Thất Lạc Cõi Người - Quyển Sổ Ghi Chép Thứ Ba

Phần I
Lời dự đoán của thằng Takeichivề tôi một đúng, một trật. Cái dự đoán vô sỉ của nó là tôi được lũ con gái “yêu thương” thì đúng, còn cái lời chúc phúc rằng tôi sẽ là “một họa sĩ” vĩ đại thì sai trật hoàn toàn.
Tôi chỉ có thể là một họa sĩ truyện tranh vô danh của một tờ tạp chí hạng bét mà thôi.
Vì sự kiện ở Kamakura mà tôi bị đuổi học khỏi trường cao đẳng, đến tá túc ở một căn phòng ba chiếu trên tầng hai nhà ông cá bơn. Ngoài một số tiền nhỏ nhoi hàng tháng từ quê gửi lên, nhưng không phải trực tiếp cho tôi mà gửi qua tay ông cá bơn (nghe nói số tiền này là các anh tôi lén cha tôi mà gửi), thì tất cả mối liên hệ với cố hương đều bị cắt đứt. Ông cá bơn lúc nào cũng khó chịu, dù tôi cứ mỉm cười lấy lòng nhưng ông ta chẳng thèm cười lại. Cái sự thay đổi đến mức kỳ dị này khiến tôi thấy thật ti tiện, không phải, đến mức buồn cười thì đúng hơn rằng tại sao con người có thể thay đổi nhanh chóng như trở bàn tay vậy?
“Không được đi ra ngoài. Đừng có đi ra ngoài đấy nhé”.
Cá bơn cứ nói toàn những lời như vậy.
Có lẽ ông cá bơn cứ dõi mắt canh chừng vì sợ tôi tự sát chăng? Chắc ông sợ tôi lần theo dấu người con gái đã mất mà lại nhảy xuống biển nữa hay sao nên cấm tiệt tôi không được ra ngoài. Thế nhưng không được hút thuốc với uống rượu, từ sáng đến tối chỉ vùi trong cái bàn sưởi kotatsu nơi căn phòng ba chiếu, đọc mấy tờ tạp chí cũ, sống ngơ ngơ lay lắt như vậy, tôi chẳng còn có khí lực gì muốn tự sát nữa.
Căn nhà của ông cá bơn nằm gần trường y Okubo. Trước nhà tuy có gắn tấm bảng “Thanh Long Viên, chuyên thư họa và đồ cổ” nhưng vì một căn nhà chia làm hai hộ nên cổng vào thì hẹp, trong nhà thì bày toàn những thứ vô dụng phủ đầy bụi bặm (không phải ông cá bơn dựa vào những thứ tạp nhạp này mà bán buôn mà nghe nói ông ta kiếm được bộn tiền nhờ vào việc nhượng quyền sở hữu cổ vật từ chủ này sang chủ kia). Hầu như ông cá bơn không khi nào ngồi ở tiệm cả. Mỗi sáng ông ta làm cái mặt khó đăm đăm, vội vàng chạy đi, để lại một người nhân viên chừng 17,18 tuổi giữ nhà nhưng thực ra thì để canh chừng tôi thì phải. Mỗi khi rảnh rỗi, chú lại chạy ra ngoài chơi bóng ném cùng lũ trẻ hàng xóm. Chú ta xem kẻ ăn bám ở tầng hai này là ngu si hay bị thần kinh gì đó và thường giở giọng người lớn thuyết giáo cho tôi nghe. Vì khí chất của tôi không thể nào mà đi cãi nhau với người ta được nên tôi cứ làm ra vẻ mặt mệt mỏi hay cảm động mà lắng tai nghe, mà phục tùng. Trước đây hình như đã có lần tôi nghe người nhà đồn rằng đứa nhỏ này là con rơi của Shibuya nhưng vì một lý do nào đấy mà ông cá bơn này không nhận mặt. Vì tôi không có hứng thú gì đến chuyện riêng tư người khác nên không biết rõ chi tiết. Nhưng đôi mắt của chú nhỏ này quả thật có chút gì làm người ta liên tưởng đến đôi mắt cá. Không lẽ chú này thật sự là con rơi của ông cá bơn? Nếu vậy thì hai cha con nhà này cô đơn quá. Có lần đêm khuya tôi nghe thấy tiếng hai cha con này gọi mỳ gõ, ngồi ăn với nhau mà chẳng ai nói với ai tiếng nào.
Trong nhà ông cá bơn, việc cơm nước đều do chú nhỏ này đảm nhiệm. Thức ăn cho cái gã phiền phức ở tầng hai được đặt vào một cái mâm do chú ta một ngày ba lần bưng lên bưng xuống. Còn chú nhỏ và ông cá bơn thì ăn uống xì xụp vội vàng ở trong một căn phòng tăm tối bốn chiếu rưỡi dưới cầu thang.
Vào một buổi tối cuối tháng ba, ông cá bơn không biết trúng quả không ngờ hay là đã tìm ra được đối sách cho tôi rồi hay sao ấy (cho dù hai suy đoán này của tôi đều đúng thì chắc cũng còn có nhiều nguyên nhân vi tế khác mà tôi không tài nào đoán được) nên mời tôi xuống lầu. Kẻ ăn bám đang ngơ ngơ ngác trước bàn ăn thịnh soạn có cả rượu sake, cả sashimi cá ngừ, đang cảm phục sự khoản đãi của chủ nhân, đang chiêm ngưỡng thì được ông cá bơn rót rượu mời.
“Từ giờ trở đi, cậu tính làm gì đây?”.
Tôi không trả lời, với tay lấy vài con cá mòi khô trên dĩa, nhìn vào đôi mắt bạc của lũ cá nhỏ, bỗng trào nỗi thương cảm, nhớ thuở còn rong chơi, nhớ đến cả Horiki, cảm giác bỗng dưng vô cùng muốn tự do khiến tôi suýt trào nước mắt.
Từ sau khi đến ngôi nhà này, tôi chẳng còn lòng dạ nào mà diễn hề nữa, chỉ nằm dài trong nhà, chịu sự miệt thị của ông cá bơn và chú nhỏ. Tôi cũng chẳng muốn đuổi theo ông cá bơn mà giãi bày điều gì, và hầu như như trở thành một kẻ ăn bám ngu ngốc toàn phần.
“Cậu đã được miễn khởi tố, và cũng không được tính là có tiền án tiền sự gì cả. Bởi vậy, chỉ cần có cái tâm sáng rõ là có thể làm lại được cuộc đời. Nếu cậu muốn cải tà quy chánh, có thể cứ nói trực tiếp một cách nghiêm túc cho tôi hay, tôi có thể suy nghĩ mà giúp cậu”.
Cái cách nói chuyện của ông cá bơn, không phải, của tất cả người trong thế gian này đều phiền toái, mông lung, phức tạp quanh co một cách né tránh như vậy. Đối với những lời nói có vẻ cảnh giới nghiêm trọng đến mức vô ích, với chiến thuật lôi kéo ồn ào vô số này tôi luôn khó xử, không biết xoay xở ra sao thành ra khi thì tôi biến những lời nghiêm túc thành trò cười bằng vai hề của mình hay chỉ biết gật đầu không nói không rằng, thể hiện một thái độ thất bại thảm hại mà thôi.
Đến mãi sau này khi nhớ lại những gì ông cá bơn hướng về tôi mà nói lúc ấy chỉ như là một lời trình bày đơn giản sự việc, nhưng cái dụng tâm không cần thiết của ông, mà không cái lối thể hiện khoe mẽ bề ngoài của những con người thế gian vẫn làm tôi cảm thấy u uất không chịu nổi.
Lúc đó, ông cá bơn chỉ cần nói thế này thì có phải hay không?
“Từ tháng tư tới, cậu hãy nhập học một trường nào đó đi. Trường công hay tư gì cũng được. Sau khi nhập học rồi thì nhà cậu ở quê sẽ gửi tiền sinh hoạt phí nhiều hơn đấy”.
Mãi đến sau này tôi mới hiểu ý ông cá bơn muốn nói là như thế. Nếu vậy thì tôi chỉ cần làm theo là xong thôi nhưng vì cái dụng tâm loanh quanh của ông cá bơn trong lời nói mà cách sống của tôi lại hoàn toàn thay đổi.
“Nếu cậu không có cái tâm nghiêm chỉnh muốn bàn bạc với tôi thì tôi cũng chẳng có cách nào khác”.
“Bàn bạc cái gì cơ ạ?”. Tôi thật tình vẫn không tài nào đoán ra.
“Cái tâm tư sâu kín của cậu ấy”.
“Ví dụ ạ?”
“Ví dụ như là từ giờ trở đi cậu muốn làm gì chẳng hạn”.
“Vậy là đi làm việc là được chứ gì”.
“Không phải, tâm tư cậu muốn gì kia?”.
“Nếu vậy thì vào trường học thì sao ạ?”.
“Vậy sẽ cần đến tiền. Nhưng vấn đề không phải là tiền bạc mà là cái tâm tư của cậu kìa”.
Tại sao không nói thẳng một câu là bởi vì tiền bạc thì có nhà cậu từ quê gửi lên rồi? Chỉ cần dựa vào câu nói ấy thì tâm tư tôi cũng sẽ an định ngay mà. Tôi như bước đi giữa đám sương mù.
“Sao nhỉ? Cậu không có cái gì là hy vọng tương lai à? Cái người được giúp đỡ chắc là không thể hiểu được cái việc giúp đỡ người khác là khó khăn như thế nào đâu”.
“Xin lỗi”.
“Tôi thật tình lo lắng cho cậu. Vì đã nhận lời chăm sóc cậu nên tôi không muốn thấy cậu có tâm trạng nửa vời như thế này được. Tôi muốn cậu hãy thể hiện rõ ràng quyết tâm đi theo con đường chính đáng để làm lại cuộc đời. Cậu hãy nói một cách nghiêm túc với tôi về điều đó thì tôi cũng có thể liệu đường mà giúp cậu. Với sự giúp đỡ của ông cá bơn nghèo hèn này mà cậu mong quay trở lại cuộc sống xa xỉ như trước kia là cậu nhầm rồi đó. Tuy nhiên, nếu cậu quyết tâm và xác lập rõ ràng con đường tương lai thì tuy sức tôi nhỏ bé thì cũng có thể gắng sức mà giúp cậu được. Cậu có hiểu không? Cái tâm trạng của tôi ấy? Nói chung là từ giờ trở đi cậu định như thế nào?”.
“Nếu ông không cho tôi ở đây nữa thì tôi sẽ đi làm…”
“Thực tình thì cậu muốn làm công việc gì? Trong thời buổi này tốt nghiệp đại học đế quốc Đông Kinh cũng còn chưa chắc…”.
“Không phải tôi muốn vào làm trong công ty đâu”.
“Vậy thì làm gì?”.
“Họa sĩ”, tôi trả lời nhất quyết.
“Cái…cái gì cơ?”.
Tôi sẽ chẳng bao giờ quên được cái vẻ rụt cổ lại mà cười khùng khục đầy vẻ gian tà của ông cá bơn. Tuy có vẻ khinh miệt nhưng thực ra lại khác. Nếu ví cuộc đời như biển sâu, thì đó là cái hình bóng huyền bí lảng vảng ở đáy tận cùng sâu thẳm ấy. Nụ cười đó cho ta thấy thoáng qua bản chất cuộc đời của nhân gian.
Sau khi bị ông cá bơn nói những lời như vậy thì chẳng thể nào nói chuyện được nữa, cậu không nghiêm túc được một chút nào hay sao, cậu suy nghĩ lại đi chứ, dành chọn một đêm để động não đi nào; tôi lủi thủi lên tầng hai như bị đuổi. Trằn trọc cả đêm cũng chẳng suy nghĩ được gì. Và khi bình minh lên, tôi bỏ trốn khỏi nhà ông cá bơn.
“Chắc chắn đến tối tôi sẽ quay trở về. Tôi đến nhà một người bạn để trao đổi về định hướng tương lai nên đừng lo lắng. Thật sự đấy”.
Tôi lấy bút mực viết vào giấy mấy dòng như vậy. Rồi sau khi viết đầy đủ tên họ cùng địa chỉ nhà Horiki, tôi lén lút bỏ đi.
Không phải tôi bỏ trốn vì cảm thấy nhục nhã khi bị ông cá bơn thuyết giáo. Mà bởi vì, đúng như ông cá bơn nói, tôi là cái thằng tâm tư không nghiêm túc, chẳng biết trong
tương lai mình phải làm gì, hơn nữa hiện đang là một kẻ gây phiền phức cho nhà ông cá bơn, lỡ như trong thời gian ở đây tôi tức khí phát phẫn lên, lập chí làm lại cuộc đời thật thì mỗi tháng ông cá bơn đã nghèo hèn lại phải viện trợ tiền cho tôi nữa. Nỗi khổ tâm đó làm tôi không thể nào chịu nổi.
Tuy nhiên không phải tôi rời nhà ông cá bơn để đến chỗ Horiki bàn về “con đường tương lai” thực sự đâu. Tôi viết như vậy chỉ để làm cho ông cá bơn yên tâm được một chút nào đó thôi. (Tôi viết như vậy vì sợ sẽ phải gây choáng váng và bàng hoàng khó xử cho ông cá bơn hơn là một đối sách theo kiểu truyện trinh thám để bỏ nhà ra đi). Chuyện này một khi bại lộ ra ngoài, thì tôi sẽ quanh co ngụy biện rằng mọi chuyện đúng như vậy đấy. Đây cũng là một cái thói hư tật xấu trong tính cách của tôi. Nó là cái tính cách ti tiện mà nhân gian gọi là “dối trá”. Nhưng viết vậy không phải để trục lợi cho mình mà vì sợ đến nghẹn thở cái sự thay đổi đột ngột. Và mặc dù biết rõ điều này sẽ gây cho mình bất lợi về sau nhưng đó hình như là cái trò trình diễn ngu ngốc và yếu kém của tôi chăng? Tôi nghĩ rằng có thể vì cái yếu tố trình diễn này mà tôi thường hay thêm thắt ngôn ngữ này kia chăng? Tuy nhiên tôi cũng nhận thấy những bậc “chính nhân quân tử” cũng hay dùng thủ đoạn này. Lúc đó, tôi cứ thế mà viết thẳng họ tên và địa chỉ nhà Horiki từ đáy ký ức của mình.
Tôi rời khỏi nhà ông cá bơn, đi bộ đến khu Shinjuku, bán mấy quyển sách mang theo rồi chẳng biết làm gì, hoang mang trăm lối. Mặc dù tôi chan hòa với mọi người nhưng chưa một lần biết thế nào là “tình bằng hữu”. Trừ cái gã Horiki là bạn chơi bời ra thì tôi chỉ còn lại toàn thống khổ, để làm tan sự thống khổ đó tôi mới gắng sức diễn hề và cuối cùng chỉ để chuốc lấy sự mệt mỏi rã rời. Mỗi lần trên phố tình cờ gặp mặt người quen, hay chỉ cần thấy giống như người quen thôi là tôi đã choáng váng, giật bắn người lên như thể bị chóng mặt vậy. Tôi biết mình được người ta yêu quý nhưng hình như tôi thiếu cái năng lực để mà yêu quý người khác vậy. (Phải nói thêm là tôi rất nghi ngờ rằng không biết nhân gian thật sự có khả năng “yêu” hay không nữa). Một kẻ như tôi thì làm sao mà có bạn thân cơ chứ. Không những thế tôi còn thiếu khả năng “thăm hỏi” nữa kia. Cổng nhà người ta đối với tôi còn đáng sợ hơn cổng địa ngục trong tác phẩm “Thần khúc” của Dante nữa, còn đằng sau cái cổng kia tôi có cảm giác như một con quái thú rồng tanh tưởi đang ngọ nguậy rập rình vậy. Đó là cảm giác thật sự của tôi, hoàn toàn không khoa trương một tí nào.
Tôi không có bạn hữu cũng không có chỗ nào mà đi nữa.
Horiki.
Tưởng nói đùa chơi ai ngờ là thật. Tôi quyết định đến nhà Horiki ở Asakusa đúng như điều đã ghi trong thư. Cho đến bây giờ, tôi chưa lần nào đến nhà gã Horiki này cả, chỉ dùng điện tín để gọi gã đến chỗ tôi mà thôi. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu lần này chỉ đánh điện tín thì với hoàn cảnh sa sút hiện nay của mình, có lẽ gã sẽ không đến đâu nên tôi mới quyết ý làm chuyện khổ sở nhất đời là “đến thăm” nhà gã. Tôi thở dài, leo lên lên tàu điện và khi nghĩ rằng sợi dây độc nhất nối kết mình với nhân gian chỉ là cái gã Horiki kia thôi, tự nhiên tôi cảm thấy một cơn buốt lạnh thê thảm chạy dọc sống lưng mình.
Horiki đang ở nhà. Ngôi nhà hai tầng của gã nằm sâu trong một con ngõ hẻm dơ dáy. Horiki chỉ sử dụng một căn phòng sáu chiếu ở tầng hai, còn ở dưới dành cho ba người là cha mẹ gã cùng với một gã người làm trẻ làm công việc may và đính quai cho những chiếc guốc gỗ geta.
Ngày hôm ấy, gã Horiki đã cho tôi thấy một mặt khác của bản chất người đô thị nơi gã. Nói theo kiểu thông thường thì đó là là sự ma mãnh sắc sảo. Thứ vị kỷ gian trá và lạnh lùng của Horiki làm một kẻ quê mùa như tôi phải trố mắt ngạc nhiên.
“Trời cậu đó à? Thật kinh ngạc quá. Thế cha mẹ cậu đã tha thứ cho cậu rồi hả? Hay là vẫn chưa?”.
Tôi không thể trả lời rằng mình đã bỏ trốn.
Tôi dựa vào câu nói đó để lừa gạt Horiki dù biết rằng không sớm thì muộn gã cũng phát giác ra sự thật.
“À, biết làm sao khác được. Mọi chuyện cứ thế mà diễn ra”.
“Này, không phải chuyện đùa đâu đấy. Tớ khuyên cậu nên thôi những trò ngu ngốc đó đi. Hôm nay tớ có việc phải làm. Dạo này bận kinh khủng đi cơ”.
“Bận à? Bận việc gì đấy?”
“Này, này, đừng có ngắt đứt mấy sợi chỉ trên đệm ngồi như thế chứ?”.
Vừa nói chuyện, tôi vừa cầm một sợi chỉ tua ren nơi góc chiếc đệm ngồi, day day trên tay một cách vô tình rồi bứt bứt chơi. Cái gã Horiki này đối với những đồ vật trong nhà mình, ngay cả một sợi chỉ diềm tua của chiếc đệm ngồi cũng xót, như không biết liêm sỉ là gì, cằn nhằn tôi với ánh mắt giận dữ. Thử nghĩ lại thì từ khi kết bạn với tôi gã Horiki này chưa chịu mất một thứ gì cả.
Bà mẹ già của Horiki đặt lên bàn hai bát chè đậu đỏ.
“Này, vậy là sao đây?”.
Horiki như một đứa con hiếu thảo thật sự, hướng về phía mẹ gã nói bằng giọng lịch sự gần như mất tự nhiên.
“À, con xin lỗi. Thì ra là chè đậu đỏ à? Thật là tuyệt vời quá. Mẹ không cần phải lo lắng quá cho tụi con như thế này đâu. Tụi con có việc phải đi ra ngoài ngay bây giờ đấy mà. Nhưng mà mẹ đã cất công nấu chè như thế này bỏ đi thì phí quá nên tụi con xin nhận vậy. Cậu cũng ăn một chén đi. Mẹ tớ đã cất công làm mà. Trời ngon quá, tuyệt vời làm sao”.
Hắn nói rồi hí hửng vui mừng, ăn ngon lành như thể chẳng phải diễn kịch một chút nào. Tôi cũng húp chè nhưng lại thấy mùi nước sôi, khi ăn đến miếng bột nếp thì đó không phải là bột nếp mà là thứ gì tôi không biết rõ. Nhưng tôi hoàn toàn không khinh miệt sự nghèo hèn đó. (Tôi không nghĩ rằng món chè đó dở và còn cảm động trước sự tận tâm của bà mẹ già. Nếu như tôi có chút cảm giác gì sợ hãi với sự nghèo hèn thì cũng không phải là sự khinh miệt). Chính nhờ vào chén chè đậu đỏ và sự vui mừng của Horiki trước chén chè đó mà tôi thấy được bản tính tằn tiện của người kinh đô, cũng như thực cảm được một gia đình ở Tokyo nơi mà con người ta hành xử khác hẳn nhau khi ở trong nhà và khi ra đường. Tôi chán chường với cảm giác mình chỉ là một thằng ngu chạy trốn cuộc sống con người, không đủ khả năng để phân biệt cách ứng xử trong nhà và ra ngoài đường, ngay cả gã Horiki này cũng muốn vứt bỏ mình nữa. Tôi vừa cầm chiếc đũa son đã phai màu vừa thấy mình cô đơn vô hạn.
“Xin lỗi nhé, hôm nay mình có việc bận rồi”.
Horiki đứng dậy, vừa mặc áo khoác vừa nói.
“Xin lỗi nhé, tớ phải đi đây”.
Đúng lúc đó có một người con gái đến thăm Horiki. Vận mệnh tôi chuyển xoay nhanh chóng.
Horiki đột nhiên trở nên xởi lởi.
“À, xin lỗi nhé. Tôi cũng đang dự định đến chỗ chị đây. Vậy mà bỗng nhiên chị lại đến tìm. Không sao cả đâu. Mời chị vào nhà”.
Tôi lấy chiếc đệm ngồi dưới chân, lật úp lại và đưa cho Horiki. Dường như có vẻ vội vàng, Horiki giật lấy tấm đệm ngồi và lật úp lại một lần nữa, đưa cho cô gái. Trong phòng, ngoài chiếc đệm ngồi của Horiki chỉ còn lại độc nhất một chiếc dành để tiếp khách mà thôi.
Người con gái cao và gầy. Chỉ tựa vào một bên mép chiếc đệm, Nàng ngồi nơi phía góc gần cửa ra vào.
Tôi mơ hồ lắng nghe câu chuyện giữa hai người. Hình như nàng làm cho một tạp chí, nhờ Horiki vẽ tranh minh họa hay gì đó và hôm nay đến lấy thì phải.
“Việc cần lắm ạ”.
“Xong rồi, vẽ xong từ lâu rồi đấy. Đây này”.
Điện báo chợt đến.
“Hãy về nhà ngay. Tôi đến đón cậu cũng được nhưng bây giờ đang có việc bận. Bỏ nhà ra đi à? Sao nhẹ dạ quá thế?”
“Nhà cậu ở đâu vậy?”
“Dạ, ở Okubo ạ”, tôi đáp ngay không cần suy nghĩ.
“Vậy thì gần chỗ công ty tôi đấy”.
Chị nói với tôi là mình sinh ra ở Koshu, năm nay hai mươi tám tuổi. Hiện chị đang sống ở một căn hộ ở Koenji cùng với đứa con gái năm tuổi. Chồng chị chết đã ba năm nay.
“Có vẻ như em trải qua một tuổi thơ không hạnh phúc. Em lại nhạy cảm nữa. Thật tội nghiệp cho em”.
Thế là tôi bắt đầu cuộc sống như một gã chồng hờ. Sau khi Shizuko (tên người nữ ký giả này) đi làm ở một tòa soạn báo khu Shinjuku, tôi cùng với cô gái Shigeko năm tuổi của chị ở lại trông nhà. Cho đến lúc đó thì mỗi lần mẹ vắng nhà, cô bé đều chạy đến chơi ở phòng của người quản lý khu chung cư nhưng bây giờ có một chú “nhạy cảm” đến chơi cùng nên cô bé vui thích lắm.
Tôi lơ ngơ ở đó chừng khoảng một tuần. Nơi hàng dây điện gần sát cửa sổ có một con diều hình cô gái bị mắc dây rách nát bụi bặm bay phần phật trong gió xuân nhưng vẫn bám chắc lấy sợi dây điện, không chịu buông như thể gật đầu khẳng quyết điều gì đó. Mỗi lần nhìn ra, tôi đều cười khổ rồi đỏ mặt lên, nó còn ám ảnh tôi ngay cả trong mơ nữa.
“Em muốn có tiền”.
“Bao nhiêu chứ?”
“Muốn nhiều. Người ta nói tiền hết thì tình cũng phai là sự thật đó”.
“Thật ngớ ngẩn và cổ hủ nữa”.
“Vậy à? Chị không hiểu đâu. Cứ thế này em sẽ bỏ trốn đấy”.
“Vậy chứ ai nghèo đây? Rồi ai bỏ trốn đây? Ngốc nghếch quá”.
“Em muốn mua rượu và thuốc lá bằng chính tiền của mình cơ. Nếu mà về vẽ thì em hơn đứt Horiki nhiều đấy”.
Lúc ấy tự nhiên trong tâm trí tôi hiện lên bức hình chân dung tự họa vẽ thời trung học mà Takeichi gọi là “ác ma”. Một kiệt tác bị đánh mất. Mặc dù bức tranh này bị mất đi sau nhiều lần dọn nhà nhưng tôi cảm giác chắc chắn đây là một bức tranh tuyệt tác. Cho dù sau đó tôi đã vẽ rất nhiều tranh nhưng so với tuyệt phẩm trong trí nhớ chúng đều không bằng được và tôi lúc nào cũng có cảm giác mất mát một thứ gì đó lớn lao, như thể ngực mình bị trống rỗng đi vậy.
Một ly rượu áp-xin còn để lại.
Tôi thầm hình dung về cảm giác mất mát khó bù đắp này như thế. Mỗi lần nói chuyện về hội họa, ly rượu áp-xin còn lại đó lại hiện lên trước mắt tôi. Và bất chợt ý muốn cho người đàn bà này xem bức tranh đó, làm cho chị tin vào tài năng của tôi chợt thiêu đốt tâm can.
“Này, sao vậy em? Mặt mũi nghiêm trang thế kia mà nói đùa được, thật là dễ thương”.
Tâm tư tôi xoay chuyển bao ý nghĩ không phải đùa đâu, thật đó, tôi muốn chị xem bức tranh kia rồi bất chợt chán nản bỏ cuộc.
“Tranh hoạt họa ấy. Ý em muốn nói là nếu vẽ truyện tranh em giỏi hơn Horiki nhiều”.
Vậy đó, khi giở ngôn ngữ hoạt kê của thằng hề để lừa người ta thì trái lại làm cho người ta tin tưởng chân thành.
“Đúng vậy, chị cũng cảm động lắm. Xem những tranh hoạt họa em vẽ cho Shigeko, chị cũng phải bật cười đấy. Hay là em thử vẽ xem sao nhé? Chị nói một tiếng nhờ ông trưởng ban biên tập là xong ngay ấy mà”.
Nhà xuất bản này phát hành nguyệt san hàng tháng nhưng hầu như trẻ em chẳng mấy ai biết đến tên tuổi….Khi nhìn thấy mày, hầu như đàn bà ai cũng muốn làm một cái gì đó cho mày đến mức không chịu nổi…. Mày lúc nào cũng nhút nhát và hài hước…Đôi khi mày tuyệt vọng tiêu trầm quá độ nhưng điều đó càng hấp dẫn đàn bà hơn…
Shizuko thuyết phục và động viên tôi rất nhiều. Khi nghĩ đến tình cảnh phiền phức của một gã chồng hờ, tôi trở nên tuyệt vọng. Mặc dù tôi tâm niệm “tiền quan trọng hơn đàn bà” và ráng sức để có thể sống tự lập, thoát khỏi Shizuko, nhưng cuối cùng tôi rơi vào tình cảnh phải dựa dẫm vào nàng. Tôi được người đàn bà mạnh mẽ vùng Koshu này chăm lo đủ đường cho tôi từ sau khi tôi bỏ nhà ra đi và kết quả là tôi càng trở nên nhút nhát với Shizuko hơn.
Dưới sự chủ trì của Shizuko, nàng mở một cuộc họp ba người gồm nàng, Horiki và ông cá bơn, cho rằng tôi đã bị toàn thể gia đình ở quê hương từ bỏ, và tôi đã trở thành chồng nàng “trước bàn dân thiên hạ”. Rồi nhờ sự chạy vạy bôn tẩu của Shizuko, truyện tranh tôi vẽ kiếm được nhiều tiền hơn ngoài dự tưởng. Tôi dùng số tiền đó mua rượu và thuốc lá nhưng nỗi cô đơn vộ vọng và u uất của tôi ngày càng đan kết lại. Tiêu trầm chồng chất tiêu trầm. Đến khi tôi vẽ truyện tranh “Những cuộc phiêu lưu của Kinta và Oita” thì chợt nhớ cố hương và cảm thấy mình cô đơn vô hạn, cầm bút cũng không nổi nữa, cứ gục đầu trên trang giấy trắng mà ứa nước mắt ra.
Đối với tình cảnh của tôi mà nói, lúc bấy giờ giúp tôi được chút gì chỉ có bé Shigeko. Con bé chẳng câu nệ phép tắc gì, cứ gọi tôi là “cha”.
“Cha này, có phải mình cầu nguyện điều gì thì thần linh cũng ban cho phải không ạ?”.
Tôi nghĩ chính mình cũng muốn nguyện cầu đây. Aaa, cầu Trời ban cho ta ý chí lạnh như băng, cầu Trời cho ta biết được bản tính của “con người”. Người chèn ép người phải chăng là tội lỗi. Cầu Trời ban cho ta chiếc mặt nạ của sự giận dữ thù hằn.
“Ừ, đúng đấy. Đối với bé Shige không thì ước gì Trời cũng cho đấy. Còn đối với cha thì chắc không được đâu”.
Tôi sợ hãi ngay cả thần linh. Tôi không tin vào lòng tin yêu của các vị thần mà chỉ tin vào sự trừng phạt của họ mà thôi. Tín ngưỡng. Tôi cảm thấy đó chỉ như một tòa án mà ta đứng gục đầu chờ nhận roi vọt của thần linh. Tôi có thể tin vào địa ngục chứ không thể nào mà tin vào Thiên đường cho được.
“Tại sao lại không được ạ?”
“Vì đã không nghe lời mẹ cha”.
“Vậy à? Sao con nghe mọi người đều nói cha rất tốt cơ mà?”
Đó chỉ là câu mọi người trong khu chung cư này nói lừa con bé để biểu thị hảo ý với tôi mà thôi. Tuy nhiên, tôi không thể nào giảng giải cho con bé hiểu là tôi sợ mọi người như thế nào, tôi càng sợ thì càng được người ta thích, và càng được thích thì lại càng sợ nên cuối cùng phải xa lánh mọi người. Cái bệnh bất hạnh ấy thiệt vô cùng nan giải.
“Shigechan này, vậy con muốn cầu thần linh điều gì?”
Tôi chuyển đề tài.
“Shigeko à? Shigeko muốn cha thật sự của mình quay về cơ”.
Tôi choáng váng, tai ù mắt hoa. Kẻ thù à? Mình là kẻ thù của Shigeko? Hay Shigeko là kẻ thù của mình? Ở đây cũng có một người đáng sợ đang uy hiếp mình. Tha nhân, tha nhân không thể hiểu, tha nhân đầy bí mật. Đột nhiên tôi thấy gương mặt của Shigeko phản chiếu những điều đó.
Tôi đã nghĩ chỉ có Shigeko là an toàn vậy mà con bé này đã cho tôi thấy cảnh “đuôi con bò đập chết con mòng hút máu trong lúc vô tình”. Tôi biết từ giờ trở đi mình cũng phải sợ hãi ngay cả chính con bé này nữa.
“Kẻ háo sắc sát gái có ở nhà không đấy?”.
Gã Horiki hình như đến thăm tôi thì phải. Ngày tôi bỏ nhà ra đi, hắn đã làm cho tôi buồn đau cơ khổ đến mức đó nhưng tôi vẫn không tạ tuyệt hắn mà còn mỉm cười ra chào đón.
“Nghe nói truyện tranh của cậu ngày càng được người ta yêu thích đấy nhỉ. Tất nhiên không thể so với bọn amateur, bọn chúng chỉ có cái dũng của của kẻ thất phu, không biết sợ là gì. Tuy vậy, cũng phải cẩn thận. Cái kiểu vẽ phác họa của cậu vẫn chưa là gì đâu”.
Hắn nói với thái độ như thể là thầy dạy tôi vậy. Tôi vừa buồn bực nghĩ thầm nếu mình cho gã này xem bức tranh “ác ma” của mình thì không biết cái vẻ mặt hắn sẽ như thế nào đây.
“Đừng nói những lời như thế chứ. Tớ sẽ khóc thét lên đấy”, tôi nói.
Horiki càng lúc càng đắc ý.
“Nếu chỉ dựa vào tài năng để kiếm sống thì sẽ có ngày đói rách thôi”.
Tài năng kiếm sống ư. Mình ngoài nỗi thống khổ ra thì còn có gì nữa chứ. Tài năng kiếm sống của mình à? Tuy nhiên cái việc sợ người, tránh người và lừa người như bản tính mình đây chẳng phải là tuân thủ theo phép xử thế giảo hoạt của câu nói “không dây vào việc người thì họa không kéo đến” là gì? À á, cả mình và hắn hai bên đều hiểu lầm nhau, cả hai xem nhau như người bạn thân duy nhất rồi một đời không hề nhận ra sự hiểu lầm ấy, đến khi có một kẻ chết thì kẻ kia sẽ khóc lóc mà đọc điếu văn chăng?
Có chuyện gì đây (chắc là do Shizuko ép hắn nên hắn mới miễn cưỡng nhận lời nhờ vả đây mà). Gã Horiki nghĩ hắn là nhân chứng trong vụ tôi bỏ nhà ra đi nên cứ nghĩ mình là đại ân nhân của tôi, đôi khi lại hành xử như một kẻ đã mai mối vợ chồng cho tôi vậy, nói với tôi những lời thuyết giáo với vẻ mặt vênh váo. Có nhiều lần hắn say rượu, ghé nhà tôi ngủ rồi sáng dậy mượn năm yên (lúc nào cũng là năm yên) mà đi mất.
“Tuy nhiên chuyện gái gú của cậu nên dừng lại là được đấy. Nếu làm quá, thế gian sẽ không dung tình đâu”.
Thế gian cụ thể là gì đây? Là số nhiều của con người chăng? Cái thực thể của thế gian nằm ở đâu kia chứ? Cho đến bây giờ tôi sống mà cứ nghĩ thế gian toàn là một cái gì đó cường liệt, khắc nghiệt và vô cùng đáng sợ. Khi nghe Horiki nói câu ấy, bất chợt tôi buột miệng:
“Thế gian chẳng phải là cậu hay sao kia chứ?”
Cậu nói ấy đã phát ra đến đầu lưỡi nhưng vì ngại làm cho gã Horiki nổi giận nên tôi đành nuốt xuống.
(Thế gian sẽ chẳng dung tình đâu.
Chẳng phải thế gian. Chính là mi không tha thứ ấy chứ.
Nếu lại tái phạm, thế gian sẽ cho mày biết tay.
Chẳng phải thế gian. Là mi đấy chứ.
Bây giờ thế gian đã chối bỏ mi.
Chẳng phải thế gian. Là mi chối bỏ đấy)
Mi hãy biết về nỗi sợ của chính ngươi, sự quái đản, sự tàn ác, tính cáo già, tính phù thủy…Những từ đó lần lượt trôi qua tâm trí tôi nhưng tôi chỉ lấy khăn tay mà lau mồ hôi mặt rồi cười nói:
“Cậu làm tớ toát mồ hôi lạnh này”.
Tuy nhiên từ đó trở đi tôi giác ngộ một tư tưởng là “cái gọi là thế gian chẳng phải là con người cá nhân hay sao?”
Khi nghĩ ra được phải chăng thế gian cũng chỉ là cá nhân thôi thì tôi mới bắt đầu có ý chí để làm việc nhiều hơn trước. Mượn lời nói của Shizuko thì tôi đã trở nên ích kỷ hơn một chút, không còn nhút nhát sợ hãi nữa. Và nếu như mượn lời nói của Horiki thì tôi trở nên bủn xỉn vô cùng. Còn như bé Shigeko nói thì tôi không còn là người dễ thương đối với bé nữa.
Mỗi ngày tôi tịnh khẩu, không cười không nói, vừa chăm lo cho bé Shigeko vừa vẽ không ngừng những loạt truyện tranh như “Cuộc phiêu lưu của Kinta và Ota”, rồi bắt chước mẫu “Người cha vui vẻ” mà sáng tác ra truyện “Hòa thượng vô lo”, rồi thì “Bé Pin nóng nảy” theo sự đặt hàng của các nhà xuất bản (Có những nhà xuất bản khác với chỗ Shizuko làm nhưng đều kém tiếng hơn chỗ Shizuko, có thể gọi là những nhà xuất bản hạng bét vậy). Tôi cứ từ từ vẽ với tâm trạng đầy u uất (cách vận bút vẽ của tôi rất chậm) chỉ để kiếm tiền uống rượu thôi. Khi Shizuko đi làm về, tôi giao hết cho nàng rồi đi ra ngoài, đến một quán rượu gần nhà ga Koenji hay đến quán bar(3)mà uống thứ rượu mạnh rẻ tiền. Đến khi tâm trạng trở nên vui vẻ hơn một chút, tôi mới quay về nhà.
“Càng nhìn càng thấy khuôn mặt em kỳ lạ. Em có biết khuôn mặt của hòa thượng vô lo là anh vẽ từ khuôn mặt em lúc đang ngủ không?”
“Gương mặt em khi ngủ trông già quá thể. Như gã đàn ông bốn mươi tuổi ấy”.
“Tại em hết. Em làm anh kiệt quệ. Đời là dòng sông, ta trôi như con thuyền, chống chèo dọc ngang xa mấy xa. A, bờ sông có cành liễu đứng rũ buồn”.
“Thôi đừng quậy nữa, ngủ sớm đi anh. À anh có muốn ăn cơm gì không?”
Nàng rất bình tĩnh, chẳng coi lời nói của tôi vào đâu.
“Có rượu nữa thì được đấy. Đời là dòng sông, ta trôi như con thuyền. Dòng người này, à không, dòng đời này đưa thân ta về đâu”.
Tôi vừa hát ngêu ngao vừa để cho Shizuko cởi quần áo cho, rồi sau đó rúc đầu vào ngực nàng mà ngủ. Đó là thói quen thường ngày của tôi.
Rồi từng ngày qua, những chuyện lặp lại mãi
Cứ theo ngày cũ, theo tập quán cũ đừng đổi thay chi
Nếu tránh đi ngay cả niềm vui mãnh liệt
Thì nỗi buồn lớn lao cũng chẳng ghé thăm
Nơi tảng đá chắn ngang đường lạ
Một con cóc nhảy lượn vòng qua
Khi tôi đọc bản dịch đoạn thơ này của Guy-Charles Cros do Ueda dịch, mặt tôi đỏ bừng hổ thẹn.
Con cóc.
(Đó chính là tôi. Không phải chuyện thế gian tha thứ hay không, bị chối bỏ hay không mà vấn đề tôi là một con vật còn hèn kém hơn cả chó mèo. Một con cóc. Cử động khềnh khàng chậm chạp).
Tửu lượng tôi càng lúc càng tăng. Không chỉ dừng lại ở vùng gần ga Koenji nữa mà tôi còn lang thang đến Shinjuku, Ginza mà uống, ngủ lang bạt ở ngoài, không tuân thủ “phép tắc, tập quán” gì nữa. Ở quán bar tôi hành xử như tên vô lại, hôn hít mấy em ngồi kế bên, nghĩa là tôi đã trở nên một tên tửu đồ hoang dã, đê tiện như ngày trước, mà không, hơn ngày xưa nữa. Cùng quẫn tiền bạc, có lần tôi mang cả quần áo của Shizuko mà đi cầm nữa.
Từ khi tôi dọn đến đây, nhìn con diều rách nát mà cười đã hơn một năm rồi. Một ngày, khi những đóa hoa anh đào rụng rơi và những lá xanh đã nhú, tôi lại lén mang dây lưng và quần áo trong của Shizuko đến tiệm cầm đồ lấy tiền đến khu Ginza mà uống rượu. Sau khi lang bạt ngủ liền hai đêm liền ở ngoài, đến đêm thứ ba do mệt mỏi, theo quán tính tôi lại lê bước về nhà. Đến trước cửa phòng Shizuko, tôi chợt nghe tiếng hai mẹ con nói chuyện với nhau.
“Tại sao cha lại uống rượu vậy?”
“Không phải cha con uống vì nghiện rượu đâu. Bởi vì cha con là người rất tốt, bởi vì…”
“Vậy người tốt thì cứ phải uống rượu hả mẹ?”
“Không phải đâu nhưng mà…”
“Cha chắc sẽ ngạc nhiên lắm đấy nhỉ”.
“Chắc cha con sẽ không ưa đâu. Coi kìa, nó nhảy ra ngoài hộp rồi”.
“Giống y chang như bé Pin nóng nảy vậy mẹ nhỉ”.
“Ừ nhỉ”.
Tôi nghe tiếng cười đầy hạnh phúc của Shizuko. Khi mở hé cửa nhìn vào trong tôi thấy một con thỏ trắng nhỏ. Nó cứ chạy nhởn nhơ quanh căn phòng còn hai mẹ con Shizuko thì đuổi theo bắt lại.
(Hạnh phúc thực sự là hai mẹ con này đây. Một kẻ ngu ngốc như mình chen vào giữa thế là cuộc đời hai người tán loạn cả lên. Một hạnh phúc thật giản dị. Hai mẹ con thật tuyệt vời. (Nếu thần linh cũng nghe thấy lời nguyện cầu của một kẻ như tôi thì xin một lần, một lần trong đời thôi Người hãy ban cho tôi biết thế nào là hạnh phúc).
Tôi nguyện cầu với tâm trạng như thể mình đang quỳ xuống chắp tay vậy. Rồi tôi nhẹ nhàng đóng cửa, đi đến khu Ginza và từ đó trở đi không bao giờ quay về căn nhà đó nữa.
Tôi quyết định đến một quán bar gần khu Kyobashi. Trên tầng hai của quán bar này, tôi lại làm một gã chồng hờ, nằm dài cho qua ngày tháng.
Thế gian. Tôi cảm giác như mình có thể bắt đầu lờ mờ hiểu về nó. Trong sự ganh đua giữa các cá nhân, trong cuộc tranh giành ấy, chiến thắng là tất cả.Con người không bao giờ phục tùng con người.Ngay cả kẻ nô lệ cũng biết ăn miếng trả miếng ti tiện theo kiểu nô lệ. Nếu không dựa vào sự thắng bại của cuộc ganh đua, thì công phu để sống còn không hiển lộ. Người ta rêu rao đại nghĩa, nhưng mục tiêu của sự nỗ lực chắc chắn phải là cá nhân, cá nhân vượt lên trên cá nhân. Cho nên sự nan giải của thế gian cũng chính là sự nan giải của cá nhân. Đại dương không phải là thế gian mà chính là những cá nhân. Khi hiểu được vậy tôi cảm thấy mình phần nào được giải phóng khỏi nỗi sợ hãi trước huyễn ảnh thế gian như biển lớn. Cách cư xử của tôi đã trở nên dày dặn hơn một chút, không còn suy nghĩ lo lắng vô độ như trước nữa mà chỉ hành động ứng với tình hình hiện tại thôi.
Sau khi chối bỏ căn nhà nơi Koenji, tôi tìm đến quán bar ở khu Kyobashi và nói với má mì:
“Tôi đã chia tay nàng và tìm đến đây”.
Tôi chỉ nói vậy và vậy là đủ rồi. Thắng bại của trường tranh đấu đã được quyết định. Từ đêm đó, tôi cứ mặt dày ngủ lại nơi tầng hai của quán bar. Cái “nhân gian” đáng sợ kia không gây hại gì cho tôi cả còn tôi thì chẳng cần biện minh gì thêm. Chừng nào má mì còn ưa tôi thì chừng đó tất cả đều xuôi chèo mát mái.
Tuy thế “nhân gian” không một chút mảy may nghi ngờ gì trước sự hiện diện chắc chắn là quái dị của tôi. Tôi vừa như một vị khách của quán, vừa như ông chủ, vừa như thằng giúp việc, vừa như người thân thích của quán vậy. Những người khách cứ gọi tôi là “Yochan, Yochan”, đối xử với tôi rất tử tế và còn mua rượu cho tôi uống nữa.
Đối với cuộc đời, dần dần tôi chẳng dụng tâm gì nữa. Tôi nghĩ rằng cái gọi là cuộc đời cũng chẳng đáng sợ đến thế. Có nghĩa là cảm giác sợ hãi của tôi cho đến bây giờ như hàng vạn con vi khuẩn ho mãn tính sinh sản trong gió xuân, như vạn con vi trùng đục mắt tiềm phục trong nước ấm, như vạn con vi khuẩn gây hói đầu nơi tiệm hớt tóc, như những vi trùng gây ngứa lúc nhúc trên vòng da cầm tay trên tàu điện, như ấu trùng sán trong sashimi và thịt bò nướng tái, như sán lá gan náu mình trong trứng, như mẩu kính vỡ đâm sau gót chân khi đi dạo bộ bằng đôi chân trần, rồi run sợ theo lý thuyết của “mê tín khoa học” rằng mẩu kính đó sẽ theo đường máu tàn phá cơ thể đục hư mắt và làm ta mù vĩnh viễn. Hàng vạn con vi khuẩn đang trôi nổi, ngoe nguẩy khắp nơi đó là điều chính xác “theo khoa học”. Đồng thời với điều này thì chỉ cần mặc xác sự tồn tại của chúng, coi chúng như chẳng có liên quan gì đến ta, thì ngay lập tức ta có thể làm chúng biến mất xem đó chỉ như là một “bóng ma của khoa học” mà thôi. Tôi biết là như vậy. Những chuyện như là mỗi ngày ăn cơm hộp chỉ cần chừa lại ba hạt cơm, rồi hàng ngàn hàng vạn người cũng chừa lại ba hạt cơm như vậy thì lãng phí biết bao nhiêu gạo mà kể; hay mỗi ngày mỗi người tiết kiệm một chiếc khăn giấy chùi mũi thôi thì sẽ tiết kiệm được bao nhiêu bột giấy…. Những cái “thống kê khoa học” như vậy làm tôi sợ rúm cả người. Mỗi ngày ăn cơm còn chừa lại một hạt, hay mỗi lần hỉ mũi, tôi đều khổ đau với cái ảo tưởng mình đã lãng phí một núi gạo hay một núi bột giấy rồi u uất buồn đau như mình đã phạm phải một tội lỗi tày đình. Thế nhưng với cái “dối trá khoa học”, “dối trá thống kê”, “dối trá toán học” đấy đâu thể mà gom ba hạt gạo của mọi người được. Cho dù ứng dụng toán nhân toán chia vào những chủ đề đơn giản nguyên thủy nhất như một người cứ mấy lần bước vào nhà vệ sinh tăm tối do mất điện thì có một lần bước hụt vào bồn cầu, hay xác xuất bao nhiêu phần trăm người bị lọt chân xuống khoảng giữa cửa tàu điện và bậc thềm nhà ga… Những tính toán xác suất ngớ ngẩn như vậy cho dù có xảy ra đi chăng nữa, thì tôi cũng chưa bao giờ nghe thấy chuyện có người bị thương vì lọt chân xuống bàn cầu cả. Những giả thuyết đó được dạy cho chúng ta như những “sự thật khoa học” rồi chúng ta chấp nhận hoàn toàn không hồ nghi. Khi dần dần từng chút biết được thực thể của thế gian này, tôi thấy tội nghiệp cho mình đã sợ hãi cho đến bây giờ, và tự dưng muốn cười lên sằng sặc.
Dù nói vậy nhưng cái gọi là “nhân gian” vẫn làm tôi sợ hãi. Tôi chỉ tiếp xúc được với những người khách trong quán sau khi đã uống một ly rượu mạnh mà thôi. Ham muốn xem những cái đáng sợ đã khiến tôi mỗi tối xuống quầy bar, uống rượu với khách say sưa thậm chí còn cao đàm khoát luận nửa mùa về nghệ thuật. Điều này cũng giống như con trẻ sợ con vật gì thì ngược lại càng nắm nó chặt hơn(4).
Họa sĩ truyện tranh. Đúng, nhưng tôi chỉ là một họa sĩ truyện tranh vô danh không có cả niềm vui bất tận lẫn nỗi sầu khổ lớn lao. Mặc dù trong tâm tư tôi luôn mong muốn có một niềm vui lớn lao phóng khoáng để rồi chịu đựng nỗi buồn dai dẳng về sau này cũng được nhưng cuối cùng hiện tại niềm vui của tôi chỉ là nói chuyện tào lao với khách và uống rượu của họ mà thôi.
Từ khi đến Kyobashi, tôi tiếp tục cuộc sống vô vị như vậy gần một năm. Truyện tranh tôi vẽ không những đăng trên những tạp chí dành cho trẻ con mà còn đăng tải trên những tạp chí khiêu dâm dành cho người lớn bán đầy nơi nhà ga. Lấy một bút hiệu nặc danh ngỗ nghịch là Joshi Ikita (Thượng Ty Kỷ thái)(5), tôi vẽ hình đàn bà khỏa thân tục tĩu và chèn vào đó những bài thơ tứ tuyệt Rubaiyat:
Chính nghĩa, lý tưởng cuộc đời này
Nơi chiến trường máu chảy nát thây
Và đầu mũi dao kẻ thích khách
Chính nghĩa đâu nào cho tôi hay
Rượu tràn tim ta đầy niềm vui
Sáng nay thức dậy bỗng bùi ngùi
Hoang lương chợt đến sau đêm cũ
Tỉnh rượu, mọi chuyện đều đổi thay
Cảm giác tuyệt vời ta bước đi
Tìm trong nhân tính nỗi chung gì
Nhưng sao bên cạnh bao kẻ khác
Ta thấy đời ta đứng bên lề
Có lẽ ta đọc sai Thánh Kinh
Hay không trí huệ với thường tình
Nếu buông bỏ rượu với nữ sắc
Thử hỏi làm sao ta tái sinh?
Tuy vậy, thời gian này cũng có một cô gái khuyên tôi bỏ rượu.
“Mỗi ngày say xỉn từ trưa đến tối là không được đâu anh”.
Đó là một cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi bán thuốc lá trong một cửa tiệm nhỏ đối diện quán bar. Nàng tên Yoshiko, nước da trắng trẻo và có cái răng khểnh dễ thương. Mỗi lần tôi ghé mua thuốc lá nàng đều cười và khuyên nhủ như vậy.
“Tại sao không được? Có gì xấu xa đâu. Rượu trần ai gội niềm cay đắng, làm tiêu tan u sầu đấy. Người Ba Tư ấy, từ xưa nhé, đã biết thứ bồ đào mỹ tửu làm cho con người say sưa, mang lại hy vọng cho những con tim khổ đau trần thế. Bé có hiểu không?”
“Em không hiểu”.
“Con bé quê mùa này. Anh hôn em một cái nhé”.
“Hôn đi”.
Nàng thè lưỡi ra ngay không do dự hãi sợ gì.
“Con bé quê mùa ngu ngốc này. Quan niệm trinh tiết để đâu thế hở?”
Tuy nhiên, từ cách thể hiện của nàng tôi biết nàng còn là xử nữ, chưa trao thân mình cho ai cả.
Năm mới sang, vào một đêm lạnh giá, tôi say rượu bước ra ngoài mua thuốc lá, vấp ngã xuống cái cống trước cửa tiệm rồi gọi “Yoshichan, ra giúp anh với” thế là Yoshichan chạy ra nâng tôi dậy, đưa tôi vào nhà. Vừa băng bó cánh tay phải cho tôi, nàng vừa rầu rầu nói “uống quá nhiều mà”.
Mặc dù tôi thấy cái chết cũng bình thường thôi nhưng mà bị thương rồi máu chảy đầm đìa, trở thành kẻ tàn phế thì thực tình tôi không mong muốn chút nào nên vừa để Yoshiko băng bó vết thương nơi tay tôi vừa nghĩ thôi mình nên bỏ rượu là vừa.
“Anh sẽ bỏ rượu. Từ ngày mai anh không đụng đến một giọt”.
“Thật không đấy”.
“Chắc chắn anh sẽ bỏ rượu. Nhưng nếu vậy thì Yoshiko phải làm vợ anh nhé?”
Tất nhiên chuyện làm vợ chỉ là lời nói đùa thôi.
“Nhiên rồi”.
Nhiên là nói tắt của từ “đương nhiên”. Mấy cậu trai, cô gái trẻ “hiện đại” thời bấy giờ hay dùng những từ tắt như vậy.
“Được rồi. Nghéo tay nào. Chắc chắn anh sẽ bỏ rượu đấy”.
Và rồi ngày hôm sau, tôi lại bắt đầu uống say từ trưa.
Đến tối, tôi lảo đảo bước ra ngoài đến trước cửa tiệm của của Yoshiko.
“Yoshichan à, xin lỗi em, anh lỡ uống rồi”.
“Ghét quá, anh cứ giả vờ như anh đã uống say không bằng”.
Tôi giật mình, cảm thấy tỉnh rượu hẳn.
“Không, thật đấy. Anh đã uống rượu thật đấy. Không phải là anh giả vờ say xỉn đâu”.
“Đừng đùa với em nữa. Anh thật tệ”.
Nàng không mảy may nghi ngờ một chút nào.
“Em ra xem sẽ thấy ngay thôi. Hôm nay anh uống say từ trưa đấy. Tha lỗi cho anh nghen”.
“Anh diễn kịch hay quá nhỉ”.
“Không phải diễn kịch đâu. Ôi cô gái quê mùa thơ dại. Anh hôn em nhé”.
“Hôn đi”.
“Không anh là kẻ chẳng có tư cách gì. Em đừng lấy anh mà làm chi nữa. Nhìn mặt anh xem này. Đỏ bừng đấy. Là anh đã uống rượu, hiểu chưa?”
“Đó là tại mặt trời chiếu vào mới thế chứ. Đừng lừa em nữa. Chẳng phải hôm qua anh đã hứa rồi sao. Chắc chắn không uống nữa cơ mà. Chúng mình cũng đã nghéo tay rồi mà. Anh nói đã uống rượu là nói dối, nói dối, nói dối”.
Nhìn gương mặt trắng trẻo của Yoshiko đang mỉm cười trong cửa tiệm tối tăm, tôi thấy thật tôn quý sự trinh trắng chưa biết gì đến dòng đời vẫn đục của nàng. Cho đến bây giờ, tôi chưa lần nào ngủ với một xử nữ trẻ trung hơn tuổi mình cả. Hãy cưới nàng đi thôi, rồi về sau chịu nỗi sầu khổ lớn lao nào cũng được. Niềm vui hoan lạc phóng khoáng chỉ cần trải nghiệm một lần trong đời cũng đủ. Cái vẻ đẹp trinh trắng kia tôi nghĩ chỉ là cảm giác huyễn hoặc của những thi nhân ngu ngốc, nào ngờ lại hiện diện nơi đây, giữa trần gian này. Cưới nhau xong rồi, vào mùa xuân hai đứa đạp xe đi đến thác nước ngắm hoa lá rơi với dòng nước chảy. Có nghĩa là tôi đã quyết ý “một lần phân tranh thắng bại”, không do dự gì cướp lấy đóa hoa kia.
Vì thế hai chúng tôi kết hôn, và niềm vui tuy không lớn lao nhưng nỗi rầu buồn sau đó thì vượt quá mức tưởng tượng của tôi, đến mức có nói là “thê thảm” vẫn còn chưa đủ. Đối với tôi, cái thế gian này thật đáng sợ đến mức không thể nào tưởng nổi. Nó nhất quyết không phải là nơi mà mọi chuyện có thể quyết định dễ dàng chỉ bằng “một lần phân tranh thắng bại” như thế.
Phần II
Horiki và tôi.
Nếu như cái gọi là “bằng hữu” trong thế giới này là vừa giao thiệp vừa khinh miệt lẫn nhau, cả hai cùng tự hạ thấp nhân phẩm của mình, thì mối quan hệ của tôi với Horiki rõ rằng là “bằng hữu”.
Tôi phải nương nhờ vào lòng hào hiệp của madam quán bar ở khu Kyobashi đó, (gọi người nữ có tấm lòng nghĩa hiệp có vẻ thật lạ lùng nhưng từ kinh nghiệm của tôi thì ít nhất đối với nam nữ chốn kinh đô này thì người nữ có vẻ giàu lòng nghĩa hiệp hơn đám nam nhi. Cánh đàn ông thì chỉ run run rẩy rẩy, lo giữ gìn thể diện và keo kiệt nữa) mới có thể lấy được cô bé Yoshiko nơi tiệm thuốc lá về làm vợ, mới thuê được một căn hộ nhỏ tầng trệt ở gần bờ sông Sumida, khu Tsukiji. Tôi bỏ rượu, chuyên tâm sáng tác truyện tranh như thể đó là nghiệp định sẵn cho mình vậy. Sau bữa ăn tối, chúng tôi đi xem phim, khi trở về ghé quán cà phê hay ghé tiệm mua một bình hoa nhỏ. Hơn nữa, nghe những lời thỏ thẻ của cô vợ nhỏ xinh đang hết mực tin tưởng vào mình, vui sướng nhìn cách cư xử của nàng tôi dần dần thấy mình có vẻ ra dáng con người, tự hỏi có lẽ mình không cần phải chết bi thảm nữa chăng? Khi đang mơ mơ màng màng với những ý nghĩ ngọt ngào êm đềm len lỏi sưởi ấm tâm tư như vậy, chợt đâu gã Horiki lại xuất hiện
trước mặt tôi.
“Này, tay sát gái. Sao cái mặt cậu đăm chiêu cảnh giác như vậy? Hôm nay tớ mang thông điệp từ cô nàng ở khu Koenji cho cậu đây”.
Horiki chợt hạ giọng, hất cằm về phía Yoshiko đang pha trà trong bếp và hỏi “có sao không đấy?”
“Không sao đâu. cậu cứ nói”.
Tôi bình tĩnh đáp lời.
Nói chung, Yoshiko có thể gọi là một thiên tài trong việc tin tưởng con người. Không những nàng không hay biết về mối quan hệ của tôi với madam ở quán bar khu Kyobashi mà ngay cả khi tôi cho biết nàng về vụ tự sát vì tình của tôi ở biển Kamakura thì nàng cũng chẳng nghi ngờ gì về mối quan hệ của tôi với Tsuneko cả. Không phải vì tôi nói dối tuyệt luân đâu mà bởi dù tôi đã nói trắng ra mọi chuyện rồi mà Yoshiko cứ cho tôi đang nói đùa với nàng mà thôi.
“Cậu vẫn kiêu ngạo như thế nhỉ. Nhưng không có gì quan trọng đâu. Cô nàng khu Kojien nhờ tớ nhắn với cậu là nếu được thì thỉnh thoảng ghé chỗ nàng chơi thôi”.
Chuyện tưởng đã quên đi rồi thì con quái điểu lại vỗ cánh bay đến, dùng mỏ xé toạc vết thương ký ức. Những ký ức tội lỗi và nhục nhã của quá khứ ngay lập tức lại hiện về rõ ràng ngay trước mặt, khiến tôi sợ đến nỗi muốn hét lên thất thanh và ngồi cũng không vững nữa.
“Làm vài ly chứ?”, tôi mời.
“Được thôi”, Horiki đáp.
Tôi và Horiki. Cả hai giống nhau về hình thức. Tôi có cảm giác gã là một con người y chang như tôi vậy. Tất nhiên là chỉ khi hai chúng tôi đi lang thang uống thứ rượu rẻ tiền khắp thành phố. Khi đối mặt nhau, chúng tôi ngay lập tức biến thành hai con chó cùng kích cỡ, cùng màu lông chạy nháo nhào trên con đường phủ đầy tuyết trắng.
Từ ngày đó trở đi, chúng tôi nối lại mối giao hữu. Có khi cả hai ghé quán bar nhỏ khu Kyobashi, có khi hai con chó hoang say túy lúy ghé thăm căn hộ của Shizuko ở khu Koenji và ngủ lại đó đến sáng mới mò về.
Tôi sẽ chẳng bao giờ quên. Một đêm mùa hè oi bức. Horiki mặc bộ yukata nhàu nát ghé căn hộ của tôi ở Tsukiji vào lúc nhá nhem tối. Gã nói rằng vì có chút việc nên đã mang bộ quần áo mùa hạ đi cầm đồ nhưng sợ má mình biết được thì phiền nên muốn mượn tôi ít tiền để đi chuộc lại. Nhưng ngờ đâu tôi cũng không có tiền nên đã bảo với Yoshiko mang mấy bộ đồ của nàng đi cầm được ít tiền cho Horiki mượn. Còn dư chút đỉnh, tôi bảo Yoshiko mua một chút rượu mạnh, rồi chúng tôi lên sân thượng chung cư, đón những ngọn gió hôi hám từ sông Sumida hiu hiu thổi đến, vừa làm một bữa tiệc hóng mát thật là bẩn thỉu.
Chúng tôi lúc đó bắt đầu chơi trò danh từ hài kịch và danh từ bi kịch. Đây là một trò chơi do tôi phát minh ra, dựa trên việc phân chia danh từ làm ba loại là giống đực, giống cái và trung tính thì đồng thời có thêm sự phân biệt danh từ hài kịch và bi kịch nữa. Ví dụ như “thuyền hơi nước” và “xe hơi nước” đều là danh từ bi kịch, còn “tàu điện” và “xe buýt” là danh từ hài kịch. Những người không biết điều đó thì không đáng bàn về nghệ thuật, những kịch tác gia chỉ cần dùng một từ bi kịch trong một vở hài kịch thì cũng xem như đã rớt đài thất bại, và ngược lại đối với bi kịch cũng vậy.
“Đã sẵn sàng chưa? Thuốc lá thì sao?”, tôi hỏi.
“Bi” (viết tắt của bi kịch).
Horiki trả lời dứt khoát.
“Thuốc thì sao?”
“Thuốc bột hay thuốc viên?”
“Thuốc tiêm”.
“Bi”.
“Vậy à? Nhưng trong thuốc tiêm cũng có kích thích tố đấy”.
“Không, chắc chắn là bi. Chẳng có gì bi kịch hơn mũi kim tiêm đúng không?”
“Ừ, thì mình thua. Nhưng mà thật ngạc nhiên là cả thuốc và bác sĩ đều là hài cả đấy. Cái chết thì sao?”
“Hài. Cả mục sư hay hòa thượng cũng là hài cả thôi”.
“Quá tuyệt. Thế còn cuộc sống là bi kịch chứ?”
“Không đâu, nó cũng là hài luôn”.
“Nếu mà nói thế thì tất thảy mọi thứ đều thành hài kịch hết. Tớ hỏi thêm một câu. Họa sĩ truyện tranh thì sao? Danh từ này cũng có thể gọi là hài kịch được chứ?”
“Bi, bi. Một danh từ đại bi kịch”.
“Đại bi kịch là cậu mới phải chứ”.
Cái trò hề vớ vẩn dở tệ như thế này tuy chán ngắt nhưng chúng tôi vô cùng đắc ý vì đây là một trò tiêu khiển thông minh chưa từng xuất hiện ở bất cứ salon văn nghệ nào trên thế giới.
Lúc đó, tôi cũng phát minh ra một trò chơi khác nữa. Đó là trò chơi tìm từ phản nghĩa. Ví dụ trái nghĩa với “đen” là “trắng”. Nhưng trái nghĩa với “trắng” lại là “đỏ”. Và trái nghĩa với “đỏ” là “đen”.
“Trái nghĩa của “hoa” là gì?”
Horiki cau mày suy nghĩ.
“À, có một nhà hàng tên là “Hoa nguyệt”. Vậy là “trăng” đúng không?”
“Ây dà, đó đâu phải là từ trái nghĩa. Ngược lại còn là từ đồng nghĩa là khác. Cũng như “sao” và hoa violet vậy, đều là đồng nghĩa. Có phải là phản nghĩa đâu”.
“Hiểu rồi. Vậy chắc là “ong” đấy”.
“Ong à?”
“Cũng như kiến trên hoa mẫu đơn ấy”.
“Đấy là chủ đề của hội họa chứ có phải phản nghĩa đâu”.
“Vậy thì mây nhỉ?”
“Mây à? Mây thì phải đi với trăng chứ?”
“À, đúng nhỉ. Vậy hoa và gió. À, phản nghĩa của hoa là gió”.
“Tệ quá. Chẳng phải đó là một khúc diễn tấu đàn samisen hay sao? Lộ ra trình độ của cậu rồi nhé”.
“Vậy thì là đàn tỳ bà”.
“Không được. Cậu phải tìm ra cái gì ít giống bông hoa nhất thì mới là phản nghĩa của hoa được chứ?”
“Vậy thì là…Đợi đã. Phải chăng là đàn bà?”
“Cuối cùng thì cũng ra. Vậy đồng nghĩa với đàn bà là gì?”
“Cơ quan nội tạng”.
“Cậu chẳng hiểu gì về thơ ca cả nhỉ. Vậy trái nghĩa của nội tạng?”
“Sữa”.
“Khá là tuyệt đấy. Thêm một câu nữa. Hổ thẹn. Trái nghĩa là gì?”
“Không biết hổ thẹn. Họa sĩ truyện tranh được yêu thích Joshi Ikita”.
“Còn Horiki Masao thì sao?”
Từ lúc đó trở đi, hai đứa không còn cười được nữa. Cảm giác u uất như một mảnh thủy tinh của ly rượu mạnh kia xông thẳng lên đầu nhức buốt.
“Đừng nói giỡn. Dù sao tớ vẫn còn chưa chịu nỗi nhục bị giam giữ như cậu đâu nhé”.
Tôi choáng váng. Trong thâm tâm, gã Horiki kia chưa bao giờ coi tôi là một con người bình thường cả. Hắn xem tôi chỉ như một con ma ngu ngốc vô liêm sỉ còn sống sót sau đợt tự sát, một “tử thi còn sống”. Và cái giao tình “bằng hữu” cho đến bây giờ chỉ là để lợi dụng tôi đến hết mức có thể nhằm thỏa mãn cái thú vui của hắn mà thôi. Khi nhận ra thế tất nhiên cảm giác chẳng dễ chịu gì nhưng rồi sau khi nghĩ lại thấy Horiki nhìn đúng bản chất của mình từ xưa tôi đã là một đứa trẻ không có tư cách con người nên sự khinh miệt của Horiki cũng là có lý.
“Còn tội lỗi thì sao? Trái nghĩa của tội lỗi? Cái này khó đấy nhé”.
Tôi làm vẻ mặt như chẳng có chuyện gì xảy ra rồi hỏi tiếp.
“Pháp luật chứ gì?”.
Nghe Horiki trả lời rất thản nhiên nên tôi liếc nhìn gương mặt gã. Trong ánh đèn neon đỏ quạch từ tòa nhà bên cạnh hắt lên, mặt Horiki trông uy nghiêm như một con quỷ hình sự vậy. Tôi hoàn toàn bất ngờ.
“Tội ác là một phạm trù hoàn toàn khác chứ”.
Trái nghĩa của “tội lỗi” mà lại là “pháp luật” à. Tuy nhiên con người thế gian có lẽ đều suy nghĩ đơn giản như thế và sống có vẻ nghiêm túc như vậy. Chắc họ đều cho rằng tội ác sinh sôi nảy nở ở những nơi nào không có cảnh sát hình sự.
“Vậy là gì chứ? Thần linh à? Tớ thấy người cậu có phảng phất mùi của một con chiên ngoan đạo đấy”.
“Đừng có đánh trống lảng đi như vậy. Hai đứa mình thử suy nghĩ thêm một chút nữa xem sao. Đây cũng là một đề tài thú vị đấy chứ? Tớ có cảm giác là chỉ cần căn cứ trên một câu trả lời này thôi thì ta có thể hiểu hết về con người đó vậy”.
“Lẽ nào lại như vậy chứ? Trái nghĩa của tội lỗi là cái thiện à? Người dân lương thiện sao, nghĩa là con người giống như tớ vậy”.
“Cậu đùa à? Tuy nhiện thiện là trái nghĩa của ác chứ không phải trái nghĩa của tội lỗi”.
“Cái ác và tội lỗi thì khác nhau à?”
“Mình nghĩ là khác đấy. Khái niệm về thiện ác là do con người tạo ra mà. Đó là những từ ngữ đạo đức mà con người tùy tiện làm ra”.
“Cậu nhiều chuyện quá. Vậy chắc hẳn là thần linh rồi. Đúng là thần, thần linh đấy. Cứ dựa vào thần linh là không sai trật vào đâu được. Mà tớ đói bụng rồi”.
“Bây giờ hình như Yoshiko đang nấu đậu tằm ở dưới nhà ấy”.
“Cám ơn nhé. Tớ thích đậu lắm”.
Gã đan hai tay sau đầu rồi nằm ngửa ra trên sàn.
“Cậu quả thật không có hứng thú gì với vấn đề tội lỗi nhỉ”.
“Đúng rồi vì tớ đâu phải là một phạm nhân như cậu. Tuy tớ có chơi bời phóng đãng thiệt nhưng đâu có làm cho con người ta phải tự sát, đâu có cuỗm tiền của gái như cậu”.
Tôi nghe trong tâm khảm mình thầm thì những tiếng phản kháng “mình không làm cho con người ta tự sát”, “mình không có lấy tiền của gái” nhưng rồi ngay lập tức cái thói tật luôn nghĩ mình là xấu xa lại trỗi dậy và tôi buông xuôi.
Tôi dù sao cũng không thể nào tranh luận mặt đối mặt với người ta được. Đôi khi nhờ vào cơn say u uất, hơi men nhập vào khiến tôi cố gắng mạo hiểm thêm một chút nhưng cuối cùng chỉ thốt ra được những lời độc thoại thì thầm.
“Chỉ bị xộ khám thôi thì sao gọi là có tội được. Trái nghĩa của tội lỗi là gì nhỉ? Mình có cảm giác chỉ cần biết được từ trái nghĩa này thôi là có thể nắm được bản chất thực thể của tội lỗi…Thần linh… Cứu vớt… Tình yêu… Ánh sáng… Nhưng trái nghĩa của Thần thánh là quỷ Satan, trái nghĩa của sự cứu vớt là đau khổ, trái nghĩa của yêu đương là ghét bỏ, trái nghĩa của ánh sáng là tối tăm, trái nghĩa của thiện lương là ác đức. Tội lỗi và sự cầu nguyện, tội lỗi và niềm hối hận, tội lỗi và sự xưng tội, không tất cả đều là đồng nghĩa. Vậy trái nghĩa của tội lỗi là gì mới được chứ?”
“Trái nghĩa của tsumi(6)(tội lỗi) là mitsu. Nghe ngọt ngào như mật (mitsu) đấy nhỉ. Tớ đói quá rồi. Mang cho tớ cái gì ăn đi”.
“Tại sao cậu không tự xuống nhà mà lấy có phải hơn không?”
Tôi thốt ra bằng một giọng giận dữ gần như lần đầu tiên trong đời.
“Được rồi, vậy tớ xuống dưới, cùng với Yoshiko phạm tội đây. Có thực mới vực được đạo chứ. Trái nghĩa của tội lỗi là đậu mật à, không đậu tằm chứ nhỉ”.
Có lẽ say quá nên gã nói líu nhíu.
“Đừng đùa nữa. Cậu đi cho khuất mắt tớ”.
“Tội lỗi và bụng đói. Bụng đói và đậu tằm. Không cái này đồng nghĩa nhỉ”.
Horiki vừa nói lảm nhảm vừa đứng dậy.
Tội ác và trừng phạt. Dostoievski. Những từ đó thoáng chốc lướt nhanh qua tâm trí tôi. Có lẽ ông Dost không cho rằng tội ác và trừng phạt là đồng nghĩa mà đặt chúng cạnh nhau như vậy để làm nổi bật sự trái nghĩa chăng? Hai từ này không thể nào tương thông nhau được, thật khác biệt như nước và dầu, như băng và than vậy. Cánh bèo của Dost trên mặt ao tù, đáy sâu gỗ mục…A, có lẽ mình hiểu rồi… Không hình như không phải vậy…Trong lúc đầu óc tôi quay cuồng như đèn kéo quân biết bao nhiêu ý nghĩa thì chợt nghe tiếng gọi.
“Này xuống đây, đậu tằm này. Xuống đây”.
Giọng nói và sắc diện của Horiki vô cùng khác lạ. Horiki vừa mới quay xuống nhà một tí đã hớt hải chạy lên.
“Gì vậy?”.
Với vẻ hồi hộp khó tả, hai đứa tôi từ sân thượng xuống tầng hai. Đến giữa cầu thang tầng hai để xuống tầng trệt phòng tôi thì Horiki dừng lại và thì thầm:
“Này, nhìn đi”.
Cái cửa sổ nhỏ trên phòng tôi đang mở. Từ đó nhìn vào thấy rõ bên trong. Ánh đèn chiếu sáng bóng hai con vật.
Tôi choáng váng mặt mũi, đầu óc tối tăm, đứng như trời trồng giữa cầu thang, quên cả việc nhào vào giúp đỡ Yoshiko. Câu nói “đây cũng là bản chất con người, đây cũng là chất con người, không có gì phải kinh ngạc” thầm thì cùng với nhịp thở đập tưng tưng trong lồng ngực thắt.
Horiki cất giọng ho khùng khục. Tôi tháo chạy lên sân thượng như để trốn tránh. Nằm dài trên sân thượng, đón không khí đêm mùa hè ẩm ướt hơi mưa, tôi không thấy giận dữ, không thấy hiềm ác, cũng không buồn đau mà chỉ cảm thấy một nỗi sợ hãi ghê gớm. Đó không phải là nỗi sợ bóng ma nào từ mộ địa mà đó là một cảm giác sợ hãi nguyên sơ thời cổ đại như thể ta gặp một thần thể bạch y dưới tán tùng già trong ngôi đền thần Jinja. Từ đêm đó, tóc tôi bắt đầu ngả màu bạc, tôi dần mất hết sự tự tin, nghi ngờ toàn thể con người, những hy vọng vào cuộc đời, cũng như niềm vui và sự thông cảm tiêu tan hết cả. Thực sự mà nói trong cuộc đời tôi, đây là một sự kiện mang tầm quyết định. Tôi đã bị đâm một nhát chí mạng ngay giữa ấn đường, và vết thương này từ đó về sau, mỗi lần gặp tha nhân đều không ngừng đau thương rỏ máu.
“Tớ thông cảm với cậu. Nhưng cậu cũng nên nghĩ lại đi. Tớ không đến đây nữa đâu. Chỗ này giờ như địa ngục vậy. Nhưng cậu nên tha thứ cho Yoshiko. Cậu cũng có ra gì đâu. Thôi chào nhé”.
Horiki cũng biết là không nên nấn ná lâu trong tình thế khó xử này.
Tôi ngồi dậy, lấy rượu uống một mình. Rồi khóc toáng lên, khóc thổn thức không ngừng.
Không biết từ lúc nào, Yoshiko mang đĩa đậu đầy vun, thẫn thờ đứng sau lưng tôi.
“Hắn nói là hắn không làm gì em đâu…”
“Đủ rồi, đừng nói nữa. Em đâu biết nghi ngờ người là gì. Ngồi xuống và ăn đậu đi”.
Chúng tôi ngồi kế bên nhau và cùng ăn đậu. Ô hô, tin người phải chăng là tội lỗi? Cái kẻ đày đọa nàng chỉ là một gã thương nhân vô học, người nhỏ thó tầm ba mươi tuổi, đặt hàng tôi vẽ truyện tranh, trả tiền thì chi li từng cắc bạc.
Gã thương nhân kia về sau không đến nữa nhưng không hiểu sao tôi lại không căm ghét gã cho bằng căm tức và giận dữ Horiki tại sao không cất tiếng ho khùng khục ngay khi đầu tiên nhìn thấy cảnh ấy mà cứ thế chạy lên sân thượng thông báo cho tôi hay? Sự căm tức này khiến tôi trằn trọc không ngủ được, nhiều đêm bật ngồi dậy mà rên rỉ.
Không phải là chuyện tha thứ hay không. Yoshiko là một thiên tài trong việc tin tưởng con người. Nàng không hề biết nghi ngờ con người là gì. Chính vì thế mới bi thảm.
Hỏi thần linh xem sao? Phải chăng tin tưởng người là tội lỗi?
Không phải thân xác Yoshiko bị điếm nhục mà việc niềm tin của Yoshiko bị băng hoại đối với tôi là một nỗi khổ đau lớn đến mức mà từ đó về sau tôi cảm thấy mình hầu như không thể nào sống nổi nữa. Đối với niềm tin con người nơi tôi đã bị vỡ nát đến mức lúc nào cũng phải rụt rè hãi sợ, lúc nào cũng phải đoán biết sắc diện con người mà cư xử cho phù hợp thì sự tin tưởng hết mực ngây thơ của Yoshiko tươi mới như một thác nước tinh khiết dưới tàn cây xanh. Vậy mà chỉ trong một đêm thác nước trong xanh kia biến thành màu đỏ quạch. Yoshiko từ sau đêm đó chú ý cảnh giác đến từng nụ cười từng nét mày chau của tôi.
Khi tôi cất tiếng gọi “này” thì nàng giật mình, lúng ta lúng túng không biết tránh ánh mắt nhìn của tôi bằng cách nào nữa. Dù tôi có chọc cười nàng đến đâu, dù cho diễn hề đến thế nào thì nàng cũng cứ rụt rè run rẩy mà sử dụng kính ngữ với tôi.
Vậy cuối cùng, niềm tin ngây thơ là tiền đề cho tội lỗi.
Tôi đã tìm đọc rất nhiều quyển sách về sự hiếp đáp vợ người nhưng chưa thấy ai bi thảm như Yoshiko cả. Về căn bản tình huống như Yoshiko không có trong truyện. Giả sử như giữa Yoshiko và người thương nhân kia có chút tình cảm gì như tình luyến ái thì tôi còn có thể hiểu được nhưng đằng này chỉ có một đêm mùa hạ, do Yoshiko quá tin người khiến từ đêm đó ấn đường tôi bị đâm sâu, giọng nói tôi khàn đi và tóc bạc bắt đầu nhuốm trên mái đầu xanh, còn Yoshiko một đời cứ phải rụt rè hãi sợ. Hầu hết trong những truyện tôi đọc đều nhấn mạnh đến điểm then chốt là người chồng có tha thứ cho “hành vi” của vợ mình hay không nhưng đối với tôi, đó không phải là vấn đề quan trọng và khổ đau đến thế. Tha thứ hay không tha thứ nằm ở chỗ quyền lợi nơi người chồng.Nếu cảm thấy không thể nào tha thứ được thì thay vì cãi nhau cứ viết một tờ giấy ly dị rồi cưới một người vợ mới là xong. Còn nếu không thể làm như vậy được thì cứ cắn răng mà chịu đựng cái “sự tha thứ” ấy. Đằng nào thì mọi sự cũng quy về cái “cảm xúc” của người chồng mà thôi. Có nghĩa là, đối với sự kiện như thế, người chồng sẽ bị sốc nặng. Nhưng cơn sốc ấy không phải như con sóng vỗ bờ liên miên bất tận mà nó nằm ở chỗ người chồng có thể xử lý được cơn giận dữ của mình để bảo vệ quyền lợi hay không? Nhưng trong trường hợp hai đứa tôi, tôi chẳng có quyền lợi gì, càng nghĩ tôi càng cảm thấy mình có lỗi. Đừng nói là giận dữ, ngay cả một lời mỉa mai cay đắng tôi cũng không thốt ra nổi. Còn người vợ sở dĩ bị làm nhục vì sở hữu một đức tính cao quý hiếm có. Hơn nữa cái đức tính đẹp đẽ gọi là niềm tin ngây thơ trong sáng ấy từ lâu đã làm người chồng ngưỡng mộ và tự hào.
Niềm tin ngây thơ đó phải chăng là tội lỗi?
Tôi bây giờ không hiểu sao nghi ngờ ngay chính cả cái mỹ đức duy nhất mình từng dựa vào ấy và niềm vui thú còn lại qua ngày chỉ có rượu bia. Mặt tôi trở nên vô cùng bần tiện. Tôi uống rượu từ sáng sớm, răng lung lay rồi rụng dần, truyện tranh hầu như chỉ còn vẽ được những hình bỉ ổi. Không, nói một cách rõ ràng thì thời gian đó, tôi vẽ lại những bức tranh xuân tình(7)và đem bán lén lút. Tôi muốn có tiền mua rượu uống. Cứ mỗi lần nhìn thấy Yoshiko rụt rè hãi sợ tránh ánh mắt nhìn của tôi là tôi lại nghi ngờ người này hoàn toàn không biết đề phòng là gì cho nên chuyện với gã thương nhân kia chưa chắc chỉ có một lần thôi đâu, hay là đã từng với Horiki nữa, hay từng với người nào tôi không biết? Nhưng tôi không đủ dũng khí để hỏi trực tiếp nàng nên cứ dằn vặt trong nỗi đau khổ bất an đó và vùi quên trong men cay. Đôi khi tôi thử hỏi nàng một vài câu bóng gió, tâm tư tôi chợt vui chợt buồn theo câu trả lời của nàng nhưng bề ngoài lúc nào tôi cũng diễn hề và rồi còn vuốt ve mơn trớn Yoshiko với sự chăm lo đầy địa ngục trước khi chìm vào giấc ngủ đen.
Cuối năm đó, một đêm khuya, tôi say be bết trở về nhà và muốn uống nước đường. Vì Yoshiko đang ngủ nên tôi tự mình đi tìm. Khi mở nắp hũ đường ra thì không còn một viên đường nào cả, thay vào đó là một hộp giấy nhỏ dài màu đen. Tôi cầm lên xem thử và khi đọc chữ ghi trên nhãn thì tôi sửng sốt. Những chữ tiếng Nhật in trên nhãn đã bị móng tay cào đi quá nữa nhưng những chữ La tinh thì còn lại nguyên vẹn rõ ràng. DIAL.
DIAL. Do thời gian này tôi uống rượu quá nhiều nên không còn cần dùng đến thuốc ngủ nữa nhưng vì mất ngủ là căn bệnh trầm kha của tôi nên hầu như tôi biết hết tất cả các loại thuốc ngủ. Một hộp thuốc DIAL này uống vào là đủ chết. Tuy nắp hộp chưa được mở ra nhưng chắc chắn nó đã được cất giấu ở đây từ lúc nào đó, và còn được dùng móng tay cào mà đánh dấu nữa. Tội nghiệp quá. Cô bé kia không đọc được chữ La tinh nên nghĩ dùng móng tay cào đi một nửa nhãn ghi chữ Nhật là yên tâm rồi. (Em làm gì có tội).
Tôi len lén lấy nước đổ đầy cốc, cố gắng không phát ra tiếng động, xé hộp thuốc ra đổ hết vào miệng, uống nước vào cho trôi hết xuống họng rồi cứ thế tắt đèn mà đi ngủ.
Tôi nghe nói mình đã chết ba ngày ba đêm. Nghe nói bác sĩ xem đó là một tai nạn và trì hoãn việc báo cảnh sát cho tôi. Nghe nói câu đầu tiên mà tôi thì thầm sau khi tỉnh thức là “mình đã về nhà”. Cái gọi là nhà không biết là chỉ nơi nào nữa nhưng sau khi nói câu đó, nghe nói tôi đã khóc như mưa.
Cuối cùng khi mù sương đã tan, tôi mở mắt nhìn thấy ông cá bơn với vẻ mặt vô cùng khó coi đang ngồi bên cạnh.
“Lần trước cũng vào dịp cuối năm như thế này. Gã toàn chọn dịp cuối năm khi người ta công việc đầu tắt mặt tối. Thiệt tình bị mấy cái chuyện như vậy thì chắc mạng mình cũng đứt theo luôn ấy chứ”.
Người đang nói chuyện với ông cá bơn là madam ở quán bar khu Kyobashi.
“Madam”, tôi gọi.
“Sao, tỉnh lại rồi à?”
Madam tươi cười gần như ghé sát mặt tôi mà nói.
Tôi chảy nước mắt.
“Hãy cho tôi chia tay với Yoshiko”.
Tôi nói ra câu mà chính mình cũng không ngờ đến.
Madam đứng dậy, thở dài nhè nhẹ.
Rồi sau đó, tôi lỡ lời nói một câu thật khó mà diễn tả. Nó vừa có vẻ hoạt kê không ngờ vừa có vẻ ngu ngốc nữa.
“Tôi phải đến một nơi nào không có đàn bà nữa mới được”.
Ông cá bơn bật cười ha hả, madam cũng cười tủm tỉm còn tôi vừa chảy nước mắt vừa đỏ mặt mà cười khổ sở.
“Ừ, như vậy được đấy”.
Ông cá bơn vừa nói vừa tiếp tục phá ra cười.
“Đi đến chỗ nào không có đàn bà là tốt đấy. Cứ dính dáng đến đàn bà là hỏng bét cả. Ý thật hay đó”.
Một nơi không có đàn bà. Tuy nhiên, lời nói đùa ngu ngốc đó về sau lại đúng với tôi một cách u uất không ngờ.
Yoshiko dường như nghĩ rằng tôi đã thay nàng mà uống hết số độc dược đó nên càng rụt rè sợ hãi với tôi hơn. Dù tôi nói gì đi nữa nàng cũng chẳng bao giờ cười, miệng nàng có vẻ như khó mà mở lời lắm vậy. Bởi thế nên tôi ở nhà mà cảm thấy u uất nên lại ra ngoài và uống rượu rẻ tiền. Tuy nhiên sau vụ việc Dial, tôi trở nên hốc hác, gầy trơ xương ra, chân tay rời rã, trở nên lười biếng vẽ truyện tranh. Số tiền mà ông cá bơn mang đến cho tôi lúc thăm bệnh (ông cá bơn nói là “đây là chút lòng thành của Shibuda đây” như thể là tiền của chính ông ta vậy nhưng thực ra đó là số tiền mà anh tôi từ quê gửi lên. Tôi bây giờ đã khác với lúc bỏ nhà ông cá bơn ra đi, đã mơ hồ nhìn ra cái trò diễn kịch của ông ta. Thế là tôi cũng tà ma, giả vờ như chẳng biết gì, hướng về ông cá bơn mà nói những lời cảm tạ. Tôi cũng không lấy làm lạ là tại sao cùng lúc mình có vẻ như hiểu và không hiểu những trò xảo thuật của những loại người như ông cá bơn), tôi quyết ý dùng số tiền ấy để một mình đến khu suối nước nóng phía nam Izu. Tuy nhiên, tôi không phải kiểu người đi du ngoạn nghỉ dưỡng thảnh thơi ở suối nước nóng. Cứ mỗi lần nhớ về Yoshiko, tôi lại thấy cô đơn vô hạn, không còn lòng dạ nào mà ngắm cảnh núi non từ căn phòng nơi lữ quán được. Tôi chẳng kịp thay áo dotera, cũng chẳng tắm suối nước nóng, cứ lang thang ở ngoài rồi vào một trà quán tối tăm mà nốc rượu mạnh như tắm trong men cay và kết quả là khi trở về Tokyo, sức khỏe tôi còn tệ hơn lúc trước nữa.
Vào một đêm tuyết rơi đầy Tokyo. Tôi say rượu, vừa đi vừa lẩm nhẩm hát đi hát lại câu “quê nhà xa lắc năm trăm dặm, ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay”, mũi giày ngập sâu trong tuyết, và đột nhiên tôi khạc nhổ. Đây là lần đầu tiên tôi khạc ra một búng máu. Nó như hình lá cờ một mặt trời đỏ trên nền tuyết trắng. Tôi ngồi xuống một lúc lâu, lấy hai tay vốc chỗ tuyết sạch đưa lên rửa mặt rồi khóc.
Con đường nhỏ này đưa ta đi về đâu?
Con đường nhỏ này đưa ta đi về đâu?
Tôi nghe từ xă xăm vọng về một lời ca buồn của một cô bé như một huyễn ảnh. Bất hạnh. Cuộc đời này thật lắm người bất hạnh, không, nếu nói toàn là người bất hạnh thì cũng không quá lời. Tuy nhiên, nỗi bất hạnh của những người kia, đều có thể đường đường mà kháng nghị với thế gian và “thế gian” cũng có thể hiểu và đồng tình với kháng nghị của những con người đó. Còn nỗi bất hạnh của tôi tất cả đều do tội ác của tôi mà ra, nên không thể kháng nghị với ai được cả. Hễ ngập ngừng nói ra một lời nào có vẻ kháng nghị là không những ông cá bơn mà hết thảy nhân gian đều hét lên sửng sốt ô hô ai tai mà rằng “sao hắn dám nói những lời như thế”. Có thể người ta xem tôi là “kẻ ích kỷ” hay do tôi yếu ớt trước những lời phản kháng đó chăng? Tuy không hiểu rõ lý do lắm nhưng hình như do tội lỗi chất chồng nên tự nhiên đi đâu tôi cũng gặp toàn là bất hạnh và chẳng có sách lược cụ thể nào để phòng ngừa cả.
Tôi đứng đó một lúc lâu rồi thầm nghĩ trước tiên mình phải uống tạm vài viên thuốc đã, và tôi bước vào một tiệm thuốc gần đó. Ngay giây phút vừa bước vào, cô chủ ngước mặt lên nhìn tôi trân trối như thể đắm mình trong ánh sáng lóe của máy chụp hình vậy. Rồi người đàn bà đứng như trời trồng. Tuy nhiên trong ánh mắt của người đàn bà kia, tôi thấy không phải kinh ngạc hay hãi sợ gì cả mà tràn ngập một vẻ gì thân ái như thể đã tìm ra một sự cứu vớt vậy. A a, chắc chắn đây cũng là một con người bất hạnh. Người bất hạnh thường rất mẫn cảm với những nỗi bất hạnh của người khác. Ngay lúc nghĩ như vậy, tôi mới nhận ra người đàn bà đứng yên dựa vào cây nạng gỗ tùng diệp. Tôi cố nén ý muốn chạy lại gần người đàn bà này và chỉ đứng yên nhìn bà ta mà chảy nước mắt. Và lúc đó, tôi cũng nhận ra trên gương mặt người đàn bà kia trên má lệ cũng chan hòa.
Không nói thêm lời nào nữa, tôi rời khỏi tiệm thuốc, lảo đảo quay trở về nhà, nhờ Yoshiko pha cho một ly nước muối mà uống, rồi nhắm mắt ngủ yên. Ngày hôm sau, tôi nói dối là mình có vẻ bị cảm, rồi ngủ nguyên một ngày trời. Đến tối, không hiểu sao, tôi cảm thấy vô cùng bất an với cái chứng ho ra máu đang giấu kín của mình nên thức dậy và tìm đến tiệm thuốc kia. Lần này thì tôi vừa tươi cười vừa kể thật tình cho người đàn bà kia nghe về tình trạng sức khỏe của mình dạo gần đây.
“Cậu phải bỏ rượu đi thôi”.
Chúng tôi như hai người thân thiết.
“Có lẽ tôi bị nghiện rượu hay sao ấy? Bây giờ vẫn muốn uống”.
“Không được đâu. Chồng tôi cũng bị lao phổi, rồi nói rằng uống rượu vào có thể giết chết vi trùng lao nên uống rượu tối ngày, cuối cùng tự mình giết chết mình thôi”.
“Tôi thấy bất an lắm. Tôi sợ hãi nữa, cảm thấy mình chẳng ra gì”.
“Để tôi lấy thuốc cho cậu. Nhưng ít nhất thì cậu phải bỏ rượu đi”.
Cô chủ tiệm (là góa phụ, có một đứa con trai đã vào học đại học Y khoa ở Chiba hay đâu đó nhưng chẳng bao lâu thì cũng mắc bệnh lao giống cha mình, thế là nghỉ học nhập viện, trong nhà chỉ còn có cha chồng bị liệt đang ngủ, còn bản thân cô thì vào lúc năm tuổi, do chứng liệt cơ trẻ em mà một bên chân hoàn toàn không thể cử động được) chống nạng đi khập khiễng đến cái kệ này, rồi mở ngăn kéo kia lấy ra rất nhiều thuốc đưa cho tôi.
Cái này là thuốc tạo máu.
Cái này là thuốc tiêm vitamin dạng lỏng. Còn đây là ống tiêm.
Đây là thuốc viên canxi. Đây là thuốc chống rối loạn tiêu hóa.
Cô chủ giọng đầy trìu mến giải thích cho tôi năm sáu loại thuốc đây là thuốc gì, thuốc gì…và đối với tôi, cái thứ ái tình của người đàn bà bất hạnh này thấm sâu vào tôi quá đỗi. Cuối cùng, bà nói cái thứ thuốc này dùng để khi nào cậu cảm thấy vô cùng thèm rượu, muốn uống bằng bất cứ giá nào thì hãy sử dụng rồi bà nhanh chóng lấy ra một hộp nhỏ được gói lại bằng giấy.
Đó là morphine.
Cô chủ nói không có thứ nào tai hại như rượu cả và tôi tin điều đó. Bởi lẽ tôi vừa cảm thấy cơn say bét nhè thật là dơ bẩn thì đồng thời tôi cũng cảm thấy niềm vui khi có thể thoát ra khỏi tay con quỷ satan mang tên là “rượu” ấy. Không do dự gì cả, tôi tiêm morphine vào cánh tay mình. Bao nhiêu nỗi bất an, phiền muộn cùng với sự nhút nhạt bị tẩy sạch hết, tôi trở nên một nhà hùng biện vô cùng hoạt bát. Khi được tiêm thuốc vào, tự nhiên cơ thể tôi quên hết mệt mỏi, tập trung vẽ truyện tranh miệt mài, và một cảm giác vi diệu trào dâng khiến tôi có thể vừa vẽ tranh mà vừa phá ra mà cười nữa.
Tôi dự định vẽ một ngày một cảnh truyện nhưng rồi tôi vẽ được hai rồi ba. Và đến khi vẽ được đến bốn cảnh truyện trong một ngày thì tôi đã cảm thấy mình không thể nào làm việc nếu thiếu thuốc được.
“Không được đâu. Nếu cậu trở nên nghiện thì tai hại lắm đấy”.
Cho đến khi nghe cô chủ tiệm thuốc nói như vậy, tôi mới hay rằng mình đã trở thành một con nghiện khá nặng rồi. (Tôi vô cùng nhạy cảm với những câu ám thị của người khác. Chẳng hạn khi nghe người ta nói “không được sử dụng số tiền này đâu nhé nhưng chắc là cậu…” thì bỗng nhiên tôi có một ảo tưởng kỳ lạ như muốn làm ngược lại cái kỳ vọng đó, như thể không sử dụng số tiền đó là xấu xa lắm vậy và tôi tiêu sạch số tiền đó ngay lập tức). Và nỗi sợ mình bị nghiện lại khiến tôi càng nài nỉ thuốc nhiều hơn nữa.
“Xin cô mà, chỉ một hộp nữa thôi. Cuối tháng này tôi chắc chắn sẽ trả hết tiền thuốc”.
“Tiền thuốc thì lúc nào trả cũng được nhưng nếu cảnh sát biết được thì phiền phức lắm”.
Aa, tôi cảm thấy xung quanh mình có kẻ nào đó khả nghi tăm tối ô trọc đang bám riết theo mình..
“Thì cô tìm cách nào lừa bọn họ đi, xin cô mà. Thôi để tôi hôn cô một cái nhé”.
Người đàn bà đỏ mặt.
Tôi càng lấn tới.
“Nếu không có thuốc thì tôi chẳng thể nào làm việc được chút gì hết. Đối với tôi, đó như một dạng năng lượng tinh thần vậy”.
“Nếu vậy sao cậu không tiêm kích thích tố?”
“Đừng có ngớ ngẩn nữa. Một là rượu, nếu như không có rượu thì chỉ có thứ thuốc đó tôi mới làm việc được thôi”.
“Rượu thì không thể rồi”.
“Vậy à? Từ sau khi sử dụng loại thuốc đó, tôi không đụng đến một giọt rượu nữa. Nhờ vậy mà cơ thể tôi đã khá hơn nhiều. Tôi không muốn vẽ những truyện tranh nhảm nhí ba xu nữa mà từ giờ trở đi, tôi bỏ rượu, chăm lo sức khỏe mình và sẽ vẽ những bức tranh vĩ đại cho cô xem. Đây là giai đoạn quan trọng lắm đấy. Vì vậy, tôi van cô mà. Cho tôi hôn cô một cái nhé”.
Người đàn bà bật cười.
“Phiền quá đi mất. Cậu có nghiện tôi cũng không biết đâu đấy”.
Người đàn bà lại lê cái nạng gỗ tùng diệp về phía tủ, lấy ra loại thuốc kia và nói.
“Không thể đưa cậu nguyên hộp được vì cậu sẽ sử dụng hết ngay. Nửa hộp thôi nhé”.
“Trời sao bủn xỉn vậy, nhưng thôi, cũng chẳng còn cách nào khác”.
Tôi trở về nhà, lập tức tiêm ngay một ống.
“Không đau sao anh?”
Yoshiko rụt rè hỏi tôi.
“Đau chứ. Nhưng vì thuốc này nâng cao hiệu suất làm việc nên dù ghét anh cũng phải tiêm thôi. Thấy anh dạo này khỏe đấy chứ nhỉ? Giờ thì làm việc thôi, làm việc, làm việc”, tôi hưng phấn nói.
Đêm khuya, tôi đến gõ cửa tiệm thuốc. Ngay khi cô chủ mặc bộ quần áo ngủ chống gậy lọc cọc bước ra, tôi liềm ôm ngay lấy mà hôn, giả vờ khóc lóc.
Không nói một lời, người đàn bà đưa cho tôi hộp thuốc.
Cái thứ thuốc này cũng như rượu mạnh vậy, ây dà, không nó còn hơn nữa, là một thứ dơ bẩn vô cùng. Đến chừng tôi nhận ra thì thấy mình đã trở thành một con nghiện hoàn toàn mất rồi. Thực sự tôi đã trở thành kẻ vô liêm sỉ đến cùng cực. Để lấy được thứ thuốc kia, tôi lại bắt đầu sao chép các bức tranh xuân tình mà đem bán lén lút, lại còn bắt đầu mối quan hệ vụng trộm bẩn thỉu với người đàn bà tàn tật ở tiệm thuốc theo đúng nghĩa đen.
Tôi muốn chết, càng ngày càng muốn chết. Không thể nào quay trở lại được nữa. Cho dù có làm gì và làm cách nào đi nữa thì cũng vô dụng mà thôi. Lại càng nhục nhã. Những giấc mơ hai đứa mình đạp xe đi ngắm thác nước dưới tàn cây xanh không còn mong cầu gì được nữa. Tội lỗi bẩn thỉu ngày càng chồng chất, nỗi khổ não càng tăng lên cường liệt, tôi muốn chết, tôi phải chết thôi, sống là căn nguyên của mọi tội lỗi mà… Những suy nghĩ như vậy chỉ càng làm gia tăng mức độ con thoi đi lại giữa nhà tôi với tiệm thuốc trong dáng vẻ loạn cuồng mà thôi.
Cho dù tôi làm việc bao nhiêu đi nữa, nhưng vì lượng thuốc sử dụng ngày một tăng lên nên số tiền nợ thuốc ngày một nhiều đến mức kinh ngạc. Cô chủ tiệm thuốc cứ nhìn thấy tôi lại chảy nước mắt. Còn tôi thì cũng nước mắt ngắn nước mắt dài.
Địa ngục.
Cái cách cuối cùng để có thể thoát khỏi cái địa ngục này (mà nếu như thất bại thì chỉ còn nước treo cổ tự sát) là quyết ý cá cược với thần linh, tôi viết một bức thư dài gửi cho cha tôi dưới quê kể lể hết sự tình của tôi bây giờ (tất nhiên những chuyện liên quan đến đàn bà thì không thể viết ra được).
Nhưng kết quả càng tệ hại. Tôi chờ dài cổ mà không thấy gì hết. Vì bất an và nôn nóng mà tôi lại càng sử dụng nhiều thuốc hơn.
Vào cái buổi chiều ngày mà tôi dự định đến tối sẽ tiêm một lần mười mũi rồi ra sông trầm mình thì ông cá bơn dẫn theo Horiki xuất hiện trước nhà tôi như thể đã đánh hơi ra cái việc đó bằng giác quan của loài ác quỷ.
“Này, cậu ho ra máu phải không?”
Horiki ngồi xuống trước mặt tôi, nói và cười hiền lành mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Tôi quá vui và cảm động trước nụ cười trìu mến đó nên đã quay mặt đi mà chảy nước mắt. Tôi hoàn toàn bị vỡ tan ra và chìm trong nụ cười trìu mến ấy.
Tôi được đưa lên xe hơi. Ông cá bơn cũng thủ thỉ khuyên nhủ tôi mà rằng đầu tiên cứ phải nhập viên cái đã, mọi chuyện sau đó đã có chúng tôi lo cho (giọng điệu dịu êm nghe ra của một người có lòng từ ái sâu đậm). Tôi thì như một kẻ chẳng còn ý thức hay phán đoán gì nữa, cứ khóc mê mải và ngơ ngơ ngác làm theo lời nói của hai người. Cùng với Yoshiko nữa, bốn người chúng tôi ngồi trên một chiếc xe rung lắc đi thật là lâu cuối cùng đến trước cổng một bệnh viện lớn nằm sâu trong rừng, xung quanh phủ đầy cây lá thâm u.
Tôi nghĩ thầm chắc đây là viện điều dưỡng.
Tôi được một bác sĩ trẻ khám xét thận trọng, kỹ càng và rồi vị bác sĩ mỉm cười nói như e thẹn.
“Cậu phải tĩnh dưỡng ở đây một thời gian”.
Khi ông cá bơn, Horiki và Yoshiko chuẩn bị ra về, để tôi lại bệnh viện một mình thì Yoshiko đưa cho tôi một túi đựng quần áo để thay rồi nàng lẳng lặng lấy từ trong chiếc dây lưng một cái ống tiêm với số thuốc còn lại đưa cho tôi. Chắc nàng thực tình tin rằng đó là thuốc năng lượng tinh thần chăng?
“Không, anh không còn cần đến nó nữa”.
Đây là một chuyện vô cùng hiếm thấy. Bị người ta đề nghị và từ chối lời đề nghị đó đối với tôi mà nói thì đây gần như là lần duy nhất trong đời. Sự bất hạnh của tôi là sự bất hạnh của một người không có khả năng từ chối. Vì tôi vô cùng sợ hãi việc làm đổ vỡ không thể nào hàn gắn được tâm tư tôi và tâm tư của người nữa khi từ chối lời đề nghị của người ta. Tuy nhiên lúc đó, tôi lại thản nhiên chối từ cái thứ morphine đã làm tôi điên dại đến vậy. Có lẽ bởi vì tôi bị lay động bởi thứ “vô tri gần như là thần linh” của Yoshiko chăng? Phải chăng khoảnh khắc đó tôi đã thấy mình hết nghiện ngập?
Tuy vậy, ngay lập tức sau đó, tôi được vị bác sĩ trẻ có nụ cười ngượng ngập ấy hướng dẫn, đưa tôi vào một căn phòng bệnh rồi khóa chặt cửa lại. Đây là bệnh viện tâm thần.
Thế là lời nói đùa ngu dại của tôi sau khi uống thuốc Dial là sẽ đến một nơi không có đàn bà nữa đã trở thành hiện thực một cách kỳ diệu. Trong bệnh viện này, toàn bệnh nhân nam, bác sĩ y tá cũng là nam, không có lấy bóng dáng một người đàn bà nào cả.
Bây giờ tôi không phải là một tội nhân nữa là là một cuồng nhân. Nhưng chắc chắn là tôi không điên loạn một tí nào. Trong một khoảnh khắc cũng không. Tuy nhiên tôi nghe nói người điên nào cũng nói như vậy cả. Có nghĩa là, người được vào trong bệnh viện này đều là tâm thần, còn những người không được đưa vào đây là người bình thường.
Hỡi thần linh, không có sức phản kháng phải chăng là tội lỗi?
Tôi bật khóc trước nụ cười hiền hậu không ngờ của Horiki, quên hết phán đoán và đề kháng, cứ thế mà ngồi lên xe rồi được đưa đến đây và trở thành người điên. Cho dù bây giờ có rời khỏi đây đi nữa thì trên trán tôi cũng đã in dấu là “cuồng nhân”, không, là “phế nhân” chứ.
Mất tư cách làm người.
Tôi hoàn toàn không còn là con người nữa.
Tôi đến đây vào đầu mùa hạ. Từ song sắt cửa sổ, tôi nhìn thấy hoa súng nở đỏ trong chiếc ao nhỏ nơi sân vườn bệnh viện. Ba mùa trăng trôi qua, khi hoa bướm (cosmos) bắt đầu nở trong sân vườn, thì bất chợt người anh cả từ quê lên, dẫn theo ông cá bơn đến đón tôi về và nói rằng cuối tháng trước, cha đã mất vì chứng loét ruột, bây giờ chúng ta không ai để ý đến chuyện quá khứ của em nữa và em cũng không cần lo lắng về việc sinh kế, em không cần làm gì nữa cũng được. Thay vào đó, cho dù còn nhiều lưu luyến nhưng em phải rời xa Tokyo ngay, bắt đầu cuộc sống dưỡng bệnh ở quê. Những chuyện em cần làm ở Tokyo thì chắc chắn ông Shibuda đây sẽ làm hộ cho nên không cần để ý. Anh tôi nói bằng một giọng điệu khẩn trương và nghiêm trang như thường thấy.
Tôi cảm thấy núi sông nơi quê nhà hiện ra trước mắt và khẽ gật đầu.
Quả thật là phế nhân.
Sau khi biết tin cha mình đã chết, tôi cảm thấy mình hụt hẫng. Cha không còn nữa. Cái sự tồn tại đáng sợ kia lúc nào cũng phập phồng trong ngực tôi đã mất và tôi cảm giác như cái bình chứa đau khổ của tôi đã trở nên trống rỗng. Thậm chí tôi đã nghĩ rằng cái bình khổ đau của tôi sở dĩ nặng như thế là bởi vì cha tôi chăng? Quả thật tôi thấy trống trải. Và rồi thậm chí tôi mất đi luôn khả năng đau khổ.
Anh cả tôi thực hiện đúng như những lời anh đã hứa. Từ thành phố nơi tôi đã sinh ra và lớn lên đi xe lửa xuôi về hướng nam chừng khoảng bốn năm giờ đồng hồ là đến một vùng suối nước nóng ấm áp nằm ven biển về phía đông bắc. Anh tôi đã mua một căn nhà tranh gồm năm phòng cũ kỹ, tường nứt nẻ, cột nhà mối mọt hầu như chưa được tu sửa nằm ngoài rìa làng cho tôi ở, kèm theo là một bà già xấu xí, tóc tai đỏ quạch chăm sóc cho tôi.
Từ đó đến giờ đã gần ba năm. Trong thời gian đó, tôi đã bị bà già tên là Tetsu đó lên cơn động dục mà hãm hiếp nhiều lần. Đôi khi tôi lại còn cãi nhau với bà ta như vợ chồng vậy. Cơn đau ngực của tôi lúc tăng lúc giảm, tôi lúc gầy đi lúc mập ra rồi lại ho ra máu. Hôm qua, tôi nhờ Tetsu đi mua giùm tôi vài viên thuốc ngủ. Bà ta đến tiệm thuốc của làng, mua về một hộp thuốc khác hình dạng với hộp thuốc tôi thường dùng. Tôi cũng chẳng để ý, trước khi ngủ uống một lúc mười viên mà chẳng chợp mắt được tí nào và thấy vô cùng quái lạ. Bỗng nhiên cảm thấy bụng nằng nặng, tôi đi vệ sinh và ỉa chảy cuồng liệt. Sau đó tôi còn đi thêm ba lần nữa. Đến khi nhìn kỹ lại hộp thuốc thì mới hay đó là thuốc nhuận tràng.
Tôi nằm ngửa người ra mà ngủ, trên bụng chườm túi nước ấm, vừa nghĩ bụng phải mắng cho bà Tetsu này một trận.
“Này đây không phải thuốc ngủ mà là thuốc nhuận tràng đấy có biết không”.
Vừa nói đến đó tôi đã phá ra cười hăng hắc. “Phế nhân” có lẽ đó dù sao cũng là một danh từ hài kịch. Muốn ngủ mà uống thuốc nhuận tràng, hơn nữa tên thuốc nhuận trường đó là Henomochin.
Tôi bây giờ không hạnh phúc cũng chẳng bất hạnh.
Tất cả rồi sẽ trôi qua.
Cho đến bây giờ, trong cái địa ngục A tỳ gọi là thế giới “con người” mà tôi đã sống, thì đây là một điều duy nhất mà tôi nghĩ có vẻ là chân lý.
Đó chỉ là “tất cả đều sẽ trôi qua”.
Tôi năm nay hai mươi bảy tuổi. Nhưng vì tóc bạc trắng đầu nên mọi người đều tưởng lầm là trên bốn mươi.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ