Bạch Dạ Hành - Chương XI

1

Quán cà phê nơi họ hẹn nhau nhìn ra con phố chính của khu Ginza. Giờ đang là năm giờ bốn mươi bảy phút chiều. Đàn ông và phụ nữ vừa tan làm cùng những người đi mua sắm rộn ràng qua lại. Người nào người nấy đều ít hoặc nhiều lộ vẻ hài lòng. Chắc là làn sóng ảnh hưởng do nền kinh tế bong bóng sụp đổ vẫn còn chưa lan đến tầng lớp dân thường, Imaeda có cảm giác như thế.

Một đôi nam nữ thanh niên bước đi trước mặt anh ta, cùng lắm chỉ chừng hai mươi tuổi, bộ vest mùa hè chàng trai mặc trên người chắc là của Armani. Vừa nãy Imaeda đã nhìn thấy họ xuống khỏi chiếc BMW đậu ở ven đường, chiếc xe ấy hẳn là mua từ thời kinh tế hãy còn phát triển thuận lợi. Thời đại của những thằng nhãi con miệng còn hơi sữa lái xe hơi cao cấp nhập khẩu tốt nhất hãy mau mau qua đi, anh ta thầm nhủ.

Lúc Imaeda đi qua quầy bán bánh ở tầng một lên cầu thang, đồng hồ đeo tay chỉ năm giờ năm mươi phút, đã muộn so với thời gian anh ta dự tính. Đến trước giờ hẹn từ mười lăm đến ba mươi phút là nguyên tắc của anh ta. Đồng thời cũng là một kỹ xảo hòng chiếm lợi thế về mặt tâm lý với đối tượng. Chỉ có điều, anh ta không cần làm vậy với đối tượng hẹn gặp ngày hôm nay.

Anh ta nhanh chóng đảo mắt quan sát một vòng trong quán cà phê, Shinozuka Kazunari vẫn chưa đến. Imaeda ngồi xuống gần cửa sổ, từ đây có thể nhìn xuống con phố chính bên dưới. Quán cà phê áng chừng đã kín chỗ một nửa.

Một nhân viên phục vụ gương mặt có nét Đông Nam Á bước tới. Khi giá nhân công tăng vọt vì bong bóng kinh tế bùng phát, những người kinh doanh sử dụng lao động nước ngoài cũng tăng lên. Có lẽ quán cà phê này cũng nhờ vậy mà tồn tại được, dẫu sao thì còn tốt hơn là thuê đám thanh niên Nhật Bản có thái độ làm việc kẻ cả. Anh ta vừa nghĩ về điều đó, vừa gọi cà phê.

Ngậm một điếu Malboro, châm lửa, Imaeda nhìn xuống con đường bên dưới. Chỉ trong có mấy phút, người dường như đông hẳn lên. Nghe nói, các ngành nghề đều cắt giảm chi phí tiếp khách, nhưng anh ta nghi ngờ đó phải chăng chỉ là một bộ phận nhỏ. Hoặc giả, đây là phút chói sáng cuôi cùng của ngọn nến trước khi vụt tắt?

Ánh mắt của anh ta khóa chặt vào một người đàn ông giữa đám người nhốn nháo qua lại. Người đó tay cầm một chiếc áo vest màu be, chân sải những bước dài. Thời gian là năm giờ năm mươi lăm phút. Lại một lần nữa, Imaeda xác nhận, nhân vật hạng nhất quả nhiên luôn đúng giờ.

Shinozuka Kazunari giơ một tay lên, rồi đi về phía Imaeda gần như cùng thời điểm nhân viên phục vụ có làn da ngăm đen bưng cà phê ra bàn. Shinozuka vừa ngồi xuống ghế, vừa gọi luôn cà phê đá. “Nóng thật đấy!” Anh ta lấy bàn tay làm quạt phe phẩy trên mặt.

“Đúng vậy.”

“Công việc của anh Imaeda cũng có ngày nghỉ kiểu như Lễ tảo mộ rằm tháng Bảy chứ?”

“Không có đâu.” Imaeda cười cười đáp. “Vì những lúc không có việc đã coi như nghỉ rồi. Với lại, lễ tảo mộ rằm tháng Bảy có thể nói là thời cơ tốt để tiến hành một kiểu điều tra nữa.”

“Ý anh là…”

“Ngoại tình.” Nói đoạn, Imaeda gật đầu, “Chẳng hạn, tôi sẽ đề xuất với người vợ yêu cầu điều tra ông chồng ngoại tình thế này: hãy nói với chồng bà, rằm tháng Bảy này dù thế nào cũng muốn về nhà mẹ đẻ một chuyến. Trong trường hợp ông chồng tỏ ra khó xử, thì hãy nói, nếu ông ấy không tiện đi, bà sẽ tự đi một mình.”

“Như thế, nếu ông chồng có tình nhân…”

“Làm sao lại bỏ qua cơ hội này được? Khi bà vợ ở nhà mẹ đẻ đứng ngồi không yên, tôi sẽ chụp lại cảnh ông chồng lái xe đưa tình nhân đi chơi qua đêm bên ngoài.”

“Thực tế đã xảy ra tình huống này chưa?”

“Rồi. Đã mấy lần rồi, tỷ lệ ông chồng mắc bẫy là một trăm phần trăm.”

Shinozuka im lặng mỉm cười. Dường như ít nhiều cũng xoa dịu được bầu không khí căng thẳng. Lúc anh ta bước vào quán cà phê, nét mặt có vẻ hơi cứng nhắc.

Nhân viên phục vụ mang cà phê tới. Shinozuka không dùng ống hút, cũng không cho đường hay sữa, mà đưa lên miệng uống luôn một ngụm lớn.

“Vậy anh biết được gì rồi?” Shinozuka nói ra những từ mà chắc hẳn đã nôn nóng muốn hỏi ngay từ đầu.

“Tôi đã tìm hiểu nhiều, nhưng có lẽ báo cáo không như anh mong đợi đâu.”

“Cứ cho tôi xem đã, được không?”

“Vâng.”

Imaeda lấy kẹp hồ sơ đựng trong cặp tài liệu ra, đặt trước mặt Shinozuka. Shinozuka liền mở ra xem ngay tức khắc.

Imaeda vừa nhấm nháp cà phê vừa quan sát phản ứng của người ủy thác. Anh ta tự tin rằng mình đã hoàn thành được mục tiêu điều tra về thân thế, lý lịch và tình hình hiện tại của Karasawa Yukiho.

Cuối cùng Shinozuka cũng ngẩng đầu lên.

“Tôi không biết mẹ đẻ của cô ta chết vì tự sát.”

“Làm ơn đọc kỹ lại, trong đó không hề nói là tự sát. Chỉ nói là có khả năng, nhưng chưa phát hiện ra chứng cứ khẳng định.”

“Nhưng với hoàn cảnh lúc bấy giờ của hai mẹ con họ, tự sát cũng không có gì là lạ.”

“Chính xác.”

“Thật không ngờ.” Shinozuka lập tức bổ sung thêm một câu, “Không, cũng không hẳn.”

“Ý anh là?”

“Tuy cô ta có vẻ như một thiên kim tiểu thư có xuất thân và giáo dưỡng, song đôi khi vẻ mặt và cử chỉ… nên nói thế nào nhỉ…”

“Lại lộ ra xuất thân không tốt?” Imaeda nở một nụ cười châm biếm.

“Cũng không đến mức đó. Chỉ là có lúc cảm thấy ngoài sự tao nhã mà cô ta vẫn thể hiện, còn có thái độ cảnh giác cao. Anh Imaeda, anh từng nuôi mèo bao giờ chưa?”

“Chưa.” Imaeda lắc lắc đầu.

“Hồi nhỏ tôi có nuôi tới mấy con, toàn là nhặt về chứ không phải loại mèo có giấy chứng minh huyết thống đâu. Tôi rút ra một điều rằng, dù nuôi dạy chúng bằng cùng một cách, nhưng thái độ của lũ mèo với con người, lại có khác biệt rất lớn tùy theo thời kỳ mà chúng được nhặt về. Nếu con mèo được nhặt về lúc mới sinh, từ khi hơi có nhận thức nó đã được nuôi trong nhà, được sống trong sự bảo vệ của con người, thì sẽ không cảnh giác với người, hết sức ngây thơ, thích làm nũng. Nhưng nếu con mèo được nhặt về khi đã lớn hơn một chút, tuy rằng cũng sẽ gần gũi, nhưng thực sự nó không bao giờ hoàn toàn hết cảnh giác. Có thể nhận ra, dường như bọn chúng đang tự nói với chính mình: Người ta cho ăn nên mình cứ ở cùng, nhưng tuyệt đối không thể lơ là cảnh giác được.”

“Ý anh là, cô Karasawa Yukiho cũng có cảm giác tương tự như thế?”

“Nếu biết được có người khác lấy lũ mèo hoang ra so sánh với mình, cô ta hẳn là phải tức đến phát điên như một con mèo mất.” Khóe miệng Shinozuka cong lên.

“Có điều,” Imaeda nhớ lại cặp mắt sắc lẹm làm người ta liên tưởng đến mắt mèo của Karasawa Yukiho, “cũng có khi đặc tính ấy lại có sức hút.”

“Không sai chút nào, vì vậy phụ nữ thực sự đáng sợ.”

“Tôi đồng cảm với anh.” Imaeda uống một ngụm nước trong cốc thủy tinh. “Anh đã xem phần giao dịch cổ phiếu chưa?”

“Tôi xem qua rồi. Anh tìm được nhân viên phụ trách của công ty chứng khoán giỏi thật đấy.”

“Vì chỗ anh Takamiya vẫn còn giữ được một chút tài liệu, tôi nhờ vào đó mà tìm ra được.”

“Chỗ Takamiya…” Sắc mặt Shinozuka hơi trầm xuống, đó là vẻ mặt khi nhiều mối lo cùng lóe lên trong trí óc. “Anh giải thích với cậu ấy như thế nào về cuộc điều tra này?”

“Không vòng vo gì hết. Tôi nói là được gia đình của người đàn ông muốn cưới Karasawa Yukiho yêu cầu tiến hành điều tra. Như vậy không được ổn lắm à?”

“Không, rất tốt. Ngộ nhỡ có kết hôn thật, sớm muộn gì cậu ấy cũng sẽ biết thôi. Cậu ấy phản ứng thế nào?”

“Anh ấy nói, thật tốt vì cô ta đã tìm được người tử tế.”

“Anh không nói với cậu ấy, đó là họ hàng của tôi à?”

“Không, nhưng hình như anh ấy lờ mờ nhận ra người yêu cầu là anh. Chuyện này cũng khó tránh khỏi. Tuy tôi và anh Takamiya chỉ có duyên gặp nhau vài ba lần, nhưng nếu nói tình cờ một người lạ nhờ tôi điều tra về Karasawa Yukiho thì đúng là quá trùng hợp.”

“Cũng phải. Vậy tốt nhất tôi nên tìm cơ hội nào đấy chủ động nói cho cậu ấy biết.” Shinozuka lẩm bẩm như nói với chính mình, rồi lại nhìn vào kẹp hồ sơ. “Theo bản báo cáo này, hình như cô ta kiếm được không ít nhờ cổ phiếu.”

“Đúng vậy. Đáng tiếc là nhân viên môi giới phụ trách nghiệp vụ của Karasawa Yukiho mùa xuân năm nay đã nghỉ việc kết hôn rồi, vì vậy tư liệu có được hoàn toàn chỉ dựa trên trí nhớ của cô ta thôi.”

Imaeda nghĩ, nếu không phải đã nghỉ việc, chắc hẳn cô ta cũng không chịu tiết lộ bí mật của khách hàng.

“Tôi nghe nói đến tận năm ngoái, dù là tay chơi nhỏ lẻ nghiệp dư cũng kiếm được khá nhiều, nhưng ở đây viết cô ta đầu tư hai mươi triệu yên mua cổ phiếu của Ricard, có thật không vậy?”

“Có vẻ là thật đấy, nhân viên môi giới nói, cô ta rất ấn tượng với vụ giao dịch này.”

Công ty cổ phần Ricard vốn là công ty sản xuất chất bán dẫn, khoảng hai mươi năm trước, công ty này tuyên bố đã phát triển được sản phẩm thay thế cho khí CFC. Có nghĩa là Ricard đã vượt lên dẫn trước trong cuộc cạnh tranh về nghiên cứu phát triển sản phẩm thay thế CFC ngày càng trở nên đữ dội cả ở trong lẫn ngoài nước từ sau khi Liên hợp quốc thông qua quy định hạn chế sử dụng CFC năm 1987. Tháng Năm năm 1989, “Tuyên ngôn Helsinki” đưa ra nghị quyết ngừng sử dụng CFC toàn diện vào cuối thế kỷ 20 và từ đó, giá cổ phiếu của Ricard liên tục tăng cao. Điều khiến nhân viên môi giới vô cùng kinh ngạc là thời điểm Karasawa Yukiho mua cổ phiếu, tình hình nghiên cứu phát triển của Ricard vẫn chưa công khai với bên ngoài. Thậm chí giới chuyên môn còn hoàn toàn không hay biết Ricard đang tiến hành nghiên cứu lĩnh vực đó. Cả chuyện mấy nhân viên kỹ thuật đã nhiều năm nghiên cứu phát triển CFC của nhà sản xuất CFC hàng đầu trong nước là công ty Pacific Crystal bị kéo đi, cũng phải mãi sau khi kết thúc cuộc họp báo tuyên bố nghiên cứu được sản phẩm thay thế mới lộ ra.

“Ngoài ra còn rất nhiều trường hợp tương tự như vậy. Mặc dù không rõ cô Karasawa Yukiho dựa vào căn cứ nào, nhưng hễ là các công ty có cổ phiếu cô ta mua vào, thì không lâu sau đều tăng trưởng mạnh. Nhân viên môi giới nói, tỷ lệ ấy gần như là một trăm phần trăm.”

“Cô ta có nội gián à?” Shinozuka hạ giọng hỏi.

“Cô nhân viên môi giới có vẻ cũng nghi ngờ như vậy. Cô ta bảo, chồng của Karasawa Yukiho hình như làm việc ở một công ty sản xuất nào đó, có lẽ đã thông qua một kênh đặc biệt mà biết được tình hình các công ty khác. Tất nhiên cô ta không hề dò hỏi Karasawa Yukiho về chuyện này.”

“Tôi nhớ Takamiya làm việc ở…”

“Phòng Bản quyền sáng chế công ty Cổ phần Thiết bị điện Tozai. Bộ phận đó quả thực có thể nắm được kỹ thuật của các doanh nghiệp khác, nhưng chỉ giới hạn trong những gì đã công khai thôi. Không thể nào có thông tin về những kỹ thuật chưa công khai, hơn nữa còn đang trong quá trình nghiên cứu phát triển được.”

“Xem ra chỉ có thể nói là cô ta có trực giác tốt về cổ phiếu thôi.”

“Có vẻ như vậy. Vì theo lời cô nhân viên môi giới thời điểm cô ta bán cổ phiếu cũng rất đúng lúc. Khi giá cổ phiếu vẫn còn trong giai đoạn có chiều hướng tăng nhẹ, cô đã dứt khoát đổi sang mục tiêu tiếp theo. Theo người nhân viên môi giới ấy, thì tay chơi nhỏ lẻ không chuyên rất khó làm được điều này. Có điều, nếu chỉ dựa vào trực giác thì chẳng thể nào chơi cổ phiếu được đâu.”

“Sau lưng cô ta có gì đó… ý anh là vậy phải không?”

“Tôi không biết, nhưng có cảm giác như thế.” Imaeda nhún vai, “Có thể anh sẽ bảo điều này chẳng qua chỉ là trực giác của tôi thôi nhưng…”

Shinozuka hơi nghiêng đầu, nhìn vào kẹp hồ sơ.

“Còn một điểm làm tôi băn khoăn.”

“Là gì vậy?”

“Trong bản báo cáo này có nói, cho đến năm ngoái, cô ta vẫn liên tục mua bán cổ phiếu, hiện giờ cũng không có vẻ gì là đã dừng tay cả.”

“Đúng thế. Có lẽ vì công việc ở cửa hàng rất bận nên tạm thời không thể chuyên tâm vào mặt này. Có điều, cô ta hình như vẫn còn giữ mấy loại cổ phiếu rất mạnh.”

Shinozuka trầm ngâm một lúc. “Lạ thật!”

“Có chuyện gì vậy? Báo cáo có sai sót gì sao?”

“Không, không phải. Chỉ là hơi khác với những gì Takamiya nói.”

“Anh ấy nói sao?”

“Tôi biết trước khi bọn họ ly hôn, Yukiho đã bắt đầu chơi cổ phiếu rồi. Nhưng tôi nghe nói, sau đó, cô ấy vì chơi cổ phiếu mà bỏ bê việc nhà, bèn tự quyết định bán hết cả đi rồi.”

“Bán hết rồi? Toàn bộ? Anh Takamiya đã xác nhận lại chưa?”

“Chuyện này thì tôi không biết, chắc là chưa.”

“Theo như nhân viên môi giới kia nói, Karasawa Yukiho chưa bao giờ rời khỏi thị trường cổ phiếu.”

“Xem ra là thế rồi.” Shinozuka bực bội mím chặt hai cánh môi lại.

“Chúng ta đại khái đã hiểu được cách luân chuyển nguồn vốn của cô ta. Chỉ là, nghi ngờ lớn nhất vẫn chưa giải quyết được.”

“Ý anh là, tiền vốn đến từ đâu?”

“Đúng vậy. Vì không có tài liệu cụ thể nên rất khó truy ngược lại một cách chính xác, nhưng nếu tính toán dựa trên trí nhớ của người nhân viên môi giới kia, chắc hẳn ngay từ đầu cô ta đã có một khoản tiền vốn không nhỏ. Đó chắc chắn không phải là khoản tiền ở mức tiêu vặt của một bà nội trợ.”

“Nghĩa là vài triệu yên?”

“Có thể không chỉ vậy.”

Hai tay Shinozuka khoanh lại trước ngực, thấp giọng nói. “Takamiya cũng bảo, không rõ cô ta có bao nhiêu tiền.”

“Anh từng nói với tôi, mẹ nuôi cô ta là bà Karasawa Reiko cũng không có nhiều tài sản. Ít nhất, muốn huy động mấy triệu yên cũng không phải chuyện dễ dàng gì.”

“Anh có thể tìm cách điều tra chuyện này không?”

“Tôi cũng định làm vậy đây. Có thể cho tôi thêm chút thời gian nữa không?”

“Vâng, vậy thì phiền anh rồi. Tập hồ sơ này có thể giao cho tôi không?”

“Anh cứ tự nhiên, tôi còn giữ bản sao.”

Shinozuka mang theo một cặp hồ sơ mỏng bằng da cứng. Anh ta cất bản báo cáo vào đó.

“À, phải rồi. Tôi phải trả cái này cho anh.” Imaeda lấy trong cặp hồ sơ một túi giấy, mở ra, bên trong là một chiếc đồng hồ đeo tay. Anh ta đặt đồng hồ lên mặt bàn. “Chiếc đồng hồ lần trước mượn của anh. Quần áo đã gửi chuyển phát nhanh rồi, chắc mai là đến nơi.”

“Đồng hồ cũng gửi chuyển phát nhanh là được mà.”

“Sao được chứ? Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, công ty chuyển phát họ không đền đâu. Nghe nói đây là phiên bản có hạn của Cartier cơ đấy.”

“Vậy sao? Tôi được tặng.” Shinozuka liếc nhìn chiếc đồng hồ, rồi bỏ vào túi trong của áo vest.

“Cô ta nói đấy, Karasawa Yukiho.”

“Ồ.” Shinozuka nhìn bâng quơ giây lát, rồi mới nói, “Thì cô ta đã làm trong ngành ấy, hẳn phải hiểu rõ về mấy thứ này thôi.”

“Tôi nghĩ không chỉ có vậy thôi đâu.” Imaeda nói đầy ẩn ý.

“Nghĩa là sao?”

Imaeda hơi dịch người lên phía trước, hai bàn tay đan vào nhau trên mặt bàn.

“Anh Shinozuka, anh kể rằng Karasawa Yukiho vẫn không chịu thẳng thắn trả lời lời cầu hôn của anh họ anh?”

“Vâng, có gì không ổn à?”

“Tôi nghĩ ra một nguyên nhân có thể giải thích tại sao cô ta làm như vậy.”

“Là gì vậy? Anh hãy nói mau đi.”

“Tôi nghĩ,” Imaeda nhìn thẳng vào mắt Shinozuka, “cô ta có thể có một người khác.”

Nụ cười lập tức biến mất trên gương mặt Shinozuka, thay vào đó là sự bình tĩnh của một học giả. Sau khi gật đầu mấy lần liên tiếp, anh ta mới lên tiếng.

“Về điểm này không phải tôi chưa từng nghĩ đến, tuy rằng chỉ là suy đoán thôi. Nhưng nghe anh nói vậy, chắc đã có đầu mối về người đó rồi?”

“Vâng.” Imaeda gật đầu. “Đúng vậy.”

“Ai vậy? Tôi có quen không? À, nếu như không tiện thì không nói cũng được.”

“Tôi thì không ngại gì, có tiện hay không là ở anh thôi.” Imaeda uống nước trong cốc, nhìn thẳng vào Shinozuka. “Chính là anh.”

“Gì hả?”

“Tôi nghĩ người cô ta yêu thật sự không phải anh họ anh, mà là anh đấy, anh Shinozuka.”

Shinozuka chau mày tựa như vừa nghe thấy một điều kỳ quặc. Sau đó anh ta nhún vai cười thiểu não, nhè nhẹ lắc đầu. “Đừng đùa chứ.”

“Tuy rằng không thể so với anh được, nhưng tôi cũng rất bận, không hơi đâu lãng phí thời gian vào những chuyện đùa vô vị đâu.”

Lời nói của Imaeda làm Shinozuka cũng trở nên nghiêm túc. Thật ra, anh ta cũng không thật sự cho rằng tay thám tử này lại đột nhiên bày ra một trò đùa không đúng thời điểm kiểu ấy. Chỉ là quá bất ngờ nên anh ta không biết phản ứng thế nào cho phải.

“Tại sao anh lại nghĩ như thế?” Shinozuka hỏi.

“Nếu tôi nói đó là trực giác, anh có cười không?”

“Cười thì không, nhưng cũng không tin, chỉ nghe rồi bỏ qua thôi.”

“Tôi nghĩ cũng phải.”

“Thật sự là trực giác của anh thôi sao?”

“Không, tôi có căn cứ. Đầu tiên chính là chiếc đồng hồ kia, cô Karasawa Yukiho rõ ràng là nhớ chủ nhân của nó. Chỉ liếc thấy nó trong khoảng thời gian rất ngắn mà đến chính bản thân anh còn chẳng nhớ, nhưng đến giờ cô ta vẫn chưa quên. Đây chẳng phải vì có tình cảm đặc biệt đối với chủ nhân của chiếc đồng hồ hay sao?”

“Vậy nên tôi mới nói, đây là do thói quen xuất phát từ nghề nghiệp của cô ta mà thôi.”

“Lúc anh đeo chiếc đồng hồ này ở trước mặt cô ta, chắc chắn cô ta vẫn chưa làm bà chủ tiệm đồ hiệu chứ?”

“Chuyện này…” Shinozuka chỉ nói được hai chữ, rồi im lặng.

“Còn nữa, lúc tôi đến cửa hàng, được hỏi xem người giới thiệu là ai, tôi trả lời là anh Shinozuka, cô ta liền nói ngay ra tên của anh. Bình thường, cô ta phải đề cập đến anh họ Shinozuka Yasuharu của anh trước mới đúng chứ? Bởi vì anh Yasuharu nhiều tuổi hơn anh, chức vị trong công ty cũng cao hơn anh, vả lại gần đây thường xuyên ghé đến cửa hàng đó.”

“Chỉ là trùng hợp thôi, chắc cô ta ngại nên mới không nhắc đến tên anh Yasuharu. Đừng quên, anh họ tôi là người cầu hôn cô ta đấy.”

“Karasawa Yukiho không phải loại phụ nữ đó đâu, cô ta rất khắt khe trong công việc. Xin hỏi, anh đã đến cửa hàng đó mấy lần rồi?”

“Chắc khoảng… hai lần gì đó?”

“Lần gần đây nhất là khi nào?”

Câu hỏi của Imaeda làm Shinozuka rơi vào im lặng. Imaeda lại hỏi. “Hơn một năm rồi đúng không?” Shinozuka khẽ gật đầu.

“Hiện giờ nhắc đến anh Shinozuka ở cửa hàng cô ta, lẽ ra phải là vị khách sộp Shinozuka Yasuharu mới đúng. Nếu cô ta không có tình cảm đặc biệt với anh, không thể nào lại nhắc đến tên anh trong trường hợp đó được.”

“Thế này thì thật quá…” Shinozuka cười thiểu não.

Imaeda cũng cười. “Quá khiên cưỡng?”

“Tôi cho là như vậy.”

Imaeda giơ tay cầm cốc cà phê, uống một ngụm, ngả lưng ra phía sau. Anh ta thở dài một tiếng, ưỡn thẳng người lên như lúc nãy.

“Anh từng nói, anh quen cô Karasawa hồi đại học?”

“Đúng vậy, vì cùng tham gia câu lạc bộ Khiêu vũ giao tiếp.”

“Anh thử nhớ lại những chuyện hồi đó xem có dấu hiệu gì hay không? Tức là những chuyện có thể giải thích rằng cô ta có tình cảm với anh ấy.”

Nhắc đến chuyện câu lạc bộ Khiêu vũ giao tiếp, Shinozuka dường như sực nhớ ra gì đó, nét mặt trở nên hơi khó chịu.

“Cuối cùng anh vẫn đi tìm cô ấy à?” Anh ta chớp mắt liên tục, rồi nói, “Kawashima Eriko ấy.”

“Vâng. Nhưng anh không cần lo lắng. Tôi hoàn toàn không nhắc đến anh, cũng không hề có bất cứ hành động nào gây nghi ngờ cả.”

Shinozuka thở dài một tiếng, khe khẽ lắc đầu. “Cô ấy ổn chứ?”

“Ổn lắm. Cô ấy đã kết hôn hai năm trước, chồng cô ấy là nhân viên hành chính của công ty công trình điện khí. Nghe nói là do mai mối.”

“Vậy thì tốt.” Shinozuka khẽ gật đầu, sau đó lại ngẩng đầu lên. “Cô ấy nói gì?”

“Anh Takamiya có thể không phải người Karasawa Yukiho yêu nhất… đây là suy nghĩ của cô Kawashima. Nói cách khác, trong lòng cô ấy còn có một người khác.”

“Người đó chính là tôi hả? Thật nực cười quá.” Shinozuka vừa cười vừa huơ bàn tay trước mặt.

“Nhưng mà,” Imaeda nói, “hình như cô Kawashima nghĩ thế đó.”

“Sao có thể được?” Nụ cười của Shinozuka lập tức biến mất, “Cô ấy nói như vậy à?”

“Không, tôi cảm nhận được thái độ của cô ấy thôi.”

“Chỉ dựa vào cảm giác để phán đoán là rất nguy hiểm đó.”

“Điều này thì tôi biết. Vì vậy mới không viết vào trong báo cáo. Nhưng tôi tin chắc như vậy đấy.”

Takamiya Makoto không phải là người Karasawa Yukiho yêu nhất… Imaeda vẫn còn nhớ nét mặt của Kawashima Eriko lúc nói ra câu này. Rất rõ ràng, cô cảm thấy vô cùng hối hận. Cô ấy lo sợ điều gì đó. Imaeda đang mặt đối mặt với cô, nhận ra nguyên nhân khiến cô sợ hãi. Cô sợ câu hỏi “Vậy thì, người Karasawa Yukiho yêu nhất ấy là ai?” Nghĩ tới đây, mấy mảnh ghép vụn dường như đã được ghép lại.

Shinozuka thở hắt ra một tiếng, cầm cốc thủy tinh lên uống một hơi hết nửa cốc. Đá trong cốc kêu thành tiếng lanh canh.

“Anh nói vậy tôi cũng không nhớ ra bất cứ dấu hiệu nào. Cô ta chưa từng bày tỏ với tôi, sinh nhật hay Giáng sinh cũng không hề tặng quà. Nếu miễn cưỡng tính vào, thì chỉ có sô cô la vào dịp lễ tình nhân thôi. Nhưng tất cả thành viên nam trong câu lạc bộ ai cũng có phần mà.”

“Có lẽ chỉ riêng sô cô la của anh có tình cảm đặc biệt.”

“Không hề, tuyệt đối là không.” Shinozuka lắc đầu.

Imaeda thọc ngón tay vào bao thuốc, vẫn còn một điếu cuối cùng. Anh ta moi điếu thuốc ra, châm lửa, tay trái bóp dẹt bao thuốc rỗng.

“Còn một điểm này nữa, tôi cũng không viết vào báo cáo. Trong các sự việc xảy ra thời kỳ cô ta học cấp II, có một chuyện khiến tôi đặc biệt chú ý.”

“Chuyện gì?”

“Một vụ cưỡng bức. À không đúng, có cưỡng bức hay không thì chưa xác định được.”

Imaeda lần lượt kể ra chuyện nữ sinh học cùng cấp với Yukiho bị tấn công, rồi được Yukiho và Kawashima Eriko phát hiện, nạn nhân vốn có thái độ thù địch với Yukiho… Không ngoài dự đoán của anh ta, nét mặt Shinozuka thoáng thẫn thờ.

“Vụ án này có điểm gì khả nghi?” Anh ta hỏi, giọng nói cũng mất tự nhiên hẳn.

“Anh không thấy rất giống à, với chuyện anh trải qua hồi học đại học ấy.”

“Giống thì sao chứ?” Giọng Shinozuka lộ rõ vẻ bực bội.

“Vụ án ấy cuối cùng đã khiến Karasawa Yukiho thành công trong việc lôi kéo đối thủ của cô ta. Sau khi học được chiêu này, để xua đuổi tình địch, cô ta lại diễn vở kịch đó lần nữa… có thể có khả năng đó lắm chứ.”

Shinozuka nhìn chằm chằm vào Imaeda. Ánh mắt của anh ta có thể miêu tả chính xác là “hằn học”.

“Chuyện này cho dù là tưởng tượng thì cũng khiến người ta cảm thấy khó chịu. Kawashima là bạn tốt của cô ta cơ mà!”

“Cô Kawashima nghĩ như vậy, nhưng Karasawa Yukiho rốt cuộc có nghĩ như vậy hay không thì không thể biết được. Tôi thậm chí còn nghi ngờ sự việc hồi cấp II cũng là do cô ta bày ra. Nếu đặt giả thiết như vậy, thì mọi thứ đều hợp logic…”

Shinozuka xòe bàn tay phải ra ngăn Imaeda lại.

“Đừng nói thêm nữa, tôi chỉ muốn sự thật.”

Imaeda gật đầu. “Tôi biết rồi.”

“Tôi sẽ đợi bản báo cáo tiếp theo của anh.”

Shinozuka đứng dậy, định cầm tờ hóa đơn để trên mặt bàn, nhưng Imaeda đã nhanh hơn một bước giữ lại. “Nếu tôi phát hiện ra chứng cứ có thể chứng minh những gì tôi vừa nói không phải tưởng tượng, mà là sự thật, anh có dám nói với anh họ mình hay không?”

Nghe vậy, Shinozuka đưa tay kia đẩy bàn tay Imaeda ra, cầm hóa đơn lên. Một loạt các động tác này diễn ra hết sức chậm chạp.

“Đương nhiên, nếu đó là sự thực.”

“Tôi hiểu.”

“Tôi sẽ đợi bản báo cáo tiếp theo của anh, báo cáo có chứng cứ xác thực.” Shinozuka cầm hóa đơn, cất bước bỏ đi.

2

Buổi tối hai ngày sau khi Imaeda gặp Shinozuka ở Ginza, Sugawara Eri gọi điện tới, Imaeda có một vụ điều tra khác, phải theo dõi một khách sạn dành cho các đôi tình nhân ở Shibuya đến tận mười một giờ hơn, về đến nhà thì đã hơn mười hai giờ. Đúng lúc anh ta cởi quần áo, đang định đi tắm thì điện thoại đổ chuông.

Eri nói, có chuyện bất thường, nên mới gọi điện thoại đến. Nghe giọng cô không có vẻ gì là đùa cợt.

“Hộp thư thoại có mấy cuộc gọi đến mà hoàn toàn im lặng, làm em sợ đến rởn cả gai ốc. Không phải anh Imaeda gọi đúng không ạ?”

“Anh chẳng hứng thú với kiểu gọi điện ấy, liệu có phải người khách nào ở quán rượu không?”

“Làm gì có người như thế chứ, với lại, em chẳng bao giờ cho khách số điện thoại cả.”

“Số điện thoại thì tra ra dễ ợt.”

Chẳng hạn như mở hòm thư, xem trộm hóa đơn điện thoại của công ty điện thoại NTT gửi đến, Imaeda nghĩ ngay đến một thủ thuật mình vẫn quen dùng. Nói ra chỉ càng khiến Eri sợ hãi, nên anh ta cũng không nói gì thêm.

“Còn một chuyện này cũng làm em thấy rất lạ.”

“Chuyện gì thế?”

“Có thể là em nghĩ nhiều quá.” Eri hạ giọng nói, “Em cứ có cảm giác hình như có ai đó đã vào phòng em ấy.”

“Gì hả?”

“Khi nãy em từ chỗ làm về, vừa mở cửa ra liền có cảm giác ấy. Rất là lạ.”

“Cụ thể có gì khác thường không?”

“Có. Đầu tiên, là chiếc xăng đan bị đổ nghiêng.”

“Xăng đan?”

“Một đôi xăng đan đế cao, em để ở tiền sảnh, có một chiếc bị đổ nghiêng. Em ghét nhất là giày dép để nghiêng ngả nên dù có vội đi đến mấy cũng nhất định phải xếp cho ngay ngắn.”

“Nhưng mà nó lại bị đổ nghiêng?”

“Vâng, điện thoại cũng thế.”

“Điện thoại làm sao?”

“Góc độ đặt máy đã thay đổi. Em quen để máy hơi nghiêng trên giá, để có thể ngồi mà vẫn vươn tay trái cầm được ống nghe. Nhưng không biết tại sao, bây giờ điện thoại lại được đặt thẳng thớm trên giá rồi.”

“Không phải tự em làm à?”

“Không. Em không nhớ mình từng đặt điện thoại như thế bao giờ.”

Trong đầu Imaeda lập tức lóe lên một ý nghĩ, nhưng anh ta không nói với Eri, chỉ bảo, “Anh biết rồi, Eri, em nghe cho rõ nhé, bây giờ anh sẽ qua đó, được không hả?”

“Ơ, anh Imaeda sẽ qua đây ạ? Ừm… được ạ.”

“Em không cần phải lo, anh không biến thành con sói già gian ác đâu. Ngoài ra, trước khi anh đến, tuyệt đối không được dùng điện thoại. Biết chưa hả?”

“Em biết rồi… nhưng có chuyện gì vậy?”

“Anh đến nơi rồi sẽ giải thích sau. Còn điều này nữa. Anh sẽ gõ cửa, nhưng em nhất định phải kiểm tra đúng là anh mới được mở cửa đấy nhé, hiểu chưa?”

“Vâng, em biết rồi.” Eri trả lời với giọng còn lo lắng hơn lúc mới gọi đến.

Imaeda vừa gác máy liền mặc ngay quần áo, nhanh chóng cho mấy món đồ vào ba lô thể thao, xỏ đôi giày thể thao đi ra khỏi nhà.

Bên ngoài đang mưa lất phất. Trong một thoáng, anh ta định quay về lấy ô, nhưng ngay sau đó lại quyết định chạy thẳng tới căn hộ của Eri chỉ cách đó khoảng vài trăm mét.

Ngõ vào khu căn hộ nằm ở phía sau con đường lớn dành cho xe buýt, đối diện với bãi đậu xe có thu phí. Tường bao bên ngoài đã có vết nứt. Imaeda chạy lên cầu thang bên ngoài, gõ cửa phòng 205. Cửa mở, lộ ra gương mặt lo lắng của Eri.

“Chuyện này là sao vậy anh?” Cô chau mày hỏi.

“Anh cũng không biết, mong rằng chỉ là em nghĩ quá lên thôi.”

“Còn lâu nhé.” Eri lắc lắc đầu. “Gác điện thoại xong, em lại càng thấy sợ, cảm thấy chỗ này cứ như thể không phải nơi ở của mình ấy.”

Đây đúng là vấn đề cảm xúc rồi. Mặc dù nghĩ vậy, song Imaeda lại lẳng lặng gật đầu, lách người qua khe cửa.

Tiền sảnh có ba đôi giày. Một đôi giày thể thao, một đôi giày thường và một đôi xăng đan. Gót xăng đan quả nhiên rất cao, với chiều cao thế này, chỉ hơi chạm vào là sẽ đổ ngay.

Imaeda cởi giày vào trong nhà. Eri ở căn hộ một phòng, chỉ có một kệ rửa nhỏ kiêm chỗ nấu nướng, không có cả bếp và phòng khách. Mặc dù vậy, cô vẫn treo một tấm màn ở giữa nhà, tránh để người đứng ngoài cửa liếc vào là thấy hết bên trong. Phía sau tấm màn có giường, ti vi và bàn, chiếc điều hòa cũ kỹ chắc đã có từ khi cô dọn vào ở, kêu to, nhưng vẫn phả ra hơi lạnh.

“Điện thoại đâu?”

“Đằng kia.” Eri chỉ vào bên cạnh chiếc giường. Chỗ đó có một cái giá nhỏ, mặt trên giá gần như hình vuông, bên trên đặt một máy điện thoại màu trắng. Không phải loại điện thoại không dây phổ biến hiện nay. Chắc vì căn hộ nhỏ này cũng không cần dùng đến loại ấy.

Imaeda lấy trong ba lô ra một thiết bị hình hộp màu đen, bên trên có gắn ăng ten, bề mặt có mấy mặt đồng hồ hiển thị và các công tắc khác nhau.

“Đó là cái gì vậy? Máy thu phát à?” Eri hỏi.

“Không, một món đồ chơi nhỏ thôi.”

Imaeda bật công tắc nguồn, rồi vặn nút điều chỉnh tần số. Không lâu sau, đồng hồ hiển thị xuất hiện thay đổi ở tần số khoảng 100 hertz. Đèn cảm ứng cũng bắt đầu nhấp nháy. Anh ta giữ nguyên trạng thái này, hết tiến gần rồi lại ra xa điện thoại. Phản ứng của đồng hồ hiển thị vẫn không thay đổi.

Imaeda tắt công tắc nguồn, giơ điện thoại lên xem phần đế, sau đó lấy ra một bộ tuốc nơ vít trong ba lô. Anh ta chọn lấy chiếc tuốc nơ vít bốn cạnh, vặn ốc vít giữ vỏ bên ngoài điện thoại. Quả nhiên không ngoài dự đoán, anh ta không hề tốn chút sức lực nào để vặn cái ốc vít ấy, vì đã có người tháo ra trước đó rồi.

“Anh làm gì vậy? Định phá điện thoại à?”

“Đang sửa đây.”

“Hả?”

Sau khi gỡ hết các ốc vít, Imaeda cẩn thận dỡ phần đế máy điện thoại, để lộ ra bảng mạch gắn la liệt các linh kiện điện tử bên trong. Anh ta lập tức chú ý đến một chiếc hộp nhỏ được cố định bằng băng dính, liền đưa ngón tay vào nhấc ra.

“Cái gì vậy? Lấy ra không ảnh hưởng gì ạ?”

Imaeda không trả lời, dùng tuốc nơ vít bật nắp hộp, bên trong có một viên pin thủy ngân hình cúc áo. Anh ta móc viên pin ra ngoài.

“Xong, vậy là không sao rồi.”

“Cái đó là gì vậy? Nói cho em đi!” Eri sốt ruột.

“Chẳng có gì to tát cả, là máy nghe trộm.” Imaeda vừa nói vừa lắp chiếc điện thoại lại như cũ.

“Cái gì cơ!” Eri kinh hãi trợn mắt, cầm chiếc hộp vừa bị tháo ra ấy, “To tát đấy! Sao lại lắp máy nghe trộm trong nhà em làm gì?”

“Anh còn đang định hỏi em đây, có phải em bị thằng cha nào đeo bám không hả?”

“Em đã bảo là không có mà.”

Imaeda lại bật chiếc máy thăm dò thiết bị nghe trộm lên, vừa thay đổi tần số vừa đi vòng quanh trong nhà. Lần này đồng hồ hiển thị không có phản ứng gì nữa.

“Xem ra không cẩn trọng đến mức lắp hai ba cái.” Imaeda tắt công tắc, cất máy thăm dò và bộ tuốc nơ vít vào ba lô.

“Sao anh biết có người lắp máy nghe trộm?”

“Cho anh cái gì uống đã, chạy đi chạy lại, nóng chết đi được.”

“À, vâng vâng.”

Eri lấy trong chiếc tủ lạnh nhỏ cao ngang người ra hai lon bia, giật nắp một lon, còn một lon để trên bàn.

Imaeda ngồi xếp bằng, uống một ngụm. Người vừa thả lỏng, mồ hôi cũng túa ra toàn thân. “Nói một cách đơn giản, đó là trực giác có được từ kinh nghiệm.” Anh ta một tay cầm lon bia, nói, “Có dấu vết đột nhập, điện thoại bị dịch chuyển, trong trường hợp như vậy, nghi ngờ có người làm gì đó với điện thoại không phải là rất hợp lý sao?”

“À, đúng, không ngờ cũng đơn giản thật nhỉ.”

“Nghe em nói thế, anh lại muốn bảo với em là không hề đơn giản như vậy đâu, nhưng mà thôi.” Anh ta lại uống thêm một ngụm bia nữa, lấy mu bàn tay quẹt quẹt lên miệng. “Em thật sự không nghi ngờ ai à?”

“Không. Thật đấy. Hoàn toàn không có ai mà.” Eri ngồi trên giường, gật đầu thật mạnh.

“Nói như vậy, mục tiêu quả nhiên là… anh rồi.”

“Mục tiêu là anh Imaeda? Sao lại nói thế?”

“Em chẳng bảo trong hộp thư thoại có rất nhiều cuộc gọi đến mà chẳng nói gì còn gì? Vì vậy em mới cảm thấy không yên tâm, mà gọi điện cho anh. Thế nhưng, có lẽ làm vậy đã trúng kế của thủ phạm. Nghĩa là, mục đích của thủ phạm là muốn em gọi điện thoại. Khi phát hiện trong hộp thư thoại có những cuộc gọi lỡ kiểu thế, ai cũng sẽ gọi hỏi người có khả năng gọi đến trước.”

“Muốn em gọi điện để làm gì chứ?”

“Để nắm được phạm vi quan hệ xã hội của em. Chẳng hạn như bạn thân của em có những ai, khi xảy ra chuyện, em sẽ dựa vào ai.”

“Biết được những chuyện này thì phỏng có ích lợi gì đâu, mà muốn biết thì đến hỏi thẳng em là được rồi, đâu cần phải lắp máy nghe trộm gì đó chứ.”

“Là vì muốn biết, nhưng lại không muốn bị em phát hiện. Được rồi, sắp xếp lại những điều chúng ta vừa nói một chút nhé. Thủ phạm muốn biết tên và thân phận của một người nào đó, nhưng chỉ có một đầu mối duy nhất là em thôi. Có lẽ thủ phạm chỉ biết được em và người đó rất thân thiết.” Imaeda uống hết lon bia, bóp dẹt cái lon rỗng. “Em có nghi ngờ gì trước tình huống đó không?”

Tay trái Eri cầm lon bia, cô cúi đầu cắn móng tay ngón cái bàn tay phải.

“Cửa hàng đồ hiệu ở Nam Aoyama lần trước?”

“Thông minh.” Imaeda gật đầu. “Lần đó em để lại địa chỉ liên lạc cho cửa hàng, còn anh thì không để lại gì cả. Muốn biết anh là ai, chỉ có thể truy ra từ em thôi.”

“Nói như vậy, người của cửa hàng đó muốn điều tra anh Imaeda? Tại sao?”

“Nhiều nguyên nhân lắm.” Imaeda nở một nụ cười đầy thâm ý. “Chuyện người lớn.”

Trong đầu Imaeda nghĩ ngay đến chuyện chiếc đồng hồ. Karasawa Yukiho rõ ràng đã nhận ra chiếc đồng hồ ấy là của Shinozuka. Chuyện cô ta băn khoăn không biết kẻ mượn cả đồng hồ quý của người khác đeo đến cửa hàng là kẻ như thế nào cũng không có gì lạ. Vậy nên đã quyết định thuê một đồng nghiệp của anh ta để điều tra từ đầu mối Sugawara Eri… khả năng này rất cao.

Imaeda nhớ lại cuộc nói chuyện qua điện thoại vừa rồi với Eri. Cô gọi anh ta là “anh Imaeda”. Kẻ lắp đặt thiết bị nghe trộm sớm muộn gì cũng điều tra được, ở gần căn hộ này có một văn phòng thám tử do một người tên Imaeda Naomi đứng tên.

“Nhưng em có viết địa chỉ chính xác đâu. Rõ ràng là đóng giả thành tiểu thư của nhà có tiền mà địa chỉ lại ở khu Yamamoto nghèo nàn, thế chẳng phải lộ bài rồi còn gì? Vả lại, cả số điện thoại em cũng cố ý viết chệch đi mà.”

“Thật sao?”

“Đúng thế mà, dù gì em cũng làm trợ lý thám tử nên ít nhiều cũng biết động não chứ.”

Imaeda nhớ lại các chi tiết khi họ có mặt trong cửa hàng đồ hiệu của Karasawa Yukiho. Liệu có sơ suất gì không nhỉ?

“Hôm đó em có mang ví đi không?” Imaeda hỏi.

“Có mang.”

“Để trong túi xách à?”

“Vâng.”

“Khi ấy em cứ liên tục thay quần áo, trong lúc đó thì em để túi xách ở đâu?”

“À… em nghĩ chắc là để trong phòng thay đồ.”

“Cứ để suốt trong ấy à?”

“Vâng.” Eri gật đầu, nét mặt đã trở nên hơi lo lắng.

“Đưa cái ví ấy cho anh xem.” Imaeda chìa tay trái ra.

“Hả? Bên trong không có mấy tiền đâu.”

“Tiền không quan trọng, anh muốn xem ngoài tiền ra còn có cái gì nữa.”

Eri mở túi xách quai chéo treo ở một góc giường, lấy ra một cái ví màu đen, dáng ví dài nhỏ, bên trên có logo của hãng Gucci.

“Em cũng có đồ xịn cơ à?”

“Ông chủ cửa hàng cho đấy.”

“Tay chủ cửa hàng để ria con kiến ấy á?”

“Vâng.”

“Ồ, thật là sộp quá đi.” Imaeda mở ví tiền, kiểm tra các loại thẻ bên trong. Bằng lái xe, thẻ hội viên trung tâm mua sắm, thẻ cửa hàng làm đầu để chung một chỗ. Anh ta rút tấm bằng lái ra, địa chỉ đề bên trên đó chính là nơi này.

“Hả? Anh muốn nói, bọn họ đã xem trộm đồ của em?” Eri rất kinh ngạc.

“Có lẽ. Tỷ lệ là trên sáu mươi phần trăm.”

“Thật quá đáng! Bình thường ai lại đi làm thế chứ? Thế nghĩa là sao? Ngay từ đầu bọn họ đã nghi ngờ chúng ta rồi à?”

“Đúng thế.” Từ khoảnh khắc nhìn thấy chiếc đồng hồ đeo tay kia, Karasawa Yukiho đã nghi ngờ. Ngấm ngầm lục xem ví tiền của người khác đối với cô ta có lẽ cũng chẳng có gì ghê gớm cả. Vừa nghĩ, trong đầu Imaeda vừa hiện lên đôi mắt mèo kia.

“Nếu đã thế, trước khi chúng ta rời khỏi cửa hàng, bọn họ việc gì phải yêu cầu em để lại tên họ địa chỉ chứ? Còn nói là muốn gửi thư mời gì đó cho em nữa.”

“Chắc là để kiểm tra.”

“Kiểm tra gì cơ?”

“Kiểm tra xem em có viết tên và địa chỉ thật không. Kết quả là không.”

Eri lấy làm áy náy gật đầu. “Em đã cố ý viết sai mã khu vực.”

“Như vậy là cô ta xác định được chúng ta không phải đến để mua quần áo.”

“Xin lỗi, đáng lẽ em không nên làm trò tiểu xảo ấy.”

“Chẳng sao đâu, đằng nào thì chúng ta cũng bị nghi ngờ rồi.” Imaeda đứng dậy, xách ba lô lên, “Em đóng cửa cẩn thận vào. Anh nghĩ em cũng biết rồi đấy, gặp phải dân chuyên nghiệp, loại khóa căn hộ này coi như không. Lúc em ở trong nhà, nhất định phải móc dây xích vào đấy.”

“Vâng, em biết rồi.”

“Vậy anh đi đây.” Imaeda xỏ chân vào giày thể thao.

“Anh Imaeda, anh sẽ không gặp chuyện gì chứ? Liệu có người muốn tấn công anh không?”

Câu nói của Eri làm Imaeda bật cười thành tiếng.

“Nói như trong phim 007 ấy. Không cần lo lắng, cùng lắm là một đám đầu gấu du côn đến kiếm chuyện thôi.”

“A!” Sắc mặt Eri trở nên u ám.

“Anh đi đây, chúc ngủ ngon. Phải khóa cửa cẩn thận đấy nhé.” Imaeda ra khỏi căn hộ, đóng cửa lại. Anh ta không đi ngay, mà đợi đến khi nghe thấy tiếng cửa khóa và tiếng khóa xích móc vào, mới cất bước ra về.

Ừm, liệu một kẻ như thế nào sẽ tìm đến nhỉ?

Imaeda ngẩng đầu lên nhìn trời, mưa vẫn lất phất không ngừng.

3

Ngày hôm sau, mưa lất phất chuyển thành mưa lớn, nhiệt độ cũng vì thế mà giảm xuống một ít, khiến buổi sớm hôm ấy trở nên dễ chịu lạ thường giữa những ngày tháng Tám oi bức.

Imaeda dậy lúc chín giờ hơn, mặc áo phông và quần bò rồi ra khỏi chỗ ở, cầm chiếc ô đã oằn mất một nan, đi vào quán cà phê tên Bolero ở phía đối diện tòa nhà. Trên cánh cửa gỗ có treo một chiếc chuông nhỏ, mỗi khi cửa mở hay đóng, sẽ phát ra tiếng kêu trong trẻo vui tai. Imaeda có thói quen mỗi ngày đều ăn sáng, đọc báo Thể thao giải trí ở chỗ này.

Quán rất nhỏ, chỉ có bốn chiếc bàn và quầy bar. Trong đó hai bàn đã có người, trên quầy bar cũng có một khách đang ngồi. Ông chủ hói đầu đứng bên trong quầy bar gật đầu với Imaeda.

Imaeda thoáng do dự, sau đó ngồi vào chiếc bàn ở trong cùng. Anh ta đoán giờ này chắc không có khách khứa gì nữa. Nếu không đủ chỗ ngồi, thì chuyển lên ngồi ở quầy bar là xong.

Imaeda không gọi món. Cứ ngồi im khoảng mấy phút, ông chủ sẽ mang món hotdog và cà phê đến. Bên trong hotdog ngoài một cái xúc xích to tướng có lẽ còn cả rau bắp cải xào.

Trên giá báo ngay bên cạnh anh ta có mấy tờ báo. Người khách ở quầy bar đang đọc báo Thể thao giải trí nên chỉ còn lại các báo thông thường và nhật báo Kinh tế tài chính. Imaeda đành phải rút tờ Asahi Shimbun ra. Trong quán có cả tờ Yomiuri, nhưng tờ ấy anh ta cũng đặt rồi.

Anh ta chỉnh lại tư thế ngồi, định mở báo ra, đột nhiên nghe bên tai vang lên tiếng chuông đinh đang. Như một phản xạ có điều kiện, Imaeda nhìn ra cửa, thấy một người đàn ông bước vào.

Người đàn ông này chừng khoảng gần sáu mươi, mái tóc ngắn đã loáng thoáng sợi bạc. Người ông ta cân đối, lồng ngực bên trong chiếc sơ mi trắng trông chắc nịch, cánh tay lộ ra dưới tay áo ngắn cũng rất to. Ông ta cao khoảng hơn một mét bảy, dáng người hiên ngang rắn rỏi như võ sĩ thời xưa.

Thế nhưng, điều đáng chú ý nhất không phải vẻ bề ngoài của ông ta, mà là vừa bước vào quán, ánh mắt sắc bén đã bắn về phía Imaeda, tựa như trước khi vào đây, ông ta đã biết anh ta ngồi ở đó vậy.

Thực ra, chuyện chỉ diễn ra trong chớp mắt. Người đàn ông đã lập tức nhìn đi hướng khác, người cũng chuyển động theo. Ông ta ngồi xuống bên quầy bar.

“Cho tôi cà phê.” Người đàn ông bảo chủ quán.

Nghe ông ta nói, cặp mắt Imaeda vốn đã quay về với tờ báo lại ngước lên lần nữa. Ông ta nói giọng Kansai. Anh ta cảm thấy hơi bất ngờ.

Đúng lúc này, người đàn ông đó lại nhìn về phía Imaeda. Hai ánh mắt chạm nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Trong mắt người đàn ông chẳng hề có vẻ dọa dẫm, cũng không mang theo ác ý. Nhưng đó là đôi mắt đã nhìn thấu mọi sự xấu xa độc ác trên cõi đời này. Ở trong đó có một thứ ánh sáng sắc bén gọi là sự bình tĩnh thật sự. Imaeda cảm thấy sống lưng mình thoáng lành lạnh.

Ánh mắt hai người giao nhau chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Có lẽ chưa đến một giây đồng hồ. Vài giây sau khi không hẹn mà cùng nhìn đi hướng khác, Imaeda đọc tiêu đề trên trang xã hội của tờ báo. Bài báo về việc một chiếc xe kéo cỡ lớn gây ra tai nạn trên đường cao tốc. Nhưng, anh ta vẫn không thể nào xua người đàn ông kia ra khỏi đầu. Suy nghĩ ông ta là ai cứ như đám tơ rối bù không gỡ ra nổi, dính chặt vào ý thức của anh ta.

Ông chủ mang phần ăn sáng gồm hotdog và cà phê ra. Imaeda xịt cả đống tương cà chua và tương hạt cải vào cái hotdog, cắn một miếng rõ to. Anh ta thích cảm giác lúc răng đâm xuyên qua miếng xúc xích.

Lúc ăn hotdog, Imaeda cố ý không liếc nhìn người đàn ông kia. Vì anh ta có cảm giác nếu nhìn sang, ánh mắt của hai người sẽ chạm nhau lần nữa.

Nhét miếng hotdog cuối cùng vào miệng, anh ta vừa cầm cốc cà phê lên, vừa liếc nhìn người đàn ông. Đúng lúc người đàn ông quay đầu nhìn về phía trước, chuẩn bị uống cà phê.

Từ nãy đến giờ ông ta vẫn luôn quan sát mình… Trực giác mách bảo Imaeda như vậy.

Imaeda uống hết cốc cà phê, đứng dậy, thò tay vào túi quần bò, lấy ra tờ một nghìn yên đặt lên quầy. Ông chủ lặng lẽ trả lại bốn trăm năm mươi yên.

Trong khoảng thời gian ấy, tư thế của người đàn ông gần như không thay đổi. Ông ta ngồi thẳng tắp uống cà phê, tựa như máy móc được lập trình sẵn, nhịp nhàng, đều đặn, cũng chẳng liếc mắt nhìn Imaeda nữa.

Imaeda ra khỏi quán, không bật ô mà chạy thẳng qua đường rồi lên cầu thang. Trước khi vào nhà, anh ta còn nhìn xuống quán Bolero một cái, người đàn ông đã có tuổi kia không hề đi ra.

Imaeda bật công tắc dàn âm thanh mini trên giá sắt. CD của Whitney Houston vẫn luôn để trong ổ đĩa. Một thoáng sau, hai chiếc loa trên tường liền phát ra tiếng hát đầy sức truyền cảm của nữ ca sĩ.

Anh ta cởi áo phông ra, chuẩn bị đi tắm. Tối qua sau khi từ chỗ Eri về, anh ta đi ngủ luôn, nên tóc bị bết lại.

Imaeda vừa kéo phéc mơ tuya quần bò, tiếng chuông cửa đã vang lên ngoài tiền sảnh.

Tiếng chuông thường ngày nghe đã quen tai hôm nay lại có ý nghĩa khác lạ. Imaeda không bắt máy đàm thoại. Chuông lại vang lên.

Anh ta kéo phéc mơ tuya lên, mặc áo phông vào, vừa rủa thầm trong bụng không biết đến lúc nào mới đi tắm được, vừa ra tiền sảnh mở cửa.

Người đàn ông kia đang đứng bên ngoài.

Nếu là bình thường, tình huống như vậy ắt hẳn sẽ khiến người ta kinh ngạc, nhưng Imaeda dường như hết sức bình tĩnh. Từ khi nghe thấy tiếng chuông đầu tiên, anh ta đã có linh cảm rồi.

Người đàn ông nhìn thấy Imaeda, liền nở nụ cười nhàn nhạt. Tay trái ông ta cầm ô, tay phải xách chiếc túi nhỏ màu đen mà các nhân viên thu phí thường dùng.

“Ông tìm tôi có việc gì vậy?” Imaeda hỏi.

“Anh là Imaeda phải không?” Người đàn ông nói, quả nhiên là giọng Kansai. “Imaeda Naomi… đúng không nhỉ?”

“Là tôi đây.”

“Có chút chuyện muốn hỏi thăm anh, có thể xin anh chút thời gian được không?” Âm thanh thấp trầm như thể phát ra từ bụng dưới, những nếp nhăn như dao khắc từ giữa hai chân mày lan ra toàn bộ gương mặt. Imaeda chú ý thấy, trong đó có một vết sẹo do dao chém.

“Xin lỗi, cho hỏi ông là ai ạ?”

“Tôi họ Sasagaki, từ Osaka đến.”

“Ông cất công đi xa quá. Nhưng rất xin lỗi, tôi có việc, phải ra ngoài ngay bây giờ.”

“Không tốn của anh nhiều thời gian đâu, chỉ xin anh trả lời hai ba câu hỏi là được rồi.”

“Phiền ông hôm khác quay lại, tôi thật sự đang rất vội.”

“Vội mà vẫn ngồi quán cà phê thong dong đọc báo vậy sao.” Khóe miệng người đàn ông nhếch lên.

“Tôi sử dụng thời gian của mình thế nào không liên quan gì đến ông, mời ông về cho.” Imaeda định đóng cửa lại. Người đàn ông liền nhét cán ô trên tay vào khe cửa.

“Nhiệt tình với công việc là rất tốt, có điều tôi đây cũng đang làm việc công.” Người đàn ông cho tay vào túi chiếc quần dài màu xám, lấy ra một quyển sổ chứng nhận màu đen, bên trên in hàng chữ “tỉnh Osaka”.

Imaeda thở hắt ra một hơi, lực kéo dồn vào tay nắm cửa cũng giảm đi. “Đã là cảnh sát, sao ông không nói ngay từ đầu?”

“Một số người không thích cảnh sát xưng danh ở trước cửa nhà mình… có thể hỏi anh mấy việc được không?”

“Mời vào.” Imaeda nói.

Imaeda để người đàn ông ngồi trên chiếc ghế dành cho các khách hàng rồi ngồi vào ghế của mình. Chiếc ghế dành cho khách hàng hơi thấp hơn một chút. Chỉ một trò nho nhỏ ấy thôi, đã đủ cho anh ta ở vào vị trí có lợi hơn trong lúc nói chuyện rồi. Nhưng nhìn gương mặt đầy những nếp nhăn đối diện với mình, Imaeda thầm nhủ, mánh lới này có lẽ không có tác dụng gì với ông ta.

Imaeda yêu cầu đối phương đưa danh thiếp, nhưng ông ta bảo không có. Chắc chắn ông ta nói dối, song Imaeda không muốn tranh luận về chuyện đó, bèn yêu cầu xem lại giấy tờ của ông ta.

“Hẳn là tôi có quyền ấy chứ nhỉ. Chẳng có gì chứng minh ông là cảnh sát thật cả.”

“Đương nhiên là anh có quyền lợi này, muốn xem thế nào thì tùy anh.” Người đàn ông mở giấy tờ ra, lật đến trang chứng minh thân phận. Tên ông ta là Sasagaki Junzo, gương mặt trên ảnh hơi gầy hơn một chút, nhưng xem ra là cùng một người.

“Anh đã tin chưa?” Sasagaki cất quyển sổ đi, “Hiện tôi đang công tác ở đồn cảnh sát Tây Fuse, tổ hình sự số 1.”

“Số 1? Nói như vậy, là điều tra án giết người rồi?” Thật bất ngờ. Điểm này thì Imaeda chưa hề nghĩ tới.

“Đúng vậy.”

“Nghĩa là sao? Tôi không nghe nói ở xung quanh mình có xảy ra vụ giết người nào cả.”

“Đương nhiên. Án mạng cũng có rất nhiều loại. Có một số thành chủ đề nói chuyện, một số thì chẳng ai hỏi han. Nhưng dù thế nào chăng nữa, cũng đều là án mạng.”

“Là ai, bị giết ở đâu, lúc nào?”

Sasagaki mỉm cười, những nếp nhăn trên mặt tạo thành hình dạng phức tạp.

“Anh Imaeda, có thể phiền anh trả lời câu hỏi của tôi trước được không? Sau khi anh trả lời, tôi sẽ có quà cảm ơn.”

Imaeda nhìn ông ta. Người cảnh sát hình sự già đến từ Osaka ngồi trên ghế hơi đung đưa thân mình nhưng nét mặt không có vẻ gì là dao động.

“Được thôi, ông hỏi trước. Ông muốn hỏi những gì?”

Sasagaki dựng cái ô phía trước người, hai tay đặt lên cán ô.

“Anh Imaeda, khoảng hai tuần trước, anh đã đến Osaka, loanh quanh khu vực Oe thuộc quận Ikuno, có phải không?”

Imaeda có cảm giác như thể bất thình lình bị đánh trúng điểm yếu. Từ khi biết đối phương là cảnh sát ở tỉnh Osaka, anh ta đã nghĩ đến chuyến đi Osaka vừa rồi của mình. Đồng thời, anh ta cũng nhớ ra lúc đó mình từng lên tàu ở ga Fuse.

“Sao hả?” Sasagaki hỏi lại lần nữa, nhưng vẻ mặt thì như đã biết rõ câu trả lời.

“Đúng vậy,” Imaeda đành thừa nhận, “ông nắm rõ thật.”

“Khu vực ấy, cả con mèo hoang nào mang thai tôi còn biết nữa là.” Sasagaki nhe răng cười, nhưng không có tiếng, mà lại phát ra âm thanh xẹt xẹt kỳ lạ như thể thứ gì bị xì hơi. Ông ta ngậm miệng lại, rồi mới cất tiếng nói tiếp, “Anh đến đó làm gì?”

Lần này Imaeda nhanh chóng tính toán trong đầu rồi trả lời. “Công việc.”

“Ồ, công việc. Công việc như thế nào?”

Lần này đổi lại là Imaeda nở nụ cười, anh ta muốn tỏ ra ung dung.

“Ông Sasagaki, ông biết rõ rồi còn hỏi làm gì nữa.”

“Công việc của anh hình như rất thú vị.” Sasagaki nhìn giá sắt nhét đầy hồ sơ. “Bạn tôi cũng mở văn phòng Osaka, có điều, kiếm được hay không thì tôi chẳng biết.”

“Tôi đến Osaka chính là vì công việc này.”

“Công việc của anh là đến Osaka điều tra về Karasawa Yukiho?”

Ông ta quả nhiên truy đến theo đầu mối này, Imaeda hiểu ra. Ngẫm nghĩ xem đối phương làm thế nào điều tra được mình, Imaeda không khỏi nhớ đến sự việc máy nghe trộm hôm qua.

“Nếu anh có thể cho biết tại sao lại điều tra về hoàn cảnh, môi trường trưởng thành của Karasawa Yukiho, thì tốt quá.” Sasagaki nhìn Imaeda bằng cặp mắt ba phía đều thấy tròng trắng của mình, ngữ điệu sền sệt như sợi chỉ xoắn lại với nhau.

“Ông Sasagaki này, nếu bạn ông cũng làm công việc giống tôi, chắc ông phải hiểu, chúng tôi không thể tiết lộ tên của khách hàng chứ.”

“Ý anh là, anh được ủy thác điều tra Karasawa Yukiho?”

“Vâng.” Imaeda vừa trả lời, vừa ngẫm nghĩ nguyên nhân tại sao vị cảnh sát này lại gọi Karasawa Yukiho một cách trống không như thế. Là vì rất thân thiết, hay là thói quen nghề nghiệp của cảnh sát? Hoặc giả là…

“Có liên quan đến hôn sự không?” Sasagaki đột nhiên hỏi.

“Hả?”

“Nghe nói có người cầu hôn với Karasawa Yukiho. Là người nhà của nhà trai, biết được anh ta muốn cưới một phụ nữ hình như đang lao vào đầu cơ, đương nhiên phải điều tra kỹ càng thân phận của cô ta rồi.”

“Ông đang nói gì vậy?”

“Thì là chuyện hôn nhân ấy.” Khóe miệng Sasagaki nở một nụ cười khó chịu, ánh mắt di chuyển trên bàn làm việc. “Tôi có thể hút thuốc không?” Ông ta chỉ vào gạt tàn hỏi.

“Mời ông.” Imaeda trả lời.

Sasagaki lấy trong túi áo ngực ra bao thuốc Hilite đã bị đè bẹp. Điếu thuốc rút ra đã hơi cong. Ông ta ngậm thuốc, dùng diêm châm lửa. Bao diêm có vẻ lấy ở trong quán Bolero.

Dường như muốn tỏ ra mình dư dả thời gian, viên cảnh sát chầm chậm hút thuốc. Làn khói phả ra lượn lờ bay lên, tan vào không khí.

Rõ ràng ông ta muốn để cho Imaeda có thời gian suy nghĩ. Có lẽ cái cách tung ra mấy quân bài mình có, xem đối phương phản ứng thế nào là chiêu mà ông ta rất thành thạo. Cả việc cố ý xuất hiện trong quán cà phê, ngầm ám chỉ rằng “anh luôn ở trong tầm giám sát của tôi”, để khiến những lá bài trên tay mình mạnh hơn, cũng là một hành động có tính toán. Trong đôi mắt hờ hững nhìn theo làn khói, tựa hồ ẩn chứa vô số toan tính.

Imaeda rất muốn biết nội dung những lá bài ấy là gì, tại sao cảnh sát phụ trách án mạng lại theo dõi Karasawa Yukiho? Không, nói “theo dõi” là không chính xác, người đàn ông này ắt hẳn đã nắm được một lượng lớn thông tin về tình hình hiện tại của Karasawa rồi.

“Tôi cũng biết có người cầu hôn cô Karasawa.” Imaeda ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời. “Nhưng nếu ông hỏi tôi chuyện đó và những gì tôi đang điều tra có liên quan không, thì tôi không thể trả lời có hay không được.”

Sasagaki kẹp điếu thuốc giữa hai ngón tay, gật đầu với vẻ mặt hài lòng.

Ông ta chầm chậm dụi tắt đầu thuốc vào gạt tàn.

“Anh Imaeda, anh còn nhớ trò Mario không?”

“Mario?”

“Super Mario ấy, trò chơi của trẻ con. Có điều, nghe nói gần đây cả người lớn cũng rất mê.”

“Trò chơi trên máy chơi điện tử ấy à? Có, đương nhiên là tôi nhớ.”

“Mấy năm trước sốt kinh khủng nhỉ. Đến nỗi mọi người xếp thành hàng trước cửa hàng bán đồ chơi đấy.”

“Đúng vậy.” Imaeda bối rối chêm vào. Anh ta không biết viên cảnh sát nói những lời này rốt cuộc có mục đích gì.

“Ở Osaka, có kẻ định bán bản lậu của trò chơi ấy. Bản lậu đã làm xong, chỉ đợi xuất hàng ra tiêu thụ thôi. Nhưng ở giai đoạn cuối cùng thì bị cảnh sát phát hiện. Hàng giả bị tịch thu, nhưng không tìm được kẻ đó. Gã đã mất tích.”

“Bỏ trốn rồi?”

“Lúc đó cảnh sát nghĩ như vậy. Không, giờ cũng thế. Hiện đang truy nã hắn ta.” Sasagaki mở túi xách tay, lấy ra một tờ giấy giống như tờ rơi gấp làm tư, mở ra cho Imaeda xem. Bên dưới mấy chữ quen thuộc “Nếu phát hiện người này”, là một người đàn ông tóc chải ngược ra phía sau, chừng khoảng năm mươi tuổi, tên Matsuura Isamu.

“Tôi vẫn cứ hỏi thì hơn, anh từng gặp người này chưa?”

“Chưa từng.”

“Tôi nghĩ cũng đúng.” Sasagaki gấp tờ giấy lại, cất vào trong túi.

“Ông trang truy lùng người họ Matsuura này à?”

“Đúng. Cũng có thể nói như vậy.”

“Cũng có thể nói như vậy?” Imaeda lại nhìn Sasagaki lần nữa. Khóe miệng viên cảnh sát già hơi cong lên đầy ẩn ý.

Trong khoảnh khắc, Imaeda sực hiểu ra. Một cảnh sát phụ trách các vụ án mạng không thể nào đơn thuần chỉ truy đuổi một nghi phạm làm lậu trò chơi điện tử được. Sasagaki cho rằng Matsuura đã bị giết. Ông ta đang tìm thi thể của Matsuura, cùng với hung thủ sát hại người này.

“Người đó và cô Karasawa Yukiho có quan hệ thế nào?” Imaeda hỏi.

“Có lẽ không có quan hệ trực tiếp.”

“Vậy tại sao…”

“Có người cùng biến mất với Matsuura.” Sasagak nói. “Người này cũng nhiều khả năng có liên quan đến việc chế tạo bản lậu. Mà anh ta thì có lẽ…” ông ta hơi dừng lại một chút như để lựa chọn từ ngữ, rồi mới nói tiếp, “ở đâu đó quanh Karasawa Yukiho.”

“Ở đâu đó quanh?” Imaeda hỏi. “Nghĩa là sao?”

“Thì là theo nghĩa đen đó. Chắc chắn anh ta đã trốn ở đâu đó rồi. Anh biết con tôm pháo chứ?” Viên cảnh sát lại đưa ra một câu không rõ dụng ý.

“Tôi không biết.”

“Tôm pháo biết đào hang, nó sống ở trong hang. Nhưng có một con vật khác lại muốn ở chung, đó là cá bống trắng. Có điều cá bống trắng cũng không ở không, nó sẽ tuần tra ở cửa hang, nếu có kẻ địch lại gần, thì sẽ quẫy đuôi báo cho tôm pháo trong hang. Bọn chúng hợp tác khăng khít, hình như gọi là cộng sinh cùng có lợi hay sao đó.”

“Xin gượm đã.” Imaeda hơi vươn tay trái ra. “Ý ông là, cô Karasawa Yukiho có một người đàn ông cộng sinh như thế sao?”

Nếu có thì thật ghê gớm, nhưng Imaeda không thể nào tin nổi. Cho đến hiện tại, trong quá trình điều tra, anh ta hoàn toàn không phát hiện ra bất cứ dấu vết nào của người đàn ông này.

Sasagaki nở một nụ cười đắc ý.

“Đây là tưởng tượng của tôi, không có chứng cứ gì cả.”

“Chắc hẳn phải có chứng cứ gì đó, nên ông mới tưởng tượng như vậy chứ?”

“Chẳng có gì đáng gọi là chứng cứ cả. Chỉ là trực giác của cảnh sát hình sự lâu năm thôi. Đương nhiên cũng có khả năng tôi đoán sai, thực sự không thể coi đó là thật được.”

Nói dối, Imaeda nghĩ. Nhất định ông ta có chứng cứ xác thực nào đó, bằng không sẽ tuyệt đối không đến Tokyo một mình thế này.

Sasagaki lại mở túi xách, lấy ra một tấm ảnh.

“Anh có ấn tượng gì với người này không?”

Imaeda vươn tay cầm tấm ảnh ông ta đặt trên mặt bàn làm việc lên. Người đàn ông trong ảnh hướng mặt về phía ống kính, có lẽ là ảnh chụp làm bằng lái xe. Anh ta khoảng tầm ba mươi, cằm nhọn.

Cảm giác đầu tiên của Imaeda là anh từng nhìn thấy gương mặt này. Cẩn thận không để lộ ra điều đó, Imaeda lục lọi trong ký ức. Anh ta rất giỏi nhớ mặt người khác nên tin chắc mình sẽ nhớ ra được.

Khi anh ta nhìn chằm chằm vào tấm ảnh, mây mù đột nhiên tan đi. Anh ta nhớ rõ mình từng gặp người đàn ông trong ảnh ở đâu. Tên họ, nghề nghiệp, địa chỉ… toàn bộ đều hiện ra trong một cái nháy mắt. Cũng trong khoảnh khắc đó, anh ta suýt chút nữa thì kêu lên thành tiếng, vì người này thật ngoài sức tưởng tượng. Anh ta gần như muốn thể hiện sự ngạc nhiên của mình ngay tại chỗ, nhưng cố nén lại được.

“Người này chính là đối tượng cộng sinh của cô Karasawa Yukiho?” Anh ta hỏi như thể không hề có chuyện gì.

“Khó nói lắm, anh có ấn tượng không?”

“Hình như có, nhưng cũng hình như không.” Imaeda cầm tấm ảnh trên tay, cố ý lẩm bẩm một mình. “Tôi muốn xác nhận lại một chút, có thể sang phòng bên cạnh chốc lát không? Tôi cần đối chiếu tư liệu.”

“Tư liệu gì?”

“Tôi sẽ mang qua, phiền ông đợi cho một lát.” Imaeda không đợi Sasagaki trả lời đã đứng dậy, vội vàng đi vào phòng bên cạnh, khóa cửa lại.

Đây vốn là phòng ngủ của anh ta, nhưng cũng được dùng luôn làm phòng tối. Có thể rửa ảnh đen trắng ở đây. Anh ta cầm chiếc Polaroid chụp được ở khoảng cách gần trên giá để thiết bị chụp ảnh. Kiểu máy này để hiện ảnh cần phải xé tách hai mặt trước và sau của tấm ảnh ra.

Imaeda đặt tấm ảnh xuống sàn, tay cầm máy ảnh, vừa nhìn qua ống ngắm, vừa chỉnh tiêu cự bằng cách điều chỉnh khoảng cách. Vì điều chỉnh ống kính còn tốn thời gian hơn.

Anh ta ấn nút cửa chập ở tiêu cự chuẩn, ánh sáng flash lóe lên.

Anh ta rút tấm phim ra, trả máy ảnh về vị trí cũ, khe khẽ vung vẩy, tay kia vươn ra lấy một tập hồ sơ dày cộp trên giá sách. Trong đó là những bức ảnh chụp để điều tra về Karasawa Yukiho. Anh ta nhanh chóng lật giở, xác nhận nếu cho Sasagaki xem thì có vấn đề gì hay không.

Imaeda liếc nhìn đồng hồ, thấy đã hơn mười giây trôi qua, bèn xé mặt trên của tấm giấy ảnh đi. Pô ảnh rất thành công, cả những vết dơ nhỏ trên ảnh gốc cũng được chụp hoàn hảo.

Anh ta cất tấm ảnh vào ngăn kéo, cầm ảnh gốc và tập hồ sơ ra khỏi phòng.

“Xin lỗi đã để ông đợi.” Imaeda đặt tập hồ sơ lên bàn làm việc. “Tôi tưởng là đã nhìn thấy rồi, nhưng hóa ra lại nhầm. Thật đáng tiếc, tôi không biết.”

“Tập hồ sơ này là…” Sasagaki hỏi.

“Tư liệu điều tra về cô Karasawa Yukiho. Có điều, cũng không có tấm ảnh nào quan trọng cả.”

“Có thể cho tôi mượn xem không?”

“Xin mời. Có điều, tôi không thể giải thích rõ từng tấm ảnh một, mong ông thông cảm.”

Sasagaki lần lượt xem xét kỹ càng những tấm ảnh trong tập hồ sơ. Có một số tấm chụp ở gần nhà mẹ đẻ Karasawa Yukiho, có tấm thì chụp trộm nhân viên môi giới của công ty chứng khoán.

Xem xong, Sasagaki ngẩng đầu lên. “Những bức ảnh thú vị lắm.”

“Có giúp gì được ông không?”

“Nếu thuần túy điều tra đối tượng kết hôn thì đúng là rất đặc biệt. Ví dụ, tôi không hiểu sao phải chụp lại cả khi Karasawa Yukiho ra vào ngân hàng?”

“Chuyện này thì tùy ông suy đoán thôi.”

Trên thực tế Karasawa Yukiho có thuê một két bảo hiểm trong ngân hàng ấy. Imaeda phải bám sát theo dõi mới tra ra được. Chụp ảnh lúc trước và sau khi vào ngân hàng, là để quan sát xem có gì thay đổi trên người cô ta không. Ví dụ nếu lúc đi ra cô đeo sợi dây chuyền mà lúc đầu không đeo, thì chứng tỏ món đồ ấy được cất giữ trong két bảo hiểm. Tuy đây là một cách rất đơn giản, nhưng cũng là một trong những phương pháp để điều tra tài sản.

“Anh Imaeda, anh có thể hứa với tôi một chuyện không?”

“Chuyện gì ạ?”

“Sau này khi anh tiếp tục điều tra, nếu như nìn thấy người này…” Nói đoạn, Sasagaki cầm tấm ảnh vừa nãy lên. “Nếu như nhìn thấy người trong tấm ảnh này, nhất thiết phải thông báo với tôi, càng nhanh càng tốt.”

Ánh mắt của Imaeda di chuyển giữa tấm ảnh và gương mặt đầy nếp nhăn của Sasagaki.

“Vậy thì, xin hãy cho tôi biết một chuyện.” Anh ta nói.

“Chuyện gì?”

“Họ tên. Xin cho tôi biết tên của người này, ngoài ra, cả địa chỉ cuối cùng của anh ta nữa.”

Trước yêu cầu của Imaeda, lần đầu tiên Sasagaki tỏ vẻ do dự.

“Nếu anh tìm thấy anh ta, tư liệu về anh ta anh muốn bao nhiêu tôi cho anh bấy nhiêu.”

“Tôi muốn biết tên và địa chỉ của người đàn ông đó ngay bây giờ.”

Sasagaki chăm chú nhìn Imaeda mấy giây rồi gật đầu. Ông xé một tờ giấy nhớ trên bàn làm việc, cầm cái bút gắn kèm với tập giấy nhớ viết viết gì đó, rồi đặt trước mặt Imaeda.

“Kirihara Ryoji, 2-x-x Nihonbashi, quận Chuuou, thành phố Osaka, MUGEN.”

“Kirihara Ryoji… MUGEN là cái gì?”

“Cửa hàng máy tính hồi trước Kirihara mở ra.”

“Ồ.”

Sasagaki lại viết thêm gì đó lên một tờ giấy khác, rồi cũng đặt trước mặt Imaeda. Bên trên có viết “Sasagaki Junzo” và một dãy số. Chắc là có ý bảo anh ta hãy gọi vào số này.

“Tôi quấy rầy lâu quá rồi, lại đang lúc anh chuẩn bị ra ngoài làm việc. Rất xin lỗi đã làm phiền anh.”

“Đâu có.” Imaeda thầm nghĩ, rõ ràng là ông ta biết mình không có kế hoạch công việc. “Mà sao ông biết tôi đang điều tra Karasawa Yukiho?”

Sasagaki mỉm cười. “Những chuyện kiểu này đi hỏi han một chút là biết ngay.”

“Đi hỏi han? Không phải là nghe qua máy thu thanh sao?” Imaeda làm động tác vặn nút điều chỉnh tần số thiết bị nghe trộm.

“Máy thu thanh? Anh đang nói gì vậy?” Sasagaki lộ vẻ kinh ngạc. Nếu đang diễn kịch thì kỹ năng diễn xuất của ông ta thật sự quá cao rồi. Imaeda nhận định có vẻ không phải đối phương đang giả bộ.

“Không, không có gì.”

Sasagaki chống cái ô như chống gậy ba toong đi ra cửa. Nhưng trước khi mở cửa, ông ta ngoảnh đầu lại nói.

“Có thể anh sẽ nghĩ tôi nhiều chuyện, có điều, tôi có câu này rất muốn nói cho người ủy thác anh điều tra Karasawa Yukiho.”

“Câu gì vậy?”

Khóe miệng Sasagaki hơi cong cong.

“Tốt nhất là từ bỏ người phụ nữ đó đi, cô ta không phải loại hồ ly tinh bình thường đâu.”

“Vâng.” Imaeda gật đầu. “Tôi biết.”

Sasagaki cũng gật đầu, mở cửa bước ra ngoài.

4

Một đám phụ nữ trông như vừa tan học ở một trường nữ công gia chánh nào đấy chiếm mất hai chiếc bàn. Imaeda rất muốn đổi chỗ, nhưng người hẹn anh ta giờ này chắc đã rời khỏi văn phòng. Anh ta đành chọn chiếc bàn cách xa đám người đó nhất. Độ tuổi trung bình của những người phụ nữ đó khoảng trên dưới bốn mươi. Trên bàn ngoài các loại đồ uống, còn có cả đĩa sandwich và mì Ý. Thời gian là một giờ rưỡi chiều, Imaeda vốn nhắm vào thời điểm giờ nghỉ trưa vừa kết thúc, quán cà phê hẳn rất vắng vẻ, không ngờ lại tính sai. Chắc hẳn, sau giờ học ở trường nữ công gia chánh, đến đây vừa ăn cơm vừa tán chuyện gia đình là niềm vui lớn nhất của đám phụ nữ này.

Imaeda uống được hai ngụm cà phê thì Masuda Hitoshi bước vào quán. Thoạt nhìn anh ta hơi gầy hơn thời họ còn làm chung với nhau. Anh ta mặc áo sơ mi cộc tay, đeo cà vạt màu xanh thẳm, trên tay cầm một phong bì lớn.

Anh ta nhanh chóng thấy Imaeda, bèn rảo bước lại gần.

“Lâu lắm không gặp.” Nói đoạn, anh ta ngồi xuống phía đối diện, nhưng lại nói với nhân viên phục vụ nữ đang đi tới.

“Không cần đâu, tôi đi ngay đây.”

“Xem ra anh vẫn bận như vậy nhỉ.” Imaeda nói.

“Phải rồi.” Masuda lạnh lùng đáp, tâm trạng rõ ràng không được tốt cho lắm. Anh ta đặt cái phong bì lên bàn. “Như vậy được không?”

Imaeda cầm phong bì lên xem, bên trong là khoảng hơn hai mươi tờ giấy in khổ A4. Anh ta giở ra xem lướt nội dung, rồi gật mạnh đầu. Những thứ này anh ta từng xem qua rồi, một số còn là bản sao của những gì chính tay anh ta viết ra nữa.

“Được rồi. Thật ngại quá, làm phiền anh nhiều rồi.”

“Tôi nói trước cho rõ nhé, sau này đừng nhờ tôi giúp anh làm những chuyện thế này nữa. Cho người ngoài xem tài liệu của công ty nghĩa là sao, anh làm thám tử bao nhiêu năm như thế, không lý nào lại không biết.”

“Xin lỗi, chỉ có lần này thôi.”

Masuda đứng dậy, nhưng không đi ngay ra cửa, mà cúi đầu nhìn Imaeda hỏi.

“Đến giờ anh lại muốn lấy những thứ này, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Tìm được đầu mối mới của vụ dang dở ấy rồi à?”

“Không, chỉ là có chuyện này muốn xác nhận lại.”

“Hừm, sao cũng được.” Masuda bước đi. Anh ta chắc chắn không tin lời Imaeda, nhưng dường như cũng không muốn nhúng tay vào những chuyện bên ngoài công việc.

Nhìn Masuda rời khỏi quán cà phê, Imaeda lại giở tập tài liệu ra. Những ngày tháng của ba năm về trước lập tức hiện lên trong tâm trí anh ta. Đây chính là bản sao báo cáo điều tra mà người của công ty Thiết bị điện Tozai yêu cầu họ thực hiện lúc đó.

Khi ấy, nguyên nhân lớn nhất khiến cuộc điều tra thất bại là bọn họ từ đầu chí cuối vẫn không có cách nào tra ra được thân phận thực sự của nhân vật Akiyoshi Yuichi thuộc công ty Mamorix. Họ không biết gì về tên thật lẫn lý lịch hay nguồn gốc xuất thân của anh ta.

Thế nhưng, mới mấy ngày trước, Imaeda lại biết được thân phận thực sự của Akiyoshi từ một nguồn bất ngờ. Người đàn ông trong tấm ảnh Sasagaki cho anh ta xem, Kirihara Ryoji, chính là Akiyoshi Yuichi mà anh ta đã từng theo dõi một thời gian dài.

Không chỉ trùng khớp với lý lịch của người từng kinh doanh cửa hàng chuyên bán máy vi tính kia, mà cả thời gian Kirihara biến mất ở Osaka với thời gian Akiyoshi vào công ty Memorix cũng trùng khớp.

Thoạt tiên, Imaeda cho rằng đây thuần túy chỉ là sự trùng hợp. Anh ta cho rằng nếu làm công việc này trong thời gian dài, có thể xảy ra trường hợp biết được thân phận của một người nào đó họ điều tra trong quá khứ, qua một cuộc điều tra khác vài năm sau đó.

Nhưng khi tiến hành sắp xếp lại các dữ kiện trong đầu, anh ta lại nhận ra không phải như thế. Càng nghĩ anh ta càng thấy đây không phải là trùng hợp, cuộc điều tra mà công ty Thiết bị điện Tozai ủy thác và cuộc điều tra lần này, thực ra có liên quan với nhau về gốc rễ.

Sở dĩ anh ta được Shinozuka yêu cầu tiến hành điều tra Karasawa Yukiho, là vì anh ra đã gặp Takamiya Makoto ở sân tập đánh golf. Vậy tại sao anh ta lại đến sân tập đánh golf ấy? Đó là vì ba năm trước, khi bám theo Akiyoshi, anh ta từng đến nơi này. Anh ta cũng biết đến Takamiya vào thời điểm đó. Takamiya thân thiết với cô gái tên Misawa Chizuru mà Akiyoshi theo dõi kia. Và vợ của Takamiya Makoto ở thời điểm đó, lại chính là Karasawa Yukiho.

Viên cảnh sát Sasagaki hình dung Kirihara Ryoji như là đối tượng cộng sinh cùng có lợi của Karasawa Yukiho. Tay cảnh sát lão thành ấy nói như vậy, nhất định là có căn cứ nào đó. Imaeda đặt giả thiết quan hệ của Kirihara và Karasawa Yukiho trên thực tế rất thân thiết, nên đã lần lại cuộc điều tra ba năm trước. Và điều gì đã xảy ra?

Hết sức đơn giản, đáp án hiện ra ngay lập tức. Chồng Yukiho làm việc ở phòng Bản quyền sáng chế của Thiết bị điện Tozai, nắm trong tay các thông tin kỹ thuật của công ty. Anh ta có thể tiếp xúc với những thông tin bảo mật cao nhất. Công ty đương nhiên sẽ cho anh ta tên dùng và mật mã để dùng máy tính tra tìm các số liệu cơ mật. Chỉ có điều, tuyệt đối không thể để cho người ngoài biết được thông tin đăng nhập. Chắc chắn Takamiya cũng tuân thủ quy định này. Thế nhưng, với vợ mình thì sao chứ? Vợ anh ta liệu có biết được tên đăng nhập và mật mã của chồng hay không?

Ba năm trước, Imaeda đã nhiều lần muốn tìm ra mối liên quan giữa Akiyoshi Yuichi và Takamiya Makoto, nhưng hoàn toàn không có thu hoạch gì. Họ làm sao có thể tìm được. Bởi vì lẽ ra họ phải coi Takamiya Yukiho là mục tiêu.

Như vậy Imaeda lại nảy sinh một nghi vấn khác. Đó là quan hệ giữa Misawa Chizuru và Takamiya Makoto. Akiyoshi, cũng chính là Kirihara, tại sao lại theo dõi Chizuru?

Có thể suy luận rằng Yukiho đề nghị anh ta điều tra việc chồng mình ngoại tình. Thế nhưng, cách suy luận này có quá nhiều điểm bất hợp lý. Tại sao cô ta phải nhờ Kirihara? Nếu muốn điều tra ngoại tình, thì bình thường phải theo dõi Takamiya mới phải chứ. Việc anh ta theo dõi Misawa Chizuru, có lẽ bởi bọn họ đã xác định cô gái này chính là đối tượng mà Takamiya ngoại tình rồi. Nếu vậy, việc gì phải tiếp tục điều tra nữa?

Imaeda vừa nghĩ ngợi, vừa xem bản sao tài liệu Masuda đưa cho. Lúc sau, anh ta chú ý đến một chuyện khó hiểu nữa.

Lần đầu tiên Kirihara bám theo Misawa Chizuru đến sân tập đánh golf Eagles là vào tháng Tư của ba năm trước. Khi đó, Takamiya Makoto vẫn chưa xuất hiện ở sân tập golf này. Hai tuần sau, Kirihara lại đến sân tập golf lần nữa. Lúc này, Takamiya Makoto mới lần đầu tiên xuất hiện trong tầm mắt của Imaeda. Takamiya Makoto và Misawa Chizuru trò chuyện có vẻ thân mật.

Sau bận đó, Kirihara không đến sân tập golf lần nào nữa, nhưng Imaeda lại tiếp tục theo dõi Misakawa Chizuru và Takamiya Makoto. Chỉ cần truy ngược lại những ghi chép lúc đó, là có thể nhận ra rõ ràng quan hệ của họ ngày một thân mật hơn. Đến khoảng thượng tầng tầng tháng Tám khi cuộc điều tra bị đình chỉ, bọn họ đã hoàn toàn rơi vào quan hệ ngoại tình.

Nhưng đây chính là điểm làm cho người ta khó hiểu. Biết rõ quan hệ của hai người họ càng lúc càng sâu đậm, nhưng Yukiho lại không có bất cứ hành động nào sao? Không lý nào cô ta lại không biết gì về chuyện này. Chắc chăn cô ta đã có thông tin thông qua Kirihara rồi.

Imaeda đưa cốc lên miệng, cà phê đã nguội. Anh ta nhớ ra cách đây không lâu cũng từng uống thứ cà phê nguội thế này, chính là lần gặp mặt với Shinozuka trong quán cà phê ở Ginza

Trong khoảnh khắc, một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong óc anh ta. Đó là một giả thiết ở góc độ hoàn toàn khác hẳn… nếu Yukiho muốn chia tay với Takamiya thì sao?

Chuyện này không phải không có khả năng. Nếu mượn lời Kawashima Eriko thì ngay từ đầu, Takamiya hẳn đã không phải người Yukiho yêu nhất.

Đang muốn chia tay với chồng thì vừa khéo anh ta lại phải lòng một phụ nữ khác. Nếu đã thế, thì hãy đợi quan hệ này phát triển thành ngoại tình đi. Liệu có phải Yukiho nghĩ như vậy không?

Không, Imaeda thầm lắc đầu, người phụ nữ ấy không phải loại người nghe theo số mệnh.

Nếu cuộc gặp gỡ giữa Misawa Chizuru và Takamiya cùng với tiến triển sau này, đều nằm trong kế hoạch của Yukiho?

Không thể nào, nhưng Imaeda ngay lập tức lại cảm thấy, có thể. Người phụ nữ tên Karasawa Yukiho này có một điều gì đó, khiến người ta không sao dùng một câu “không thể nào” để mà phủ định.

Thế nhưng, vẫn còn một nghi vấn: tình cảm con người dễ dàng bị điều khiển vậy sao? Cho dù là Misawa Chizuru có là cô gái đẹp nhất thế gian chăng nữa, cũng không thể đảm bảo bất cứ người nào cũng đều phải lòng cô được.

Nhưng nếu là người mình đã yêu từ trước thì lại là chuyện khác.

Imaeda ra khỏi quán cà phê, liền tìm một bốt điện thoại công cộng. Anh ta vừa nhìn cuốn sổ ghi chép vừa nhấn số. Điện thoại gọi đến trụ sở chính ở Tokyo của công ty Thiết bị điện Tozai. Anh ta xin gặp Takamiya Makoto.

Sau khi đợi một lúc, trong ống nghe vang lên giọng của Takamiya, “A lô, tôi là Takamiya.”

“A lô, tôi là Imaeda. Tôi xin lỗi vì làm phiền lúc anh đang làm việc.”

“Ồ.” Giọng nói có vẻ bối rối. Có lẽ người bình thường đều không mong muốn có thám tử gọi điện đến nơi làm việc.

“Mấy hôm trước thật là ngại quá, anh bận như vậy mà vẫn quấy rầy.” Anh ta mào đầu bằng lời xin lỗi vì đã hỏi thăm chuyện Karasawa Yukiho mua cổ phiếu trước đó. “Thực ra, tôi còn muốn hỏi thăm anh một chuyện nữa.”

“Chuyện gì vậy?”

“Tôi mong được gặp trực tiếp.” Anh ta không tiện nói qua điện thoại rằng tôi muốn hỏi về quá trình quen biết giữa anh và người vợ hiện tại.

“Tối nay hoặc tối mai, không biết anh có rảnh không?”

“Tối mai thì không vấn đề.”

“Vậy mai tôi gọi lại cho anh, được không nhỉ?”

“Được thôi. À, đúng rồi, anh Imaeda, có chuyện này tôi phải nói với anh.”

“Chuyện gì thế?”

“Thực ra, anh ta hạ giọng, “mấy ngày trước, có cảnh sát đến tìm gặp tôi, là một viên cảnh sát hình sự tuổi đã khá cao ở Osaka.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Ông ta hỏi tôi, gần đây có người nào hỏi tôi chuyện của vợ trước không nên tôi đã nói tên của anh cho ông ta. Như vậy liệu có sao không?”

“À, thì ra là thế…”

“Đúng là đã gây phiền phức cho anh à?”

“Không có gì đâu, chuyện không sao cả đâu. À, anh cũng nói cả nghề nghiệp của tôi cho ông ta luôn chứ?”

“Vâng.” Takamiya trả lời.

“Tôi biết rồi. Được, tôi sẽ tự tính toán. Không làm mất thời gian của anh nữa.” Dứt lời, Imaeda gác máy điện thoại.

Thì ra còn đầu mối này nữa, Imaeda lầm bầm, sao mình lại không nghĩ ra nhỉ. Thì ra Sakagaki không cần phải tốn chút công sức nào đã tìm ra được mình rồi.

Như vậy bộ máy nghe trộm kia là do ai lắp đặt?

Tối muộn Idaema mới về đến căn hộ. Sau khi đi suốt cả ngày vì một công việc khác, anh ta còn ghé qua một nơi lâu lắm không đến, quán rượu mà Sugawara Eri làm việc.

“Từ hôm đó, em ở trong nhà là nhất định phải móc dây bảo hiểm vào.” Eri còn nói, theo cô cảm giác được thì không có dấu hiệu đột nhập vào nơi ở của cô lần nào nữa.

Phía trước khu nhà có một chiếc xe thùng màu trắng lạ đang đỗ. Imaeda vòng qua chiếc xe ấy, đi vào trong khu nhà, leo lên cầu thang. Người anh ta nặng nề, thậm chí chỉ nhấc chân lên thôi cũng cảm thấy khó khăn.

Đến trước cửa phòng, lúc móc túi định lấy chìa khóa mở cửa, anh ta nhìn thấy trên hành lang có một chiếc xe đẩy nhỏ và một thùng các tông đã gấp lại kê dựa vào tường. Cái thùng khá to, có thể nhét vừa cả chiếc máy giặt. Anh ta thầm nhủ, ai để đây vậy nhỉ? Nhưng cũng không quan tâm lắm. Dân cư ở trong tòa nhà này chẳng ai có ý thức tập thể, vứt rác ngay ngoài hành lang là chuyện cơm bữa, huống hồ chính bản thân anh ta cũng chẳng phải loại khách thuê nhà mẫu mực gì cho cam.

Anh ta rút xâu chìa khóa ra, tra chìa vào ổ, xoay sang phải, cùng lúc nghe thấy tiếng lách cách, bàn tay cũng có cảm giác ổ khóa đã mở ra.

Lúc này, anh ta đột nhiên cảm thấy có gì đó bất ổn, chìa khóa dường như khác với thường ngày. Imaeda ngẫm nghĩ chừng một hai giây, rồi mở cửa ra. Anh ta nghĩ chắc đó chỉ là cảm giác.

Imaeda bật đèn lên, đảo mắt một vòng quanh phòng, không có gì khác lạ. Căn phòng vẫn lạnh lẽo như thường ngày, vẫn phủ một lớp bụi như thường ngày. Mùi thuốc xịt phòng cố ý để hơi nồng nặc hòng xua đi mùi hôi cơ thể của đàn ông cũng như thường ngày.

Anh ta để đồ trên ghế, đi vào buồng vệ sinh. Imaeda đã ngà ngà say, cảm giác khá thoải mái, hơi buồn ngủ, hơi biếng nhác.

Lúc bật đèn buồng vệ sinh lên, anh ta phát hiện quạt thông gió đang bật. Imaeda lấy làm ngạc nhiên, mình lại lãng phí như vậy sao?

Mở cửa, nắp bồn cầu đang đậy, điều này cũng khiến anh ta thắc mắc. Anh ta không có thói quen đậy nắp bồn cầu, bình thường cả cái nệm ngồi cũng chẳng buồn bỏ xuống nữa.

Đóng cửa lại, anh ta mở nắp bồn cầu ra.

Đột nhiên, “chuông báo động” trên người anh ta bắt đầu kêu lên.

Imaeda cảm nhận được một sự nguy hiểm bất thường đang ập đến tấn công mình. Anh ta nghĩ phải đậy nắp bồn cầu lại, rồi nhanh chóng lao ra ngoài…

Nhưng cơ thể đã không nhúc nhích nổi nữa, cũng không phát ra được âm thanh nào. Đừng nói là kêu lên thành tiếng, thậm chí hít thở cũng hết sức khó khăn, lá phổi dường như không thuộc về anh ta nữa.

Khung cảnh trước mắt Imaeda bắt đầu lắc lư dao động dữ dội, rồi xoay một vòng lớn. Anh ta cảm giác dường như thân thể mình đụng phải thứ gì đó. Nhưng anh ta không thấy đau đớn. Tất cả cảm giác đều bị tước đoạt trong chớp mắt. Anh ta dốc hết sức cử động chân tay, nhưng chẳng thể nhúc nhích nổi một đầu ngón tay.

Anh ta có cảm giác như có người đứng cạnh mình. Có lẽ đó cũng chỉ là ảo giác.

Tầm nhìn dần dần bị bóng tối bao phủ.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ