nữa, liệu pháp ý nghĩa không giới hạn các hoạt động của
nó với những sự việc mang tính bản năng bên trong vô thức của cá nhân, mà
nó còn quan tâm đến thực trạng của sự tồn tại, chẳng hạn như đáp ứng ý
nghĩa sâu xa của sự tồn tại và khát khao lẽ sống của bệnh nhân. Tuy nhiên,
bất cứ phân tích nào, cho dù không tính đến yếu tố tinh thần trong quá trình
trị liệu, cũng cố gắng giúp bệnh nhân nhận ra điều mà họ thực sự khao khát
tận sâu bên trong sự tồn tại của mình. Liệu pháp ý nghĩa khác với phân tâm
học ở chỗ nó xem con người là một chủ thể mà mối quan tâm chính bao gồm
cả việc thực thi ý nghĩa cuộc sống, chứ không chỉ đơn thuần đem lại sự hài
lòng và thoả mãn của ý chí và bản năng; hay chỉ hoà giải các xung đột về
xung lực, bản ngã, siêu ngã; hoặc chỉ là sự thích ứng và điều chỉnh bản thân
trước môi trường và xã hội.
Động lực tinh thần
Chắc chắn rằng việc con người đi tìm ý nghĩa cuộc sống có thể gây ra
căng thẳng nội tâm hơn là cân bằng trạng thái tâm lý nội tâm. Tuy nhiên, sự
căng thẳng đó là một điều không thể thiếu về mặt sức khoẻ tinh thần. Tôi
dám chắc rằng không có gì trên đời này có thể giúp một người sinh tồn trong
những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất một cách hiệu quả bằng việc hiểu rằng
cuộc sống của mỗi người luôn có ý nghĩa. Nietzsche đã nói một câu rất thông
thái rằng: “Người nào có lý do để sống thì sẽ có thể tồn tại trong mọi nghịch
cảnh”. Tôi có thể tìm thấy trong câu nói này một chân lý cho bất kỳ phương
pháp điều trị tâm lý nào. Người ta thấy rằng, trong các trại tập trung của Đức
quốc xã, những người hiểu rằng mình còn có việc phải hoàn thành thường có
nhiều khả năng sống sót nhất. Một kết luận tương tự cũng được đưa ra từ
phía các tác giả có sách viết về trại tập trung, và từ những cuộc điều tra trên
các tù nhân trong các trại giam ở Nhật Bản, Triều Tiên…
Như trường hợp của tôi, lúc tôi bị đưa tới trại tập trung ở Auschwitz, một
bản thảo chuẩn bị xuất bản của tôi
[14]
đã bị tịch thu. Dĩ nhiên, chính khát
khao cháy bỏng viết lại bản thảo này đã giúp tôi sống sót trong hoàn cảnh
khắc nghiệt ở trại. Chẳng hạn như lúc ở trong trại tại Bavaria, khi bị bệnh sốt
phát ban, tôi đã viết lên mẩu giấy vụn các ghi chú của mình với ý định sẽ
viết lại bản thảo khi được tự do. Tôi chắc rằng việc tái cấu trúc lại bản thảo
đã mất của mình trong bóng đêm ở trại tại Bavaria đã giúp tôi tránh được
cơn đột quỵ tim.
Vì vậy, sức khoẻ tinh thần dựa trên một mức độ căng thẳng nhất định – sự
căng thẳng giữa những gì mà một người đã hoàn thành với những điều mà

người đó vẫn còn phải hoàn thành, hoặc khoảng trống giữa con người hiện
tại của người đó với con người mà họ muốn trở thành. Sự căng thẳng đó là
điều vốn có trong con người và cũng là điều không thể thiếu đối với một tinh
thần khoẻ mạnh. Vì vậy, chúng ta không nên ngần ngại trong việc thách thức
con người bằng những mục đích sống thật ý nghĩa mà người đó có thể thực
hiện. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể khơi dậy khát khao sống tiềm tàng
trong bản thân người đó. Một số nhà tâm lý học cho rằng điều mà con người
cần đầu tiên là trạng thái cân bằng về tâm lý, hay theo cách gọi sinh học là
“trạng thái nội cân bằng”, ví dụ như trạng thái bình tĩnh, tôi xem đây là một
nhận thức sai lệch nguy hiểm trong phương pháp giải toả tâm lý. Điều mà
con người thực sự cần không phải là trạng thái bình tĩnh mà là sự phấn đấu
và đấu tranh cho một mục tiêu xứng đáng, một công việc được tự do lựa
chọn. Điều mà con người cần không phải là việc loại bỏ căng thẳng bằng bất
cứ giá nào mà là nhu cầu thực thi ý nghĩa tiềm tàng trong cuộc sống của
mình. Điều mà con người cần không phải là trạng thái nội cân bằng mà là
một động lực tinh thần, chẳng hạn như các động lực liên quan đến sự tồn tại
của con người giữa trường căng thẳng của hai cực, một cực tượng trưng cho
ý nghĩa cần phải thực thi và cực kia tượng trưng cho người phải thực hiện
nó. Và ta không nên nghĩ rằng điều này chỉ đúng trong những hoàn cảnh
bình thường; ở những người bị rối loạn tinh thần, điều này thậm chí còn rõ
ràng hơn. Nếu các kiến trúc sư muốn gia cố mái vòm lung lay, họ cần phải
gia tăng tải trọng ở phía trên để các phần của mái vòm kết chặt hơn. Vì vậy,
nếu một nhà trị liệu muốn gia cố sức khoẻ tinh thần của bệnh nhân, họ không
nên sợ khi phải tạo ra một mức độ căng thẳng qua việc tái định hướng về ý
nghĩa cuộc sống cho các đối tượng họ điều trị.
Như đã chứng minh tác động ích lợi của việc sống có mục tiêu, tôi
chuyển sang nói về tác động có hại của cảm giác đó qua những than phiền
của nhiều bệnh nhân ngày nay về cảm giác vô nghĩa trong cuộc sống của họ.
Họ không nhận thấy được ý nghĩa trong cuộc sống. Họ bị ám ảnh bởi cảm
giác trống rỗng trong tâm hồn, vết khuyết bên trong; họ bị mắc kẹt trong tình
huống mà tôi gọi là “trạng thái tồn tại chân không”.
Trạng thái tồn tại chân không
Trạng thái tồn tại chân không là một hiện tượng tâm lý phổ biến của con
người ở thế kỷ 20. Đây là một điều dễ hiểu; có lẽ là do sự mất mát nhân đôi
mà con người từng phải trải qua từ khi trở thành con người thực sự. Vào
buổi bình minh của lịch sử loài người, con người đã mất đi một số bản năng
cơ bản của loài thú. Từ đó, sự an toàn, giống như trên Thiên đường, đã đóng
chặt mãi mãi với con người; và con người buộc phải có những lựa chọn
khác. Rồi sau đó, trong tiến trình phát triển ở các giai đoạn sau này, con

người còn phải chịu những mất mát khác như các truyền thống nhằm củng
cố hành vi của con người giờ đã bị suy giảm nhanh chóng. Không còn bản
năng cho một người biết mình phải làm gì, và không còn truyền thống nói
cho người đó biết mình nên làm gì; đôi khi người đó thậm chí còn không biết
mình muốn làm gì nữa. Thay vào đó, người đó muốn làm những gì mà người
khác làm (chủ nghĩa tuân thủ) và muốn làm những gì mà người khác yêu cầu
mình thực hiện (chế độ chuyên chế).
Một cuộc khảo sát gần đây đã cho thấy trong số các sinh viên châu Âu,
25% có biểu hiện ít nhiều về mức độ của “trạng thái tồn tại chân không”.
Giữa các sinh viên Mỹ, con số này không chỉ ở 25% mà lên tới 60%.
Trạng thái tồn tại chân không biểu hiện chủ yếu qua tâm trạng chán nản.
Giờ thì chúng ta có thể hiểu luận điểm của Schopenhauer khi ông ấy nói rằng
con người rõ ràng bị đoạ đày để sống lơ lửng vĩnh viễn giữa hai thái cực đau
khổ và buồn bã. Thực tế, sự chán nản chắc chắn đem lại cho các chuyên gia
tâm lý nhiều vấn đề để giải quyết, chứ không chỉ đơn thuần là sự đau khổ
của con người. Và tình trạng tồn tại chân không này đang gia tăng mạnh bởi
vì quá trình tự động hoá có thể đem lại nhiều giờ nghỉ hơn cho đa số công
nhân. Đáng tiếc là nhiều người trong số họ sẽ không biết làm gì với số lượng
thời gian rảnh rỗi mới này.
Hãy xem xét ví dụ về tình trạng “rối loạn tinh thần vào ngày chủ nhật”,
nhiều người rơi vào trạng thái trầm cảm vào ngày nghỉ cuối tuần, khi những
ngày bận rộn trong tuần trôi qua và đến chủ nhật, họ nhận ra cuộc sống của
mình thật trống trải, vô vị. Một số trường hợp tự đã sát đã được xác nhận
nguyên nhân là do trạng thái tồn tại chân không. Các triệu chứng phổ biến
như trầm cảm, cáu bẳn và nghiện ngập là những biểu hiện khác nhau của
trạng thái này. Trạng thái tồn tại chân không cũng là nguyên nhân đứng đằng
sau những triệu chứng khủng hoảng ở nhiều tù nhân và người cao tuổi.
Hơn nữa, trạng thái tồn tại chân không còn được nguỵ trang dưới những
chiếc mặt nạ hay vỏ bọc khác nhau. Đôi khi, mong muốn tìm hiểu ý nghĩa
cuộc sống bị thất bại và được thay thế bằng hình thái cổ xưa nhất của khao
khát quyền lực là khao khát tiền bạc. Trong các trường hợp khác, ham muốn
khoái lạc chiếm chỗ của khao khát về ý nghĩa cuộc sống. Đó là lý do tại sao
sự thất vọng về hiện trạng cuộc sống thường được giải quyết bằng sự bù đắp
tình dục. Chúng ta có thể nhìn thấy những trường hợp người ta không thể
kiểm soát được các hành vi tính dục trong trạng thái tồn tại chân không.
Các ca rối loạn tinh thần cũng là biểu hiện của trạng thái tồn tại trên. Có
một số loại cơ chế phản ứng và các đặc thù có tính chu kỳ đối với trường
hợp này mà tôi sẽ nói tới sau. Tuy nhiên, ta có thể thấy rằng triệu chứng này

thường xuyên xuất hiện ở bất kỳ đối tượng nào có biểu hiện của trạng thái
tồn tại chân không, và chúng không ngừng phát triển mạnh mẽ. Đối với
những bệnh nhân này, vấn đề các bác sĩ phải đối mặt không phải chỉ là căn
bệnh rối loạn tinh thần. Chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong việc
giúp bệnh nhân vượt qua được bệnh trạng của mình nếu không đưa ra liệu
pháp điều trị tâm lý kết hợp với liệu pháp ý nghĩa. Bằng cách lấp đầy trạng
thái tồn tại chân không của người bệnh, chúng ta mới có thể ngăn ngừa việc
bệnh sẽ tái phát về sau. Vì vậy, liệu pháp ý nghĩa được chỉ định không chỉ
trong những trường hợp rối loạn tinh thần như đã đề cập ở trên, mà còn cho
các trường hợp bắt nguồn từ tâm lý, và đôi khi cả những trường hợp rối loạn
thần kinh vật lý (giả). Nhìn nhận vấn đề từ góc độ này, Magda B.Arnold có
lần đã nói: “Theo một cách nào đó, mỗi phương pháp điều trị tâm lý cũng là
liệu pháp ý nghĩa”.
Giờ chúng ta hãy xem mình có thể làm gì nếu một bệnh nhân hỏi về ý
nghĩa cuộc sống của anh ta là gì.
Ý nghĩa cuộc sống
Với tư cách một bác sĩ tâm lý, tôi có thể nói rằng thật khó để có thể trả lời
câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống nếu chỉ dựa trên những lý thuyết mang tính
tổng quát. Bởi vì ý nghĩa cuộc sống của mỗi người mỗi khác nhau, và nó có
thể thay đổi theo từng ngày, từng giờ. Vì vậy, điều quan trọng không phải là
ý nghĩa cuộc sống nói chung mà là ý nghĩa cụ thể trong cuộc sống của mỗi
người vào từng thời điểm nhất định. Câu hỏi “ý nghĩa cuộc sống của tôi là
gì?” cũng giống như câu hỏi được đặt ra cho người thắng giải quán quân
trong một trận cờ: “Thưa Kỳ sư, xin hãy nói cho tôi biết nước cờ nào là hay
nhất trên đời?”. Đơn giản là chẳng có nước cờ nào như thế cả, bởi vì nước cờ
hoàn hảo nhất hoặc hay nhất xuất phát từ một tình huống cụ thể trong trận
đấu và cá tính cụ thể của đối thủ. Ý nghĩa về sự tồn tại của con người cũng
vậy. Một người không nên tìm kiếm ý nghĩa trừu tượng về cuộc sống. Mỗi
người đều đảm nhận một công việc, vai trò cụ thể trong cuộc sống. Vì vậy,
không ai có thể thay thế người đó cũng như cuộc đời của người đó cũng
không thể lặp lại. Vì vậy, nhiệm vụ của một người là duy nhất, và cơ hội mà
người ấy thực hiện nhiệm vụ đó cũng là duy nhất.
Vì mỗi tình huống trong đời tượng trưng cho một thử thách mà mỗi cá
nhân phải tìm cách giải quyết, cho nên câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống thực ra
có thể đảo ngược. Xét cho cùng, con người không nên cứ hỏi rằng điều gì là
có ý nghĩa cho cuộc sống của mình, mà bản thân anh ta phải là người trả lời
câu hỏi đó. Nói cách khác, cuộc sống luôn đặt câu hỏi cho mỗi người, và con
người chỉ có thể trả lời cuộc sống thông qua chính cuộc sống riêng của mình;
trả lời cuộc sống bằng thái độ sống có trách nhiệm của bản thân. Vì vậy, liệu

pháp ý nghĩa xem trách nhiệm là điều cần thiết cho sự tồn tại của con người.
Điều cần thiết cho sự tồn tại
Kêu gọi tinh thần trách nhiệm là nhiệm vụ khẩn thiết hàng đầu của liệu
pháp ý nghĩa, tức là: “Hãy sống như thể bạn đang được sống lần thứ hai và
đang sắp phạm phải sai lầm như đã từng phạm phải lần đầu tiên”. Đối với
tôi, dường như không gì có khả năng khơi dậy tinh thần trách nhiệm của một
người hơn là câu châm ngôn này, vế thứ nhất gợi mở rằng hiện tại là sự lặp
lại của quá khứ, và vế thứ hai mang hàm ý quá khứ có thể thay đổi và sửa
chữa. Câu châm ngôn ấy đặt con người vào tình thế đối mặt với tính hữu hạn
của cuộc sống cũng như hành động cuối cùng mà người đó đã tạo ra cho
mình và cho đời.
Liệu pháp ý nghĩa cố gắng giúp bệnh nhân nhận ra trách nhiệm của bản
thân để người đó hiểu được trách nhiệm của mình là để thực thi nhiệm vụ
nào, hướng tới mục tiêu gì, hoặc dành cho ai. Đó là lý do tại sao các chuyên
gia liệu pháp ý nghĩa ít áp đặt các xét đoán của mình lên bệnh nhân, bởi vì
họ không bao giờ cho phép bệnh nhân đẩy trách nhiệm về phía bác sĩ.
Do đó, chính bệnh nhân sẽ quyết định rằng nên xác định ý nghĩa cuộc
sống của mình theo hướng thực hiện trách nhiệm với xã hội hay với chính
lương tâm của mình. Tuy nhiên có những người không muốn ý nghĩa cuộc
đời họ chỉ đơn thuần là để hoàn thành một nhiệm vụ được giao, mà họ muốn
tự mình là người giao nhiệm vụ cho bản thân – tự mình định hướng ý nghĩa
cuộc đời mình.
Liệu pháp ý nghĩa không mang tính giáo điều, thuyết giảng. Nó cũng
hiếm khi đề cập đến những lập luận logic bởi nó xuất phát từ sự thúc đẩy về
tinh thần. Nói một cách bóng bẩy, chuyên gia liệu pháp ý nghĩa sẽ sử dụng
cái nhìn của một nhà thẩm định hội hoạ chứ không phải cặp mắt của một hoạ
sĩ. Hoạ sĩ sẽ cố gắng truyền tải đến người xem bức tranh của thế giới theo
cách nhìn của mình; còn nhà thẩm định hội hoạ sẽ cố gắng để chúng ta nhìn
thấy một thế giới chân thực. Vai trò của chuyên gia liệu pháp ý nghĩa bao
gồm cả việc mở rộng tầm nhìn của bệnh nhân, khiến họ dễ dàng thấy rõ toàn
bộ ánh hào quang rực rỡ của một cuộc sống giàu ý nghĩa.
Khi tuyên bố rằng con người phải hành động để hiện thực hoá ý nghĩa
cuộc sống và có trách nhiệm về điều đó, tôi muốn nhấn mạnh rằng ý nghĩa
thực sự của cuộc sống sẽ được khám phá trong đời thực hơn là chỉ trong bản
thân một con người hay trong phạm vi đời sống tinh thần của người đó, mặc
dù hai phạm trù này có liên hệ mật thiết với nhau. Tôi gọi đặc tính cơ bản
này là “sự vượt lên cái tôi hạn hẹp”. Nó chỉ rõ một thực tế là con người luôn

luôn hướng, và được định hướng, tới một cái gì đó hoặc một ai đó khác hơn
là chính mình – một điều cần phải hoàn thành hoặc một người nào đó cần
phải gặp. Một người càng quên đi bản thân mình – bằng cách cho mình một
lý do để phụng sự hoặc chọn cách sống vì một người mà mình thương yêu –
thì người đó càng có nhiều nhân tính và càng phát triển bản thân hơn. Sự tự
trưởng thành không phải là một mục tiêu có thể đạt được dễ dàng, bởi một lý
do đơn giản là một người càng phấn đấu để đạt được điều gì đó thì người ấy
càng bỏ mất nó. Nói cách khác, sự trưởng thành chỉ có thể là một sản phẩm
được tạo ra từ việc vượt lên cái tôi cá nhân hạn hẹp.
Vì vậy, chúng tôi đã chứng minh rằng ý nghĩa cuộc sống luôn thay đổi,
nhưng nó không bao giờ dừng lại. Theo liệu pháp ý nghĩa, chúng ta có thể
tìm thấy ý nghĩa này trong cuộc sống theo ba cách khác nhau: (1) tạo ra một
công việc hoặc thực hiện một điều gì đó; (2) trải nghiệm điều gì đó hoặc gặp
gỡ một ai đó; và (3) bằng thái độ chúng ta đối mặt với đau khổ. Cách đầu
tiên – nhằm đạt được thành công hoặc thành tựu nào đó – thì khá dễ hiểu.
Cách thứ hai và thứ ba cần phải giải thích thêm.
Cách thứ hai là hãy trải nghiệm một việc gì đó – chẳng hạn như lòng tốt,
chân lý và cái đẹp thông qua những trải nghiệm tự nhiên và văn hoá, và cuối
cùng không kém phần quan trọng là cảm nhận vẻ độc đáo của một người
khác bằng tình yêu thương dành cho người ấy.
Ý nghĩa của yêu thương
Tình yêu là cách duy nhất để thấu hiểu đến tận cùng một con người.
Không ai có thể nhận thức đầy đủ về bản chất của một con người trừ khi đã
đem lòng yêu thương người ấy. Bằng tình yêu, một người có thể nhìn thấy
những phẩm chất và đặc tính cần thiết ở người mình yêu thương; và hơn nữa,
người ấy còn nhìn thấy được những năng lực tiềm ẩn của bản thân – những
năng lực tuy chưa phát triển hết nhưng cần phải được phát triển. Hơn nữa,
bằng tình yêu của mình, người đó có thể khiến cho người mình yêu thương
nhận ra những tiềm năng ở họ. Bằng cách nhận ra mình có thể là người thế
nào và mình sẽ trở thành người ra sao, người đó sẽ biến những tiềm năng ấy
thành sự thật.
Trong liệu pháp ý nghĩa, người ta không cho tình yêu chỉ là một hiện
tượng phụ
[15]
của động cơ và bản năng tính dục, mà tình yêu là một hiện
tượng quan trọng cũng giống như tình dục. Thường thì tình dục là một
phương thức biểu hiện của tình yêu. Tình dục được biện hộ, thậm chí được
bào chữa bất cứ khi nào nó xuất phát từ tình yêu. Vì vậy, tình yêu không
phải là một hiệu ứng phụ của tình dục, mà tình dục là một biểu hiện của sự
tan hoà vào nhau mà người ta gọi là tình yêu.

Cách thứ ba để con người tìm thấy ý nghĩa trong cuộc sống là thông qua
đau khổ.
Ý nghĩa của sự đau khổ
Chúng ta không bao giờ được quên rằng chúng ta vẫn có thể tìm thấy ý
nghĩa của cuộc đời ngay cả khi đối diện với một tình huống vô vọng, với một
số phận không thể thay đổi. Vì điều quan trọng là chúng ta sẽ thấy được
năng lực thật sự của bản thân, vốn có thể thay đổi bi kịch cá nhân thành
chiến thắng, biến hoàn cảnh nghiệt ngã thành sự mạnh mẽ của bản thân. Khi
chúng ta không còn khả năng thay đổi hoàn cảnh – như mắc phải căn bệnh
nan y, chẳng hạn ung thư giai đoạn cuối – nghĩa là chúng ta đang được thử
thách để thay đổi chính mình.
Cho phép tôi trích dẫn một ví dụ để làm sáng rõ luận điểm trên: Có lần,
một bác sĩ đa khoa đã nhờ tôi tư vấn vì mắc chứng trầm cảm. Ông không thể
vượt qua được nỗi đau mất vợ hai năm trước, bà ấy là người ông yêu thương
nhất đời. Giờ thì tôi có thể làm gì để giúp ông? Tôi nên nói điều gì? Và tôi
đã không nói gì với ông ngoại trừ một câu hỏi: “Bác sĩ, điều gì sẽ xảy ra nếu
như ông chết trước và vợ ông là người ở lại?”. “Ồ,” – ông thốt lên, – “điều đó
thật khủng khiếp đối với bà ấy; làm sao bà ấy có thể chịu đựng nổi!”. Tôi
đáp lời ông: “Ông thấy đó, bác sĩ, bà ấy không phải chịu nỗi đau đó và ông
đã là người gánh chịu thay cho bà – vì vậy, việc giờ đây ông phải sống và
nhớ thương bà ấy là có ý nghĩa sâu sắc của nó”. Ông ấy không nói gì mà chỉ
nắm lấy tay tôi và thanh thản rời khỏi văn phòng. Theo cách nào đó, một
người sẽ không còn cảm thấy đau khổ nữa ngay vào thời khắc họ tìm thấy ý
nghĩa nào đó cho cuộc sống của mình, chẳng hạn như ý nghĩa của sự hy sinh.
Dĩ nhiên đây không hẳn là việc điều trị theo đúng nghĩa của nó, bởi vì thứ
nhất, sự tuyệt vọng của một người không phải là bệnh; và thứ hai, tôi không
thể thay đổi số phận của ông ấy, tôi không thể giúp vợ ông ấy sống lại.
Nhưng vào lúc đó, tôi đã thành công trong việc thay đổi thái độ của ông ấy
về số phận không thể thay đổi của ông, bởi vì từ lúc ấy, ít nhất ông ấy đã có
thể nhận thấy ý nghĩa trong sự chịu đựng của mình. Đây là một trong những
nguyên lý cơ bản của liệu pháp ý nghĩa, trong đó mối quan tâm của con
người không phải là để đạt được sự sung sướng hoặc né tránh khổ đau mà là
nhìn thấy được ý nghĩa của đời mình. Điều này giải thích vì sao con người
sẵn sàng chịu đựng khổ đau, miễn rằng họ biết chắc sự chịu đựng của mình
là có ý nghĩa.
Tôi muốn nói rõ một điều rằng: không nhất thiết phải trải qua đau khổ thì
con người mới tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Tôi chỉ nhấn mạnh là con người
vẫn có thể tìm thấy ý nghĩa trong đau khổ – nếu đó là điều không thể tránh

khỏi. Tuy nhiên, nếu có thể tránh được thì việc cần làm là hãy xoá bỏ nguyên
nhân của nó, dù nguyên nhân này thuộc về tâm lý, sinh lý hay chính trị. Chịu
khổ một cách không cần thiết là khùng điên hơn là anh hùng.
Trước khi qua đời, Edith Weisskopf-Joelson, nữ giáo sư của Đại học
Georgia đã khẳng định trong bài viết của mình về liệu pháp ý nghĩa rằng:
“Các quan điểm về sức khoẻ thần kinh hiện nay nhấn mạnh ý niệm cho rằng
đã là người thì phải hạnh phúc, rằng bất hạnh là một triệu chứng rối loạn
thích ứng. Cách chẩn đoán phân biệt như thế chẳng khác nào làm cho nỗi bất
hạnh không thể tránh được, vốn đã là một gánh nặng, giờ càng thêm nặng nề
bởi chính nỗi chán chường về tình trạng bất hạnh, kém may mắn của mình”.
Và trong một bài báo khác, bà đã thể hiện hy vọng rằng liệu pháp ý nghĩa
“có thể giúp giải quyết những xu hướng tiêu cực trong nền văn hoá ngày nay
ở Mỹ, nơi những người mắc bệnh nan y có rất ít cơ hội để tự hào về những
đau khổ của mình, họ càng không thể xem nỗi đau là cao quý chứ không
phải là sự thấp hèn” vì vậy “những người này không chỉ cảm thấy bất hạnh
mà còn xấu hổ vì sự bất hạnh của mình”
[16]
.

Có khi chúng ta bị tước đi cơ hội làm việc hay cơ hội hưởng thụ cuộc
sống, nhưng dù là gì thì chúng ta cũng không thể tránh được sự đau khổ.
Bằng cách can đảm chấp nhận đau khổ, xem đó như là thử thách cần vượt
qua, cuộc sống có ý nghĩa đến tận giây phút cuối cùng, và nó vẫn giữ nguyên
ý nghĩa này cho đến khi mọi sự kết thúc. Nói cách khác, ý nghĩa cuộc sống là
một ý nghĩa vô điều kiện, bởi vì nó bao hàm luôn cả ý nghĩa về nỗi đau
không thể tránh được.
Hãy để tôi nhắc lại sự việc có lẽ là trải nghiệm sâu sắc nhất của tôi trong
trại tập trung. Tỷ lệ sống sót trong trại không hơn 1/28 như các thống kê
chính xác đã nêu. Sự sống dường như là vô vọng, cũng vô vọng như nỗ lực
của tôi trong việc cứu lấy tập bản thảo cuốn sách đầu tiên mà tôi giấu trong
áo khoác khi mới đến Auschwitz. Vì vậy, tôi phải chịu đựng và vượt qua nỗi
đau mất mát đứa con tinh thần của mình. Và khi ấy, dường như không ai và
không điều gì có thể làm động lực sống cho tôi, bởi vợ chồng tôi chưa có
con mà đứa con tinh thần của tôi cũng đã không còn! Thế là tôi thấy mình
đang đối diện với một câu hỏi, rằng trong hoàn cảnh này, cuộc đời của tôi rốt
cuộc có vô nghĩa hay không.
Tôi đã không nhận ra rằng trong khi tôi vẫn đau đáu với câu hỏi này thì
lời đáp đã có sẵn và đến với tôi không lâu sau đó. Đấy là lúc tôi phải cởi bỏ
bộ quần áo của mình và mặc vào mớ đồ rách nát của một người tù khác –
người đã bị đưa tới phòng hơi ngạt ngay sau khi đến Auschwitz. Thay cho
những trang bản thảo của mình, tôi đã tìm thấy trong túi chiếc áo khoác ấy

một trang được xẽ ra từ kinh Do Thái, chứa những lời cầu nguyện quan trọng
nhất của người Do Thái – Shema Yisrael. Tôi nên giải thích sự “trùng hợp”
này như thế nào đây ngoài việc cho đó là một thử thách, yêu cầu tôi sống với
các ý tưởng của mình thay vì viết chúng lên giấy?
Tôi nhớ lại, một lúc sau, tôi có cảm giác dường như không bao lâu nữa
mình sẽ chết. Thế nhưng trong hoàn cảnh khó khăn này, mối bận tâm của tôi
lại khác với hầu hết những tù nhân khác. Câu hỏi của họ là: “Liệu chúng ta
có sống sót nổi trong trại không? Nếu không, thì tất cả những đau khổ này là
vô nghĩa”. Còn câu hỏi chiếm lĩnh tâm trí tôi khi ấy là: “Liệu tất cả những
đau khổ này, sự chết chóc bao quanh chúng tôi này, có một ý nghĩa nào
chăng?”. Vì nếu không thì rốt cuộc chẳng còn ý nghĩa gì để sinh tồn cả; bởi
vì nếu ý nghĩa cuộc sống bị phụ thuộc vào những tình huống ngẫu nhiên,
ngoài tầm kiểm soát của bản thân thì cuối cùng – dù có tìm được lối thoát
hay không – mọi nỗ lực của ta đều là vô nghĩa.
Những vấn đề về điều trị
Ngày càng có nhiều bệnh nhân tìm đến bác sĩ tâm lý để tư vấn về các vấn
đề tình cảm hơn là về các bệnh thần kinh. Nếu ngày nay một số người gọi
cho bác sĩ tâm lý, thì ngày xưa họ sẽ tìm đến các linh mục, thầy tu hay giáo
sĩ. Ngày nay, những đối tượng này thường từ chối gặp các thầy tu và tìm gặp
bác sĩ với những câu hỏi đại loại như “Tôi sống có ý nghĩa gì?”.
Ý nghĩa trong bi kịch
Tôi xin kể với các bạn câu chuyện sau: Có lần, một phụ nữ được đưa vào
khoa của tôi sau khi tự tử hụt. Chị có đứa con trai đã chết năm cháu được 11
tuổi. Bác sĩ Kurt Kocourek đã mời chị tham dự một cuộc trị liệu nhóm, và
ngẫu nhiên tôi bước vào phòng nơi ông đang tiến hành việc điều trị khi chị
kể lại câu chuyện của mình. Sau khi cậu con trai nhỏ của chị qua đời, chị
sống với đứa con lớn bị bại liệt. Đứa trẻ tội nghiệp phải di chuyển quanh nhà
trên chiếc xe lăn. Tuy nhiên, mẹ của cậu bé không chấp nhận số phận ấy và
chị muốn tự tử. Nhưng khi chị cố làm điều đó cùng với đứa con tật nguyền
thì chính cậu đã ngăn mẹ lại: cậu bé muốn sống! Đối với cậu, cuộc sống vẫn
còn nhiều ý nghĩa. Tại sao mẹ cậu lại không thấy như vậy? Cuộc sống của bà
vẫn có ý nghĩa ra sao? Làm thế nào chúng tôi có thể giúp bà nhận ra điều đó?
Tình cờ tôi tham gia vào cuộc thảo luận và đặt câu hỏi cho một người phụ
nữ khác trong nhóm. Tôi hỏi cô ấy bao nhiêu tuổi và cô trả lời: “Ba mươi”.
Tôi đáp: “Không, cô không phải là một phụ nữ 30 mà là một bà cụ 80 và
đang hấp hối trên giường bệnh. Và lúc ấy, cô mới nhìn lại cuộc sống của
mình – một cuộc sống không có tuổi thơ nhưng dư giả về tài chính và có địa

vị trong xã hội”. Và rồi tôi hỏi cô ấy: “Cô nghĩ như thế nào nếu cô lâm vào
tình huống như trên? Cô sẽ nói gì với chính mình?”. Cho phép tôi trích dẫn
những gì cô ấy đã nói trong cuộn băng ghi âm buổi hôm đó: “Tôi đã cưới
một triệu phú và có cuộc sống giàu sang dễ dàng, tôi đã bị cuốn vào vòng
xoáy đó! Tôi tán tỉnh đàn ông; tôi giễu cợt họ! Nhưng giờ tôi đã 80 tuổi; tôi
không có con. Nhìn lại khi về già, tôi không thấy tất cả những điều đó có ý
nghĩa gì; thật ra tôi phải nói cuộc đời của tôi là một thất bại”.
Rồi tôi mời người mẹ của cậu bé tật nguyền hãy thử tưởng tượng khung
cảnh khi chị đã 80 tuổi, đang hấp hối trên giường bệnh và nhìn lại cuộc sống
của chính mình. Sau đây là những gì chị ấy đã nói trong cuộn băng: “Tôi đã
ước ao mình sẽ có con, và điều ước này đã thành hiện thực; nhưng một đứa
đã chết; đứa còn lại thì tật nguyền và có thể bị gửi đến trại từ thiện nếu tôi
không đủ khả năng chăm sóc nó. Mặc dù nó tật nguyền và vô dụng, nhưng
dù sao nó vẫn là con của tôi. Và vì con, tôi phải sống hết mình, phải trở
thành một người tốt hơn”. Nước mắt chị trào ra, chị tiếp tục: “Với tôi, tôi có
thể thanh thản nhìn lại cuộc sống của mình; vì tôi có thể nói cuộc đời tôi có ý
nghĩa, và tôi đã cố gắng để thực hiện nó; tôi đã làm hết sức – tôi đã cố gắng
sống vì con mình. Cuộc đời tôi không hề thất bại!”. Nhìn lại cuộc đời mình
như thể mình đang trong giờ phút hấp hối, chị bỗng nhiên nhận ra ý nghĩa
của cuộc đời, một ý nghĩa bao gồm cả nỗi bất hạnh của bản thân. Vì lẽ đó, dù
rằng cuộc đời có ngắn ngủi – như đối với cậu con trai đã mất của chị – nhưng
nếu nó đầy ắp niềm vui và tình yêu thương thì nó còn có ý nghĩa hơn cả một
cuộc đời kéo dài tới 80 năm trong buồn bã.
Một lúc sau, tôi tiếp tục đặt ra một câu hỏi khác, lần này là với cả nhóm.
Câu hỏi là liệu một con vượn bị tiêm chích nhiều lần với mục đích phát triển
huyết thanh ngừa bại liệt có thể hiểu được ý nghĩa sự đau đớn của nó hay
không. Cả nhóm nhất trí trả lời rằng dĩ nhiên con vượn không hiểu; với trí
thông minh có hạn, nó không thể bước vào thế giới loài người – một thế giới
duy nhất có thể hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ. Rồi tôi dẫn dắt mọi người
đến câu hỏi: “Vậy con người thì sao? Các bạn có chắc rằng thế giới con
người là điểm mút trong sự tiến hoá của vũ trụ? Phải chăng vẫn còn một
chiều không gian khác mà con người chưa biết – một thế giới vượt xa khỏi
thế giới của loài người – một thế giới mà trong đó, ý nghĩa tối hậu của những
khổ đau của con người sẽ có lời đáp?”
Ý nghĩa tối thượng
Cái ý nghĩa tối hậu này vượt ngoài phạm vi hiểu biết của con người; trong
liệu pháp ý nghĩa, chúng tôi đề cập đến nó trong ngữ cảnh về một ý nghĩa tối
thượng. Trách nhiệm của một người trong cuộc đời này – như một số triết gia
từng nói – không phải là để kéo dài một cuộc sống vô nghĩa mà là chịu đựng

việc lý trí của anh ta bất lực trong việc nắm bắt đầy đủ ý nghĩa của cuộc
sống. Logos (Ý nghĩa) bao hàm ý nghĩa sâu xa hơn là logic.
Nếu nhà tâm lý không hiểu được khái niệm ý nghĩa tối thượng thì không
sớm thì muộn người đó sẽ phải lúng túng trước các bệnh nhân của mình,
giống như tôi đã từng gặp khi đứa con gái 6 tuổi của mình hỏi: “Tại sao
chúng ta nói Chúa nhân từ ạ?”. Lúc đó tôi đã trả lời rằng: “Nhiều tuần trước,
con bị sởi, và rồi Chúa nhân từ đã cho con khỏi bệnh”. Tuy nhiên, con bé
không đồng ý, nó bắt bẻ: “Bố, Bố đừng quên rằng Chúa đã gửi bệnh sởi tới
cho con trước đấy!”.
Tuy nhiên, khi một bệnh nhân có đức tin vào tôn giáo thì ta có thể tiến
hành điều trị với hiệu quả cộng hưởng từ sức mạnh tâm linh ấy. Để làm như
vậy, bác sĩ tâm lý cần phải đặt mình vào vị trí của bệnh nhân. Đó chính là
điều mà tôi đã từng làm khi một vị giáo sĩ Do Thái từ Đông Âu kể với tôi về
câu chuyện của đời mình. Ông đã mất người vợ đầu và sáu đứa con trong trại
tập trung Auschwitz, tất cả họ đều bị đưa đến phòng hơi ngạt. Người vợ sau
của ông lại bị vô sinh. Tôi cho rằng sinh con đẻ cái không phải là ý nghĩa
duy nhất của cuộc đời, vì nếu chỉ như thế thì cuộc sống ấy sẽ trở thành vô
nghĩa, mà bản thân một điều gì đó tự nó đã không có ý nghĩa thì dù nó có tồn
tại vĩnh viễn cũng vô ích. Tuy nhiên, vị giáo sĩ nói với quan điểm Do Thái
giáo chính thống đã tuyệt vọng khi cho rằng không có con trai thì sẽ không
có ai đọc kinh Kaddish
[17]
cho ông sau khi ông mất cả.

Nhưng tôi không bỏ cuộc. Tôi cố gắng giúp ông bằng cách hỏi liệu ông
có thể gặp lại các con của mình trên Thiên đường không? Tuy nhiên, câu hỏi
của tôi đã khiến ông bật khóc, và rồi lý do thật sự cho nỗi tuyệt vọng của ông
đã bộc lộ: ông giải thích rằng kể từ lúc các con ông – những đứa trẻ vô tội –
chết đi, chúng đã có chỗ xứng đáng trên Thiên đường, nhưng ông – một
người già nua, tội lỗi – sẽ không thể đến được nơi ấy. Tôi đáp lại: “Giáo sĩ,
chính xác thì không có gì khó hiểu về ý nghĩa trong việc ông đã sống lâu hơn
các con của mình cả: Chẳng phải ông đã được thanh tẩy bằng đau khổ trong
suốt những năm ấy, để cuối cùng, cho dù không vô tội như các con của
mình, nhưng ông cũng đã trở nên xứng đáng để được gặp lại chúng trên
Thiên đường hay sao? Không phải điều này đã được ghi trong Thánh Vịnh,
rằng Thượng Đế lưu giữ tất cả nước mắt của loài người hay sao?

[18] Vì vậy,
có thể nói không có sự đau khổ nào là vô ích cả”. Lần đầu tiên trong nhiều
năm, ông đã tìm thấy sự thanh thản từ nỗi đau của mình qua một cách nhìn
mới mà tôi đã gợi mở cho ông ấy.
Cuộc sống ngắn ngủi
Những điều dường như có thể tước đoạt ý nghĩa cuộc sống của con người

không chỉ có nỗi đau mà còn có cả cái chết. Tôi luôn cho rằng những thứ
tạm thời duy nhất trong cuộc sống là các khả năng; nhưng ngay khi được
hiện thực hoá, những khả năng ấy đã được giữ lại và chuyển vào quá khứ.
Tại đây, chúng được phục hồi và bảo tồn, thoát khỏi tính chất ngắn ngủi của
sự vật. Vì trong quá khứ, mọi thứ đều được lưu giữ mãi mãi.
Do đó, sự tồn tại tạm thời của chúng ta không hề vô nghĩa. Nó khiến
chúng ta có trách nhiệm hơn với sự tồn tại của mình; bởi vì mọi thứ đều
xoay quanh nhận thức của chúng ta về các khả năng tạm thời. Con người
không ngừng đưa ra lựa chọn cho mình về một loạt các tiềm năng hiện tại;
tiềm năng nào sẽ được cho là không thể và tiềm năng nào sẽ được hiện thực
hoá? Lựa chọn nào sẽ trở thành hiện thực một lần và mãi mãi, một “dấu ấn
trong cát bụi thời gian?”. Dù là để tốt hơn hay làm cho xấu đi, con người vẫn
phải quyết định trong mọi thời điểm rằng cái gì là dấu ấn cho sự tồn tại của
mình.
Con người thường chỉ hướng tới những cánh đồng thu hoạch ngắn hạn mà
bỏ qua và quên hẳn kho thóc đầy ắp của quá khứ, nơi họ đã từng được cứu
vớt, với tất cả thành tích, niềm vui và nỗi buồn. Ở đó, mọi việc đều đã hoàn
thành và không gì có thể phá bỏ. Tôi phải nói rằng đã từng sống là một hình
thức chắc chắn nhất của sự tồn tại.
Nhấn mạnh về sự tồn tại ngắn ngủi nhưng thiết yếu của con người, liệu
pháp ý nghĩa không mang tính bi quan mà hướng về sự chủ động. Để hiểu rõ
quan điểm này, bạn có thể hình dung: Bi quan giống như một người cảm
thấy buồn bã và sợ hãi khi chứng kiến từng tờ lịch bị bóc đi mỗi ngày, thấy
cuốn lịch ngày một mỏng hơn. Ngược lại, người chủ động ứng biến trước
các vấn đề trong cuộc sống giống như người mỗi ngày bóc từng tờ lịch, lưu
giữ thật gọn gàng và cẩn thận cùng với các tờ lịch trước, sau khi đã viết một
ít ghi chú hàng ngày vào mặt sau của tờ lịch. Người đó có thể bộc lộ niềm
vui và sự tự hào trong những ghi chú này vì đã sống một cuộc sống trọn vẹn
nhất. Anh ấy sẽ nghĩ gì nếu biết mình đã già đi? Liệu người đó có lý do gì để
ghen tỵ với những người trẻ tuổi hơn hay che giấu sự luyến tiếc về tuổi trẻ
đã qua của mình? Những lý do nào khiến người đó phải ghen tỵ với người
trẻ hơn? Bởi vì người trẻ có một tương lai đang chào đón ư? “Không, cám
ơn!”, người đó sẽ nghĩ vậy. Thay cho các khả năng, tôi có những sự việc
thực trong quá khứ, không chỉ thực tế về công việc đã làm và tình yêu đã có,
mà cả về những đau khổ mà tôi đã dũng cảm trải qua. Những nỗi đau này
thậm chí là những việc mà tôi tự hào nhất, mặc dù đây là những điều chẳng
có gì đáng để người khác ghen tỵ”.
Liệu pháp ý nghĩa như một kỹ thuật

Việc sợ hãi thực sự, giống như việc sợ chết, không thể dễ dàng xoá bỏ
nhờ những lý giải về tâm lý động học; ngược lại, những cơn sợ do lo lắng,
chẳng hạn chứng sợ chỗ đông người, không thể điều trị chỉ dựa trên những lý
giải mang tính triết lý. Tuy nhiên, liệu pháp ý nghĩa đã phát triển một kỹ
thuật đặc biệt để xử lý những tình huống này. Để hiểu được điều gì đang xảy
ra khi sử dụng kỹ thuật này, chúng tôi đã bắt đầu với trường hợp rối loạn
thần kinh ở cá nhân hay còn gọi là chứng lo âu trước kỳ hạn. Chính đặc tính
của nỗi sợ này đã khiến cho bệnh nhân sợ hãi. Ví dụ, người nào thường lo sợ
mình sẽ bị đỏ mặt trước đám đông thì càng có khuynh hướng bị nhiều hơn.
Trong ngữ cảnh này, ta có thể sửa câu nói: “Mong muốn là cha của ý nghĩ”
thành “Sợ hãi là mẹ của hiện thực”.
Trớ trêu thay, càng sợ hãi thì những gì ta lo sợ sẽ càng nhanh chóng biến
thành hiện thực, cũng tương tự như việc càng ham muốn điều gì, người ta
càng khó đạt được nó. Có thể lấy trường hợp bị rối loạn tình dục làm dẫn
chứng cho sự mong muốn thái quá này. Người đàn ông càng cố chứng tỏ
“bản lĩnh” của mình hoặc người phụ nữ càng muốn đạt tới khoái cảm thì họ
càng ít thành công.
Ngoài việc mong muốn quá nhiều như đã mô tả ở trên, sự chú ý quá mức
hoặc “phản ứng thái quá” như được gọi trong liệu pháp ý nghĩa cũng có thể
gây ra bệnh (tức dẫn tới ốm đau). Một báo cáo lâm sàng sau đây sẽ minh hoạ
ý kiến của tôi: Một phụ nữ trẻ gặp tôi và than về sự lãnh cảm của mình. Tiền
sử bệnh cho thấy lúc trẻ cô đã bị người cha lạm dụng tình dục. Tuy nhiên,
không phải sự cố đau lòng này gây ra sự rối loạn tình dục của cô như mọi
người thường suy đoán. Hoá ra, qua việc đọc các tác phẩm phân tâm học nổi
tiếng, người bệnh đã sống chung với cảm giác sợ hãi rằng quá khứ đau buồn
kia sẽ lại xảy ra một ngày nào đó. Sự lo lắng trước kỳ hạn này khiến cô ấy
quá tập trung vào việc xác định tính nữ của mình và quá chú ý vào cảm xúc
bản thân hơn là vào người bạn tình. Điều này đủ khiến bệnh nhân không thể
đạt tới khoái cảm bởi vì sự khoái cảm là đối tượng mong muốn của cô ấy;
trong khi lẽ ra cô ấy nên duy trì tác dụng tự nhiên của sự dâng hiến và hoà
hợp với người bạn tình. Sau khi trải qua việc trị liệu ngắn hạn với liệu pháp ý
nghĩa, sự tập trung và mong muốn quá mức của bệnh nhân về khả năng đạt
tới khoái cảm đã được “xoá mờ” để đưa ra một khái niệm liệu pháp ý nghĩa
khác. Khi cô ấy tập trung sự chú ý của mình vào một đối tượng đúng đắn
khác, ví dụ như người bạn tình, thì sự khoái cảm sẽ tự động xuất hiện liên
tục
[19]
.
Liệu pháp ý nghĩa dựa trên chính kỹ thuật của nó, được gọi là “suy nghĩ
đảo nghịch” theo hai phương diện rằng nỗi sợ sẽ biến điều mà một người lo
sợ thành sự thật, và rằng sự mong muốn quá mức một điều nào đó sẽ khiến

cho một người không thể đạt được điều ấy. Ở Đức, tôi đã mô tả sơ đồ đối
nghịch này vào đầu năm 1939
[20]
. Theo cách tiếp cận này, tôi yêu cầu bệnh
nhân mắc chứng sợ hãi hãy dự báo, thậm chí trong một khoảnh khắc, chính
xác nỗi sợ của mình.
Hãy để tôi đưa ra một trường hợp khác. Một bác sĩ trẻ nhờ tôi tư vấn vì
anh ấy bị chứng sợ đổ mồ hôi. Lúc nào anh ấy cũng lo rằng mình sẽ đổ mồ
hôi ào ạt và chính sự lo lắng này cũng đủ khiến anh ấy ướt đẫm mồ hôi rồi.
Để cắt đứt vòng luẩn quẩn này, tôi đã khuyên bệnh nhân rằng khi bọ đổ mồ
hôi, anh ấy cứ tự nhiên để cho mọi người biết mình có thể đổ mồ hôi nhiều
như thế nào. Một tuần sau anh ấy quay lại và báo rằng hễ khi nào anh gặp
một người có thể khiến anh lo sợ thì anh lại tự nói với mình rằng: “Trước kia
mình chỉ chảy mồ hôi khoảng một lít thôi, nhưng giờ mình sẽ đổ mồ hôi ít
nhất là hơn 10 lần như thế!”. Kết quả là sau khi phải chịu chứng bệnh khó
chịu ấy suốt bốn năm, chỉ sau một tuần điều trị, anh ấy đã không còn phải
bận tâm về nó nữa.
Bạn đọc ắt hẳn sẽ thấy rằng quá trình này đi cùng với việc thay đổi thái
độ của bệnh nhân, bởi vì nỗi sợ của họ được thay thế bằng một mong muốn
trái ngược. Với phương pháp điều trị này, mọi nỗi lo âu, sợ hãi của người
bệnh sẽ được giải toả.
Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp suy nghĩ đảo nghịch, phải biết vận
dụng kỹ thuật phân tách đối tượng ra khỏi bản thể cố hữu, đặc biệt là phải
biết phát huy khiếu hài hước. Khả năng cơ bản để tách một người ra khỏi
bản thể của họ được hiện thực hoá khi kỹ thuật của liệu pháp ý nghĩa mà ta
gọi là suy nghĩ đảo nghịch được áp dụng. Cùng lúc ấy, bệnh nhân có thể tự
tách mình ra khỏi chứng loạn thần kinh chức năng. Trong quyển The
Individual and His Religion (Cá nhân và tôn giáo), Gordon W. Allport
[21]
cũng có đồng quan điểm: “Người bị rối loạn thần kinh chức năng mà biết
học cách cười với chính mình thì có thể tự kiểm soát được mình, và chứng
bệnh của họ có thể được khắc phục”
[22]
. Suy nghĩ đảo nghịch chính là sự
khẳng định từ kinh nghiệm thực tiễn và những ứng dụng lâm sàng trong phát
biểu của Allport.
Một vài ví dụ sau đây có thể giúp bạn hình dung cụ thể hơn về ứng dụng
của phương pháp này. Có trường hợp bệnh nhân là một thủ thư, ông đã đến
nhiều bệnh viện để được điều trị bằng nhiều phương pháp khác nhau nhưng
không thành công. Khi được đưa vào khoa của tôi, ông ấy ở trong tâm trạng
cực kỳ suy sụp. Người thủ thư thú nhận rằng ông gần như muốn tự sát.
Trong nhiều năm, ông đã chịu đựng chứng co cứng cơ cổ tay và không thể
cầm bút được, và gần đây căn bệnh trở nặng hơn đến nỗi ông có nguy cơ mất

việc. Vì vậy, chỉ có phương pháp điều trị ngắn hạn tức thời mới có thể giúp
đỡ hữu hiệu cho hoàn cảnh này. Khi bắt đầu trị liệu, bác sĩ Eva Kozdera đã
yêu cầu bệnh nhân hãy làm những gì trái ngược với những việc mà ông ấy
thường làm; tức là thay vì cố viết sạch đẹp, rõ ràng, hãy cứ viết nguệch
ngoạc. Bác sĩ còn khuyên ông ấy hãy tự nói với mình rằng “Bây giờ tôi sẽ
cho mọi người thấy tôi là người viết chữ xấu như thế nào!”. Và vào lúc ấy,
ông thủ thư đã thử viết chữ thật xấu, nhưng ông ấy không thể làm thế. “Tôi
cố viết cẩu thả nhưng đơn giản là tôi không thể làm được,” – ông giải thích.
Trong vòng 48 giờ, bằng cách này, bệnh nhân đã được thoát khỏi chứng
bệnh co cứng cơ cổ tay và tình trạng của ông vẫn ổn định trong suốt giai
đoạn theo dõi sau khi điều trị. Ông ấy giờ đã vui vẻ trở lại và hoàn toàn có
thể làm việc bình thường.
Một đồng nghiệp của tôi làm việc tại khoa thanh quản của Bệnh viện
Poliklinik ở Áo cũng từng phải đối mặt với tình huống tương tự, nhưng ở
đây bệnh nhân của anh gặp khó khăn với việc phát âm chứ không phải viết
chữ. Đây là một trong những ca nói lắp nghiêm trọng mà anh ấy gặp trong
nhiều năm làm việc. Bệnh nhân ấy chưa bao giờ nói được một câu trôi chảy,
dù là câu rất ngắn, ngoại trừ một lần. Chuyện xảy ra khi anh ấy 12 tuổi trong
một lần anh đi trốn vé trên một chuyến xe điện. Khi bị người soát vé giữ lại,
cậu bé nghĩ cách duy nhất để thoát là tỏ ra mình đáng thương, và thế là cậu
đã cố chứng minh với người soát vé rằng mình la một cậu bé nói lắp tội
nghiệp. Nhưng lúc ấy, khi cố nói lắp thì cậu lại không thể nói lắp được. Và
phương pháp suy nghĩ đảo nghịch một lần nữa lại phát huy tác dụng chữa trị
của nó.
Tuy nhiên, suy nghĩ đảo nghịch không phải chỉ có hiệu quả trong các
trường hợp bệnh lý. Bằng kỹ thuật điều trị này, các đồng nghiệp của tôi tại
Bệnh viện Poliklinik Áo đã thành công trong việc đem lại cuộc sống bình
thường cho các trường hợp bị ám ảnh ở mức độ nghiêm trọng và kéo dài vì
phải thường xuyên làm một công việc nào đó. Tôi đơn cử trường hợp một bà
cụ 65 tuổi đã phải chịu đựng suốt 60 năm hội chứng sợ hãi công việc giặt
giũ. Bác sĩ Eva Kozdera bắt đầu chữa trị cho bà theo liệu pháp ý nghĩa, áp
dụng phương pháp suy nghĩ đảo nghịch. Kết quả là hai tháng sau, bệnh nhân
có thể sống một cuộc sống bình thường. Trước khi được đưa đến khoa tâm
thần của Bệnh viện Poliknilik của Áo, bà đã thú nhận “Cuộc sống của tôi
trước đây chẳng khác nào địa ngục”. Suốt bao năm qua, lúc nào bà cũng bị
ám ảnh bởi tình trạng cưỡng bức lao động và nỗi sợ bị lây nhiễm vi khuẩn
đến nỗi cuối cùng bà chỉ suốt ngày nằm trên giường và không thể làm được
bất cứ việc gì trong gia đình. Không hẳn là giờ đây bà đã hoàn toàn khỏi
bệnh, bởi sự ám ảnh có thể vẫn còn lại đâu đó trong tâm trí bà. Tuy nhiên, bà
đã có thể nói đùa về công việc của mình và không còn sợ nó nữa.

Suy nghĩ đảo nghịch cũng có thể được áp dụng trong các trường hợp khó
ngủ
[23]
. Nỗi sợ về việc không thể ngủ được đã dẫn tới việc một người ép
mình phải ngủ và càng khiến họ không thể ngủ được. Để vượt qua nỗi sợ
này, tôi thường khuyên bệnh nhân đừng cố ngủ mà hãy cố làm điều gì trái
ngược, tức là hãy thức càng lâu càng tốt. Nói cách khác, việc cố ngủ (vì lo
mình không thể ngủ được) phải được thay thế bằng suy nghĩ ngược lại (tức
không muốn ngủ) thì người bệnh sẽ sớm ngủ được.
Suy nghĩ đảo nghịch không phải là phương thuốc chữa bách bệnh. Tuy
nhiên nó là một phương pháp hữu ích trong việc chữa trị các căn bệnh về ám
ảnh do bị ép buộc và hội chứng hoảng sợ, nhất là trong các trường hợp bị
chứng lo âu về kỳ hạn. Hơn nữa, nó là một phương pháp điều trị ngắn hạn
nhưng lại mang lại tác dụng lâu dài, nếu không muốn nói là vĩnh viễn. Lại
thêm một minh chứng cho thấy một trong số “các suy nghĩ sai lệch điển hình
trong luận thuyết của Freud” là “tác dụng tương xứng với thời gian điều
trị”
[24]
. Ví dụ như trong hồ sơ của tôi, có một ca bệnh mà bệnh nhân đã được
điều trị từ hơn 20 năm trước và bệnh chưa một lần tái phát kể từ đó.
Một trong các ưu điểm quan trọng nhất là suy nghĩ đảo nghịch luôn có
hiệu quả, bất kể nguyên nhân của ca bệnh là gì. Điều này được xác nhận qua
nhận xét của Edith Weisskopf-Joelson: “Mặc dù phương pháp điều trị tâm lý
truyền thống đã khẳng định rằng các phương pháp điều trị phải dựa trên
những phát hiện về nguyên nhân gây bệnh, nhưng vấn có một số nhân tố nào
đó có thể gây ra các chứng rối loạn thần kinh khi bệnh nhân còn nhỏ và rằng
các nhân tố khác nhau có thể giúp bệnh nhân thoát khỏi căn bệnh khi trưởng
thành”
[25]
.
Bởi vì ngoài các nguyên nhân thuộc về thể chất (các tổn thương ở não, rối
loạn chức năng vỏ não và một số vùng dưới vỏ não gây nên) và tinh thần
(xảy ra do nguyên nhân tâm lý hoặc có liên quan đến những chấn thương
tâm lý), một nguyên nhân chủ yếu của chứng rối loạn thần kinh chức năng là
cơ chế phản hồi, giống như “chứng lo âu đến trước”
[26]
. Một triệu chứng nào
đó là kết quả của sự ám ảnh, sự ám ảnh kích hoạt thêm các triệu chứng, và
triệu chứng lại tiếp tục củng cố sự ám ảnh. Một chuỗi các sự việc tương tự
cũng xảy ra ở những trường hợp bị ám ảnh mà bệnh nhân có sự đấu tranh với
ý nghĩ đang ám ảnh mình
[27]
. Theo đó, người này sẽ gia tăng sức mạnh của
những ý nghĩ đang quấy nhiễu mình bởi vì áp lực ấy tạo ra một áp lực đối
áp. Như thể là một lần nữa, triệu chứng bệnh lại được tái củng cố! Nói cách
khác, ngay khi bệnh nhân ngừng tranh đấu với nỗi ám ảnh của mình mà bắt
đầu giễu cợt chúng theo cách hài hước – bằng cách áp dụng suy nghĩ đảo
nghịch – thì vòng lẩn quẩn của nỗi ám ảnh sẽ bị cắt đứt, triệu chứng giảm đi

và cuối cùng bị suy yếu. Trong trường hợp may mắn, bệnh nhân không
những thành công trong việc giễu cợt với nỗi lo sợ trong tâm trí mà còn hoàn
toàn lãng quên điều bấy lâu vẫn ám ảnh tâm trí họ
[28]
.

Như đã thấy, chứng hồi hộp âu lo phải được khắc phục bằng suy nghĩ đảo
nghịch; việc quá tập trung cũng như phản ứng thái quá phải được giảm thiểu.
Tuy nhiên như vậy vẫn chưa đủ, người bệnh cần hướng về một mong ước và
nhiệm vụ cụ thể trong đời thì bệnh mới được chữa trị dứt điểm.
Không phải sự lo lắng thái quá của người bệnh – thương xót hay phó mặc
bản thân trước căn bệnh – phá hỏng quá trình chữa trị, mà phương thức chữa
trị hiệu nghiệm nhất là bệnh nhân phải tự trải nghiệm suy nghĩ nghịch đảo và
tự xác định ý nghĩa cuộc đời mình.
Chứng rối loạn thần kinh tập thể
Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ sẽ có chung một số biểu hiện về chứng rối
loạn thần kinh tập thể, và ở mỗi thời kỳ cũng cần một phương pháp điều trị
tâm lý riêng phù hợp
[29]
. Như vậy, trạng thái tồn tại chân không (với biểu
hiện như: chán nản, trầm cảm, nghiện ngập…) – nguyên nhân chủ yếu khiến
chứng rối loạn thần kinh ngày càng gia tăng hiện nay – có thể được xem như
một hình thái riêng của thuyết hư vô; bởi vì thuyết hư vô cho rằng sự tồn tại
là vô nghĩa. Tuy nhiên, liệu pháp tâm lý sẽ không thể nào giải quyết được
các biến thể của tình trạng tồn tại chân không trên bình diện rộng nếu nó
không tách mình khỏi tầm ảnh hưởng của các xu thế đương thời trong triết lý
hư vô; mặt khác liệu pháp tâm lý chủ yếu được sử dụng để mô tả triệu chứng
của chứng rối loạn thần kinh trên diện rộng chứ nó không phải là một
phương pháp điều trị. Do đó, liệu pháp tâm lý không chỉ phản ánh thuyết hư
vô mà nó còn vô tình chuyển đến cho bệnh nhân một hình ảnh “xộc xệch”,
bóp méo bản chất con người hơn là một bức tranh tả thực về con người.
Trước hết, lời giáo huấn cho rằng con người “không có gì ngoài hư vô” là
khá nguy hiểm, bởi vì học thuyết này cho rằng con người không là gì hết mà
chỉ là kết quả từ các điều kiện sinh học, tâm lý và xã hội, hoặc là sản phẩm
của sự di truyền và môi trường. Quan điểm về con người như vậy khiến bệnh
nhân tin vào điều mà họ muốn tin, tức là họ vừa là con cờ và vừa là nạn nhân
của những ảnh hưởng bên ngoài hoặc các hoàn cảnh bên trong. Thuyết định
mệnh càng được củng cố khi phương pháp điều trị tâm lý phủ nhận thực tế
rằng con người là những sinh thể tự do.
Một cá nhân sinh học đúng là có đời sống hữu hạn và do đó, chắc chắn sự
tự do của con người là có giới hạn. Nhưng ở đây không đề cập đến tự do với
nghĩa năng lực thoát khỏi hoàn cảnh, mà chính là thái độ tự do trước mọi

hoàn cảnh. Như có lần tôi đã nói: “Với tư cách là giáo sư trong hai lĩnh vực
thần kinh và tâm lý học, tôi luôn nhận thức rõ ràng con người là chủ thể của
trạng thái sinh học, tâm lý và xã hội. Nhưng ngoài việc là giáo sư trong hai
lĩnh vực ấy, tôi còn là người sống sót qua bốn trại tập trung, nên tôi cũng đã
chứng kiến được những khả năng phi thường và tinh thần dũng cảm quật
cường của con người trong những tình huống tồi tệ nhất”
[30]
.
Lời bình về thuyết tiền định (Pan – Determinism)
Phân tâm học thường bị chỉ trích vì nó đề cao bản năng tình dục. Tôi
không chắc rằng sự phê phán này có thoả đáng hay không nhưng có một học
thuyết mà tôi thấy nó còn sai lầm và nguy hiểm hơn nhiều, đó là thuyết tiền
định. Tôi vẫn cho rằng con người không hoàn toàn bị lệ thuộc và bị định
đoạt bởi số phận mà ngược lại, còn tự quyết định về việc họ sẽ để hoàn cảnh
cuốn đi hay sẽ vượt qua chúng. Nói cách khác, con người vẫn là người quyết
định sau cùng. Con người không đơn giản tồn tại mà họ còn luôn quyết định
mục đích tồn tại của mình và quyết định cả về con người mà họ muốn trở
thành.
Tương tự, mỗi người đều có quyền tự do thay đổi quan điểm, lối sống của
mình bất kỳ lúc nào. Vì vậy, chúng ta có thể dự đoán tương lai của một
người dựa trên kết quả nghiên cứu thống kê được tiến hành trên nhóm; tuy
nhiên, không thể dự đoán được tính cách của cá nhân người đó. Bất kỳ dự
đoán tâm lý nào đều căn cứ trên các điều kiện sinh học, tâm lý hoặc xã hội.
Tuy nhiên, một trong những đặc trưng trong sự tồn tại của con người là khả
năng vượt lên trên những điều kiện đó để phát triển mạnh mẽ hơn. Con
người có khả năng biến đổi thế giới trở nên tốt đẹp hơn cũng như có thể thay
đổi chính mình để trở thành người ưu tú hơn.
Hãy để tôi chia sẻ với các bạn về trường hợp của Bác sĩ J. Hắn là người
duy nhất trên đời mà tôi không ngần ngại gọi là một con quỷ đội lốt người, là
hiện thân của quỷ Satan. Vào thời ấy, hắn được gọi là “kẻ giết người hàng
loạt của Steinhof” (bệnh viện tâm thần lớn nhất ở Áo). Khi bọn Đức quốc xã
bắt đầu thi hành chính sách “cái chết êm dịu”, hắn nắm tất cả đầu mối trong
tay và cuồng tín với công việc được giao đến nỗi hắn tìm mọi cách để không
một người bệnh tâm thần nào thoát khỏi phòng hơi ngạt. Sau chiến tranh, khi
trở lại Vieana, tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra với Bác sĩ J. “Hắn đã bị quân Xô
viết tống giam vào một trong các khu cách ly của Steinhof,” – họ nói với tôi.
“Tuy nhiên, ngày hôm sau cánh cửa trại mở và không ai còn có thể nhìn thấy
Bác sĩ J. nữa”. Sau đó, giống như những người khác, tôi tin rằng hắn đã đi
đến Nam Mỹ với sự giúp đỡ của các chiến hữu. Tuy nhiên, gần đây tôi đươc
một cựu nhân viên ngoại giao người Áo cho biết tin tức về hắn. Nhân viên

ngoại giao này là người đã từng bị bắt và giam giữ ở phía sau “Bức màn
sắt”
[31]
trong nhiều năm, đầu tiên là ở Siberia và sau đó trong khu giam giữ
nổi tiếng Lubianka ở Moscow. Khi tôi đang kiểm tra thần kinh cho nhân viên
ngoại giao này, ông ta bỗng nhiên hỏi tôi có biết bác sĩ J. không. Sau lời xác
nhận của tôi, ông ấy nói: “Tôi đã quen anh ấy ở Lubianka. Anh ấy chết ở đó
năm 40 tuổi do bị ung thư bàng quang. Đối với mọi người chúng tôi, anh ấy
luôn là một người bạn rất tốt bụng! Anh ấy đã an ủi tất cả mọi người. Anh ấy
đã sống rất chuẩn mực. Bác sĩ J. là một người bạn tốt nhất mà tôi từng gặp
trong suốt những năm tháng trong tù!”.
Câu chuyện về Bác sĩ J. – “kẻ giết người hàng loạt của Steinhof” – đã
chứng minh rằng hành vi của một con người là điều rất khó có thể dự đoán.
Chúng ta có thể dự đoán các chuyển động của một cái máy, của một thiết bị
tự động; thậm chí có thể dự đoán được cơ chế hoặc “động lực” tinh thần của
con người. Nhưng con người là một thực thể vô cùng tinh vi và phức tạp chứ
không chỉ có tinh thần.
Tuy nhiên, tự do không phải là điều tối thượng. Tự do chỉ là một phần của
câu chuyện và là một nửa sự thật. Tự do là những gì còn lại sau khi loại bỏ
mặt tiêu cực trong một tổng thể, trong đó khía cạnh tích cực của tổng thể ấy
là trách nhiệm. Thực ra, chủ trương tôn thờ chủ nghĩa tự do có nguy cơ bị
biến thành chủ nghĩa độc đoán trừ khi tự do phải luôn gắn liền với trách
nhiệm. Đó là lý do tại sao tôi đã khuyến nghị rằng bức tượng Thần Tự do ở
Bờ Tây cần được bổ sung thêm một bức tượng Thần Trách nhiệm ở Bờ
Đông.
Cương lĩnh hoạt động
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù một con người được cho là đã đánh mất
chính mình, thì họ vẫn còn một chút đặc quyền tối thiểu. Vì vậy, đối với
những người mắc chứng rối loạn thần kinh, thậm chí tâm thần, trong họ vẫn
tồn tại cái được gọi là quyền tự quyết – đặc quyền trong khuôn khổ giới hạn.
Thật vậy, quyền tự quyết là cái cốt lõi sâu thẳm nhất trong bản ngã con
người, ngay cả chứng rối loạn tinh thần cũng không thể chạm tới được.
Một người bị tâm thần mãn tính có thể không còn khả năng đóng góp cho
lợi ích của gia đình và xã hội, tuy nhiên ở họ vẫn còn lại chân giá trị của một
con người. Đây chính là cương lĩnh hoạt động trong lĩnh vực tâm thần của
tôi. Không có nó, tôi không nghĩ mình xứng đáng trở thành một nhà tâm lý
học. Tôi làm tất cả những điều này vì lợi ích của ai ư? Vì những “cỗ máy”
tổn thương não vốn không còn khả năng phục hồi kia sao? Nếu bệnh nhân
còn sống vẫn có thể đóng góp được điều gì đó, thì mọi lý lẽ biện minh cho
luật “cái chết êm ái” chỉ là sự nguỵ biện.

Tái thiết lập chất nhân bản trong tâm thần học
Trong suốt một thời gian rất dài – thực tế là nửa thế kỷ – các nhà tâm thần
học đã tìm mọi cách chứng minh rằng não người hoạt động đơn thuần như
một cơ chế, và hậu quả là các phương pháp điều trị bệnh tâm thần chỉ đơn
thuần là một công việc mang tính kỹ thuật. Tôi tin rằng sai lầm này sẽ được
nhận ra. Trong tương lai, một biện pháp chữa trị tâm thần hữu hiệu không
chỉ là những phác đồ điều trị tâm lý mà còn là sự tìm hiểu và “chữa lành”
mang tính nhân văn hơn.
Dù vậy, một bác sĩ vốn cho vai trò của mình chủ yếu là vai trò của một
nhà kỹ thuật đã thú nhận rằng ông chỉ xem bệnh nhân như một cỗ máy, thay
vì nhìn thấy phía sau căn bệnh đó là một con người!
Trong khi đó, con người không phải là một sự vật giống như những sự vật
khác: các sự vật quy định lẫn nhau, còn con người là một sinh vật tự quyết.
Con người có thể trau luyện chính mình trong phạm vi năng lực thiên phú và
môi trường sống. Ví dụ như trong trại tập trung – có ý nghĩa như một phòng
thí nghiệm sống cho việc kiểm định – chúng tôi đã quan sát và nhìn thấy một
số người tù cư xử chẳng khác gì loài cầm thú, trong khi những người khác
thì hành xử như những vị thánh. Trong con người có cả hai bản chất ấy; và
phần thánh thiện hay phần tồi tệ được hiện thực hoá phụ thuộc vào các quyết
định của mỗi người chứ không phải là do hoàn cảnh.
Những gì thế hệ của chúng tôi trải qua trong trại tập trung đã khái quát
được bản chất thực sự của con người mà không cần bất cứ lời giải thích nào
khác. Rốt cuộc, con người chính là kẻ đã tạo ra phòng hơi ngạt ở Auschwitz,
đồng thời cũng chính là những sinh thể đã hiên ngang vào phòng hơi ngạt
với kinh Lạy Cha hoặc câu kinh Shema Yisrael trên môi.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ