Herbert lẻn khỏi phòng ngủ khi mặt trời vẫn còn chưa lặn và cả lâu đài vẫn đang chìm trong giấc ngủ sâu. Cậu đã vẽ ra một tấm bản đồ vào đêm qua, chỉ rõ rằng cách duy nhất để thoát khỏi lâu đài là thông qua cửa sau nhà bếp, bởi cửa chính thường luôn khóa kín và chìa khóa thì nằm trong tay lão quản gia. Herbert vẫn cảm thấy khó mà quen được với lão. Cậu bé con rùng mình với ý nghĩ, ít ra quản gia Koukol không xấu tính với cậu như Ludwig, nhưng vượt qua mặt lão giữa ban ngày ban mặt cũng không dễ dàng gì.
Mỗi buổi trưa muộn, Koukol sẽ tự thưởng cho bản thân một ít bánh bích quy và trà, Herbert nhận thấy. Cậu bé cũng nhận ra rằng mình phải đánh lạc hướng lão khỏi chỗ ngồi ưa thích bên cửa sổ bếp, bởi nếu không thì cậu không cách nào trốn đi mà không bị phát hiện, mà cặp mắt của Koukol lại tinh như mắt diều hâu. Hít một hơi sâu, Herbert, từ trong chỗ nấp bên phía chạn bếp, cầu nguyện kỹ năng dùng ná bắn chim của mình được hữu dụng và lấy một hòn sỏi trong túi ra, rồi bắn nó về phía bên kia của nhà bếp. Viên sỏi lao nhanh vào hành lang cạnh bên và rơi trúng vào cái bình trên kệ, khiến nó chao đảo rồi sớm rơi vỡ toang. Koukol lập tức bị đánh động bởi âm thanh đó, lão nhanh chân chạy về phía hiện trường và Herbert biết đã đến lúc cậu nhại lại tiếng chuột kêu, bởi dù rằng mắt Koukol vẫn còn tốt, thính giác của lão lại không. Kế hoạch thành công và trong khi lão quản gia già lúi húi tìm lũ chuột, Herbert nhảy ra hỏi chỗ nấp mà lao nhanh ra cửa sau, thậm chí còn có đủ thời gian để mà trộm mất vài cái bánh quy bơ đặt trên đĩa.
Ráng chiều vàng dần ngả sắc tím khi Herbert chạy ra đến vườn. Đêm đông kéo đến nhanh, cậu bé trèo lên bức tường đá trong một sự nỗ lực đến nghẹt thở. Cậu nắm rõ khu vườn trong lòng bàn tay, và nhờ vậy, cậu biết chắc rằng mấy mỏm đá trang trí nhô ra tên tường sẽ giúp ích rất nhiều. Herbert giỏi leo trèo, không chút khó khăn cậu sớm leo lên được đến thành tường đá, nhìn ngắm ra thế giới với một niềm vui thích ánh lên trong mắt mình.
Trời dần tối.
.
.
Khi Johannes nhận ra chuyện gì đang diễn ra thì đã quá muộn. Herbert giữ thăng bằng trên thành tường cao, rồi trong chớp mắt đã nhảy xuống như thể đó là việc cuối cùng cậu phải làm. Johannes hét to, nhảy lên không trung và bay qua khỏi bức tường đá để đuổi theo con trai mình, nhưng ông đã không kịp khi trên nền tuyết dày chỉ còn lại những dấu chân mà rõ ràng không thể thuộc về Herbert. Chúng dần biến thành một đường zigzag kỳ lạ và trải dài đến con đường lớn lát sỏi, hướng về phía ngôi làng.
Johannes đuổi theo sau. Hết tốc lực ông theo dấu vết được để lại, nhưng dường như đã chậm một bước so với kẻ thù. Kẻ bắt cóc không dừng lại tại bất kỳ ngôi nhà nào, và dấu vết dẫn ông đến tận nhà ga xe lửa ở dưới chân núi. Một chuyến xe đang chuẩn bị khởi hành, như thể kẻ bắt cóc đã lên kế hoạch tỷ mỷ cho mọi thứ, từ ống khói tàu phun lên từng cột khói đen cuồn cuộn và hơi nước rít lên liên hồi, tiếng còi vang lên nhức óc, báo hiệu đã đến giờ lăn bánh. Johannes lách mình qua đám đông trong nhà chờ mà nhảy lên toa tàu cuối cùng vừa kịp lúc, nơi mà ông thề mình đã thấy con trai bị kéo lên.
Trên tàu không nhiều hành khách, sự im lặng bao trùm khiến họ càng chú ý hơn đến tiếng động mà người vừa trèo lên gây ra. Johannes chỉnh đốn lại bản thân mình trước những ánh nhìn dòm ngó, không để tâm đến sự chuyển động của chiếc tàu, ông đảo mắt nhìn quanh toa để đảm bảo rằng kẻ thù của mình đương không giả dạng thành một trong những con người kia.
“Thưa ông, xin vui lòng xuất trình vé.”
Một bàn tay chắc nịch vỗ lên vai Johannes, dừng ông lại. Nhân viên soát vé đang nhìn ông chờ đợi, tay kia xòe ra đòi xem vé. Johannes hẵng vẫn còn đang thở dốc, liền giả vờ sục sạo túi áo khoác và túi quần mình để tìm một thứ mà ông vốn dĩ chẳng hề có.
“Tôi e là tôi đánh mất nó rồi.” Ông nói dối, biểu cảm gương mặt đáng thương nhất có thể với người nhân viên. “Có cách nào để tôi mua một tấm vé mới không?”
Người nhân viên lắc đầu, “Tôi rất tiếc, thưa ông, nhưng chúng tôi không bán vé trên tàu.”
“Thế, anh định đá tôi xuống tàu hay sao?”
“Dù rằng vài người trong chúng tôi rất muốn làm thế với bọn nhà quê, nhưng không, chúng tôi sẽ không làm thế.” Người nhân viên cười khẩy. “Ông trả phí phạt rồi đi với tôi. Chúng tôi sẽ thả ông xuống ở trạm kế.”
“Được thôi, quý ông. Đây.” Johannes gật đầu và đưa vài đồng vàng cho người nhân viên, khiến ánh mắt anh ta ánh lên với vẻ gì đó như lòng tham và khóe môi cong lại. Johannes làu bàu, “Và tôi không phải người nhà quê.”
“Tôi hiểu rồi.” Người nhân viên dè bỉu, đếm số đồng vàng trong tay. Chúng không chỉ trả đủ cho khoản phí phạt, mà còn dư thừa để họ làm vài chầu ra trò. Anh ta chậc lưỡi, “Nhưng ông vẫn phải đi cùng tôi.”
Dứt lời, anh ta kéo tay Johannes đi. Johannes thoạt đầu chấp thuận, dự định sẽ đánh lạc hướng anh ta khi chỉ có hai người họ với nhau, nhưng trong chớp mắt ông lại trông thấy hình bóng của một đứa bé với mái tóc trắng quen thuộc. Cậu bé con trông khốn khổ vô cùng bị kéo theo sau một người đàn ông, và họ biến mất vào toa tàu liền kề trước mắt.
Johannes không thể để người đàn ông kia đi như thế được.
“Này!”
Tiếng đàn ông la hét vang lên khi Johannes vùng tay khỏi người nhân viên và chạy qua toa tàu kế tiếp, nhanh đến nỗi hất tung cánh cửa toa chỉ bằng một cú huých tay. Mỗi lúc một thêm nhân viên được gọi đến để ngăn ông lại, họ đồng loạt lao vào ông, và đồng loạt ấn ông xuống sàn.
“Thả tôi ra! Tên kia đang giữ con trai tôi!”
Johannes gầm lên, vùng vẫy khỏi sự kìm kẹp trên tay, lưng và chân mình. Có ít nhất năm nhân viên bảo vệ đang giữ ông, nhưng Johannes dễ dàng hất họ đi trước ánh nhìn kinh ngạc của tất cả hành khách và chạy thoát. Sự việc ầm ĩ đến tai người đàn ông lạ mặt kia và hắn nhận ra Johannes, lập tức hắn bế thốc cậu bé con qua vai mình mà chạy băng băng qua các toa tàu nối tiếp nhau, chẳng buồn ngoảnh lại mỗi khi hắn va phải ai hay hất đổ món gì xuống. “Mọi người, hắn cướp con trai tôi!” Hắn có thể nghe được tiếng gầm của Johannes ngay sát tai mình.
“Asmodeus!”
Johannes thở dốc khi kẻ thù đã bị dồn vào đường cùng ngay trước buồng lái. Cậu bé trong tay kẻ kia bắt đầu khóc toáng lên và cố gắng bỏ chạy, nhưng Asmodeus túm lấy tóc cậu và khiến cậu ré to hơn. Hắn có vẻ phấn khích khi Johannes chợt trở nên nao núng trước cảnh tượng.
“Thả nó ra.” Johannes ra lệnh, nhưng giọng ông ấy tuyệt vọng, đúng hơn là cầu xin, khi ánh nhìn của ông chuyển từ kẻ thù qua đứa con đang nức nở. Herbert ngúng nguẩy vô vọng để thoát thân, chỉ để tóc mình bị kéo mạnh hơn và đôi chân cậu từ bỏ. Cậu bé rên rỉ:
“Cha ơi, cứu con…”
“Không sao cả, mein Liebling. Mọi chuyện sẽ ổn thôi.” Johannes lập tức an ủi, rồi lại hướng mặt về phía Asmodeus. “Thả thằng bé ra. Ta sẽ làm mọi điều ngươi muốn… Làm ơn.”
Asmodeus bật cười, chất giọng chua chát tan vào tiếng ầm ầm của động cơ. “Ôi chà, Bá tước von Krolock kiêu hãnh, bây giờ lại chẳng khác gì một con chó cầu xin dưới chân ta.” Hắn phỉ nhổ và cười rộng. “Nhưng ta e là mình đã hết lòng nhân từ để cho ngươi cái ân huệ đó rồi. Mắt đền mắt. Huyết đồng đổi lấy huyết đồng.”
“Asmodeus, tên khốn nạn…”
“Nào, nào, giữ sức đi. Ngươi sẽ cần nó để đối phó với bọn lính gác kia đấy.”
Asmodeus thè lưỡi ra bông đùa, khi tiếng bước chân và la lối phía sau mỗi lúc một gần hơn. Hắn không tỏ chút gì sợ sệt khi Johannes lao đến mình, hắn tránh người sang bên và mở cửa toa, và trong chớp mắt, cùng Herbert hắn nhảy khỏi chuyến tàu vẫn còn đang chạy. “Herbert!”