Đêm Giữa Ban Ngày - Chương 5

Năm 1956 được ghi lại trong trí nhớ của tôi như một năm đầy sự kiện.

Tôi ở trong một căn phòng ba người trên tầng thứ tư của ký túc xá sinh viên Trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô nằm ở phía Bắc Moskva.

Ký túc xá của chúng tôi không lớn, nhưng lúc nào cũng nhộn nhịp tiếng chân người ngoài hành lang, những cuộc tranh luận nghệ thuật thâu đêm suốt sáng. Ðó là thời gian của những giọng ca vàng Imma Sumak, Yves Montand, Robertino Loretti (1), những bộ phim tân hiện thực Italia với những tên tuổi sáng chói một thời như Roberto Rossellini, Luchino Visconti, Vittorio De Sica, Giuseppe de Santis (2)…; thời gian Serguei Eiseinshtein (3) phục sinh với bộ phim Ivan Bạo nhiều năm nằm chết trong kho lưu trữ…

Tôi thiếu quá nhiều để tiếp cận cái mới – cả trí thông minh lẫn kiến thức cần có. Theo truyền thống cha ông tôi tìm cứu cánh trong sự học gạo. Ðúng vào lúc tôi vùi đầu chuẩn bị thi kiểm tra thì Ðại hội lần thứ XX Ðảng cộng sản Liên Xô khai mạc.

Tôi chẳng để ý gì tới nó. Những Ðại hội Ðảng, những Hội nghị Trung ương của đảng này đảng nọ trong phe xã hội chủ nghĩa là chuyện cơm bữa, cái nào cũng giống hệt cái nào. Tôi ngán đọc những diễn văn dài dằng dặc kín mấy trang báo, những từ ngữ ồn ào, sáo rỗng và mòn vẹt vì lặp đi lặp lại. Chính trị chưa bao giờ quyến rũ tôi. Với tôi chính trị là thứ chỉ dành cho một số người phi thường và những tên cơ hội, hai loại nhân sinh có tài tìm thấy niềm vui trong trò chơi lá mặt lá trái của nó. Vì thế, ngồi dưới cái loa suốt ngày lải nhải tin tức và bình luận chính trị tôi vẫn học bài được như thường.

Ðó là một cái loa-hộp già lão đã hỏng chiết áp, hỏng từ bao giờ không biết, tôi đến thì nó đã có đấy rồi. Già nua, xơ xác, nó lảm nhảm suốt ngày, nỉ non suốt ngày cho tới tận khuya, với sự kiên trì chỉ có ở máy móc. Tôi đánh vật với nó để bắt nó câm miệng, nhưng thất bại. Làm đủ cách không xong, tôi lấy vải bịt nó lại, nhưng chỉ làm cho tiếng nó nhỏ đi được chút ít. Ðành đọc sách, làm bài trong tiếng lẩm bẩm không dứt của cái loa cần mẫn, riết rồi cũng quên được sự hiện diện của nó.

Tôi đang chìm đắm trong số phận bi đát của Vua Lear thì Shpalikov (4) xồng xộc chạy vào:

– Trời đất ơi, đồ mọt sách! Ðang xảy ra chuyện động trời mà cặm cụi với cái ông Shakespeare của cậu được thì lạ quá! Nghe đi kìa!

Tôi ngẩng lên nhìn cái loa. Trong đầu tôi vua Lyr tội nghiệp vừa bị các cô con gái cắt tiền tiêu, cắt cả lính hầu khi vương quốc của ông không còn là của ông nữa. Tôi đang thương ông, ngán ngẩm cho tình đời. Cái loa lẩm bẩm điều gì đó, Shpalikov tươi cười, đôi mắt đen lấp lánh. Tôi không nhận ra ngay giọng nói của Nikita Khrushov (5). Những tràng vỗ tay lớn và kéo dài quá mức làm cho cái khăn bịt màng loa rung lên bần bật.

Tôi tháo nó ra để nghe cho rõ. Thì ra chuyện động trời!

“Vào những năm cuối đời mình Iosif Vissarionovich Stalin (6) đã phạm những sai lầm nghiêm trọng… – giọng Nikita Khrushov sang sảng – Ông coi thường và vì thế đã vi phạm thô bạo những chuẩn mực sinh hoạt dân chủ … Những tội ác xảy ra trong thời kỳ Stalin đứng đầu Ðảng và Nhà nước…Tệ sùng bái cá nhân là xa lạ với bản chất của đảng cộng sản…!!”

Tôi bàng hoàng, Cha mẹ ơi, gì thế này?! Ðại nguyên soái Stalin, người thầy, người cha của nhân dân lao động toàn thế giới và … tội ác??

Ngoài trời, tuyết bay thành những dải chênh chếch. Mới tháng Hai, mùa xuân Nga còn lâu mới bắt đầu.

– Nghe thấy chưa? Một cuộc cách mạng! Cậu hiểu không, một cuộc cách mạng? – Shpalikov nhảy lên, hoa chân múa tay dưới cái loa sứt sẹo. – Một quả bom nguyên tử ném thẳng vào dinh lũy của nền chuyên chế! Tự do muôn năm!

Tôi ngẩn người. Anh chàng xuất thân thiếu sinh quân học viện Suvorov, vốn nồng nhiệt yêu chế độ xô-viết, sao lại có thể vui mừng đến thế trước cuộc tấn công trực diện vào lãnh tụ Stalin vĩ đại? Mà người mở đầu cuộc tấn công lại không phải là ai khác Nikita Khrusov, người báo chí hôm qua còn gọi là “học trò xuất sắc và trung thành” của ông?

Ðến lúc ấy tôi mới nghe tiếng chân người đi lại rầm rập ngoài hành lang, tiếng mở cửa, đóng cửa ầm ầm ở các phòng. Giọng ai đó rung lên mãi một khúc aria không rõ lời. Tiếng vỗ tay rộn ràng theo nhịp một bài ca cách mạng năm 1917.

Tối hôm đó nhóm bạn Nga tổ chức tại phòng tôi một bữa tiệc sinh viên. Chúng tôi uống vốt-ka, nhắm với cá sấy, xúc xích tiết lợn, bánh mì khô và tin nóng hổi nhận được từng giờ từ phòng họp Ðại hội. Bữa tiệc kết thúc bằng cuộc cãi vã to tiếng giữa phái đến cùng đòi ngay lập tức phải tiếp tục đi xa hơn nữa những kết luận của Ðại hội và phái chủ trương cải tổ từ từ có Ðảng lãnh đạo. Phái ngay lập tức bỏ đi. Phái từ từ ở lại.

Tôi buồn ngủ. Trong cơn mơ màng tôi nghe Shpalikov hỏi:

– Cậu hiểu rồi chứ?

Tôi im lặng. Tôi không hiểu hoặc chỉ mới hiểu lờ mờ. Nhưng tôi tin Shpalikov. Nếu anh vui mừng đến thế mà tôi không cảm thấy như anh thì tôi cần xem lại mình. Chắc rằng trong tôi còn nhiều tăm tối, còn nhiều u mê. Cũng như tôi không hiểu hết được cái đẹp trong thơ Pushkin (7) vậy. Trong ngày hôm nay Pushkin được nhắc tới rất nhiều. Bài thơ Những Người Tháng Chạp của ông được cả hai bên tranh luận ngâm nga.

Ðại hội XX không phải chỉ vạch trần tệ sùng bái cá nhân Sta-lin, đòi phục hồi các chuẩn mực dân chủ trong mọi mặt sinh hoạt xã hội, trong sinh hoạt đảng… Nó còn mở ra tầm nhìn mới cho cả thế giới cộng sản. Nó bác bỏ quan điểm coi bạo lực là phương pháp giành chính quyền duy nhất của giai cấp vô sản, coi mâu thuẫn giữa hai hệ thống thế giới là không thể điều hòa. Ðó là Ðại hội của tinh thần hòa bình – cùng tồn tại trong hòa bình, hợp tác hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, tinh thần giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chấm dứt mọi thứ chiến tranh nóng cũng như lạnh, giải trừ quân bị…

Ðó là ngày 25 tháng Hai năm 1956.

Hôm sau tôi vào trung tâm thành phố để xem phim “Chiến tranh và hòa bình” của Mỹ tại Cung Ðiện ảnh. Các ga metro dông nghịt. Những con đường dẫn tới Hồng trường1 cuồn cuộn những cơn lũ dân chúng vui vẻ, phấn khích. Họ hò reo, ca hát, mang cờ đỏ búa liềm, chân dung Nikita Khrushov tới điện Kremli chào mừng Ðại hội. Họ ôm nhau, hôn nhau, nhẩy múa trong tiếng nhạc đệm của đàn bay-an. Rải rác trên vỉa hè là những bức chân dung Stalin, cái còn nguyên, cái bị xé nát, nhem nhuốc dưới gót giầy khách bộ hành.

Tôi rùng mình. Cảnh tượng diễn ra trước mắt làm tôi bàng hoàng.

Những người chưa từng bị giáo dục lòng yêu mến và kính trọng sâu sắc đối với lãnh tụ vĩ đại Stalin không thể hiểu nổi nỗi xúc động của chúng tôi khi thần tượng của mình bị quật ngã, bị chà đạp.

Tôi còn nhớ tin Stalin qua đời đến với chúng tôi như thế nào. Cuộc kháng chiến trường kỳ bước vào năm thứ bẩy. Tôi đang ở Thanh Hóa. Hàng ngày, từng tốp máy bay Hellcat và Spitfire từ Hà Nội chốc chốc lại bay vào quần đảo trên những làng mạc thanh bình vùng tự do (8). Thỉnh thoảng chúng thu hẹp vòng lượn và bên dưới, từ mặt đất, bốc lên những cột khói đen. Tin Stalin qua đời đến với chúng tôi trong một ngày như thế. Người ta quên bẵng những máy bay – thần chết khi tiếng loa cất lên vang vang trong thôn xóm báo tin người Cha, người Thầy vĩ đại của nhân dân thế giới không còn nữa.

Lớp trẻ chúng tôi lặng đi. ớt lâu sau, học sinh các trường phổ thông đã ra rả học bài thơ Ðời Ðời Nhớ Ông của Tố Hữu (9), trong đó nhà thơ khóc Stalin:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương Ông thương mười.

Yêu con, yêu nước, yêu nòi,

Yêu bao nhiêu lại thương Người bấy nhiêu,

Ngày xưa khô héo quạnh hiu,

Có Người mới có ít nhiều vui tươi…

Tôi quyết định bỏ Shakespeare đấy đã để tìm hiểu những gì đang xảy ra. Tôi đem những thắc mắc của mình hỏi giáo sư Turkin. Ông thầy giảng môn kịch bản điện ảnh xua hai tay:

– Chính trị không phải cái để cho chúng ta, anh bạn trẻ ạ. Khi còn ở tuổi 20 tôi cũng chú ý tới nó, y như anh bây giờ, sau đó thì… thôi, tôi chán. Mà không phải chán, tôi sợ. Tôi khuyên anh quên nó đi. Những việc anh thấy hôm nay có vẻ ghê gớm thật đấy, nhưng ngày mai mọi sự lại có thể khác. Dây vào làm gì!

Nghe tôi trình bày, giáo sư môn văn học nước ngoài Nina Anosova ra hiệu cho tôi đi theo bà. Chúng tôi xuống tầng hầm của nhà trường. Trong góc tối, bà chỉ cho tôi cái thang dựng sát tường:

– Ðối với tôi thời Stalin gắn liền với cái thang này. Nó trở thành biểu tượng. Anh có thấy chân dung các nhà lãnh đạo Ðảng và Nhà nước treo trên hội trường không? Thời Stalin còn sống, cái thang được dùng đến luôn. Thỉnh thoảng anh thợ điện Stepan lại vác nó lên để tháo vài vị xuống, treo vài vị khác thế vào. Báo Pravda (Sự Thật) thông báo họ là những tên phản bội, kẻ thù của nhân dân xô-viết. Rồi chính những vị vừa được treo lên lại bị gỡ đi – hóa ra họ cũng là kẻ thù của nhân dân xô-viết nốt. Tất cả đều từng được ngợi ca là bạn chiến đấu, là học trò ưu tú của Lênin và Stalin. Cứ mỗi vị bị bắt thì một loạt cán bộ khác bị bắt theo, như là một đợt sóng. Ngay tại trường ta này những cán bộ hiền lành bỗng nhiên cũng bị công an đang đêm tới nhà bắt đi. Hồi ấy chúng tôi chỉ biết ngạc nhiên: chế độ mình tốt thế sao có lắm người chống lại đến thế, lắm kẻ thù của nhân dân xô-viết đến thế? Tôi không tin những người nọ là kẻ thù của nhân dân xô-viết, tôi biết rõ họ mà, người khác cũng không tin, nhưng chẳng ai dám nói ra. Thật xấu hổ, nhưng chúng tôi đã sống hèn như thế đấy!

Anosova là người trung thực. Bà không bịa đặt. Chẳng lẽ bà cũng là một trong những kẻ thù của nhân dân xô-viết?

Tôi được nghe một người vừa được tha về từ trại tập trung Kôlưma nổi tiếng (10) phát biểu. Người đàn ông đứng tuổi, trước kia làm việc tại văn phòng nhà trường, khóc nức nở trong cuộc họp chi bộ (11):”Các đồng chí ơi! Tôi bị Ðảng đưa đi giáo dục mười một năm. Trở về, tôi như bị lạc vào một thế giới khác. Tất cả đều khó hiểu, mọi cái đều xa lạ. Hãy giúp đỡ tôi, các đồng chí! Tôi muốn được làm một người bình thường…như mọi người”.

Người tù được tha không hề thốt lên một lời oán trách đảng. Ông cũng chẳng nói gì tới lý tưởng cộng sản. Dường như cơn ác mộng còn đó, về tới Moskva rồi ông vẫn chưa hết sợ. Nhưng lý trí phản bác rằng cảm giác của tôi sai, rằng nhờ tính đảng cao nên trải qua đọa đầy ông ta vẫn trung thành với đảng. Chỉ đến khi chính mình nếm trải những gì mà những người cộng sản nọ nếm trải tôi mới hiểu trực cảm của tôi là đúng.

Ðó chính là cái sợ. Không phải cái gì khác (12).

Trong những cuốn hồi ký được xuất bản sau đó, các tác giả viết rằng khi nước Ðức Quốc xã vượt qua biên giới Ba Lan tiến vào lãnh thổ Liên Xô, xé toạc hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Xô-Ðức, Stalin mới ngã ngửa người ra thấy các tướng lĩnh và cán bộ chỉ huy quân đội đã nằm gần hết trong các trại tập trung. Ông hạ lệnh tha khẩn cấp để họ trở về đi đánh nhau với Ðức. Ðiều đáng ngạc nhiên và hơn nữa, đáng khâm phục, là những người được tha đều sẵn sàng ra ngay mặt trận để chiến đấu chống quân xâm lược.

Những người bị bắt oan khi được tha vẫn phải ký vào một tờ giấy cam đoan không nói lại với ai về giai đoạn đã qua. Một quân đoàn trưởng gặp cấp dưới, tư lệnh sư đoàn, tại nhà an dưỡng miền Nam Liên Xô:”Kìa, Ivan, lâu lắm tôi mới được gặp đồng chí! – ông mừng rỡ kêu lên – Dạo này đồng chí gày quá!”, “Báo cáo thủ trưởng, tôi vừa đi công tác xa về. – tư lệnh sư đoàn trả lời – Tôi trông thủ trưởng cũng không được khỏe?”. Quân đoàn trưởng cười:”Tôi cũng vậy, tôi vừa đi công tác xa về”.

Một số người bênh Stalin nói rằng Sta-lin không biết gì về các nguyên soái, các tướng lĩnh bị bắn hoặc bị đi đầy. Tôi không tin. Cái huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh bị cấp dưới bịt mắt, bị lừa dối, không đứng vững trước sự thật hàng ngày diễn ra bên những người dân biết suy nghĩ như giáo sư Anosova.

Một người bạn ở khoa lý thuyết điện ảnh, Naum Kleiman (13), cho tôi biết chính anh và gia đình đã bị đầy đi Sibir gần chục năm chỉ vì họ là người Do Thái. Mà người Do Thái, theo Stalin, là giống người không tin được, phải chịu tội chung cùng với những bác sĩ Do Thái bị bắt trong cái gọi là “vụ án bọn áo choàng trắng” ở Lêningrad (14). Mãi tới khi Stalin qua đời Naum mới được trở về Moskva. Anh nói anh không bao giờ quên chuyến đi tới miền Cực đông băng giá trong toa chở súc vật với những thanh gỗ đóng chéo ngoài cửa. Cách di chuyển dân đi đày của cơ quan an ninh Liên Xô giống hệt cách phát-xít Ðức chuyển tù.

Câu chuyện của Naum làm tôi choáng váng. Chủ nghĩa cộng sản trong hình dung của tôi không có và không thể có gì chung với tệ kỳ thị chủng tộc. Tôi quan niệm mọi giống người là như nhau, bình đẳng với nhau, người ta sinh ra là để thương yêu nhau. Tôi rất thích một ca khúc của Lưu Hữu Phước (15), mở đầu bằng hai câu “Vàng, đen, trắng – nước da không chia tấm lòng. Biên giới kia khôn ngăn mối dây tâm tình…” Ðó chính là thế giới mà tôi muốn được thấy khi đi với chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản của Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ và Huỳnh Ngự hoàn toàn không giống thế. Có thể, tôi sai. Trong tôi chủ nghĩa cộng sản có dáng dấp Thiên Chúa giáo, nơi mọi người đều là con cái Chúa. Lần đầu tiên tôi được thấy một chủ nghĩa cộng sản phân biệt chủng tộc.

Những đứa trẻ cũng không được yên khi cuộc trấn phản đã bùng lên thành cơn cuồng tàn sát. Nhân danh cách mạng người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà chuyên chính vô sản thật đơn giản: nếu cha mẹ đã là kẻ thù của nhân dân xô-viết thì con cái họ lớn lên nhất định cũng sẽ là kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một trong những nghị định của Bộ Nội vụ thời Sta-lin ghi rõ:”…Vợ con những tên phản bội Tổ quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới 5-8 năm tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xã hội. Những đứa trẻ có hại cho an ninh xã hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả năng cải tạo chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại cải tạo lao động của Bộ Nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt ” (16).

Thì ra dưới lớp vàng son lộng lẫy trưng ra mặt tiền một xã hội tuyệt vời lại là những vụ thanh toán cung đình, những vụ thủ tiêu mờ ám, những vụ trấn phản đẩy hàng triệu dân chúng vô tội vào các trại tập trung khủng khiếp, không trừ phụ nữ và trẻ em.

Tôi bị sốc thật sự.

Một phần trong những tội ác của Stalin – tôi nói một phần vì sau này người ta còn phát hiện nhiều tội ác khác, thí dụ như vụ thủ tiêu binh lính, sĩ quan và các nhà chính trị Ba Lan vào năm 1940 (lực lượng những người kháng chiến Ba Lan này chạy sang lánh nhờ đất bạn) tại khu rừng Katưn thuộc tỉnh Smolensk. Con số được nói tới khoảng 30.000 người. Không thể nào tưởng tượng nổi: bắn chết 30.000 người rồi vùi trong các huyệt tập thể. Lời bình trong một bộ phim tài liệu về khu rừng khủng khiếp nói trên nói rằng ở đây còn có cả di thể các công dân xô-viết “không rõ là những ai, con số họ là bao nhiêu, bởi vì chẳng ai quan tâm tới những người xấu số ấy”. Những gì được nêu lên trong Báo cáo mật (17) do Nikita Khrusốp trình bày trước Ðại hội XX còn xa mới tới sự thật. Không biết bằng cách nào, chỉ ít lâu sau Ðại hội Báo cáo mật đã được đăng tải trên trang nhất những tờ báo lớn ở “thế giới tự do”. Những người cộng sản Liên Xô được đọc Báo cáo mật về tình hình quốc gia mình sau những kẻ vô công rồi nghề ở các nước khác.

Lẽ đương nhiên, các đoàn đại biểu dự Ðại hội đều nhận được Báo cáo mật. Nhưng ở Việt Nam trừ các ủy viên Bộ Chính trị và vài ủy viên Ban Bí thư, không ai được đọc nó. Tôi được biết nội dung Báo cáo mật tướng Lê Liêm kể lại. Ông chỉ là ủy viên Trung ương, không có tiêu chuẩn đọc Báo cáo mật, ông phải đi mượn. Nhiều ủy viên Trung ương khác thậm chí chưa được cầm nó trong tay.

Báo cáo mật là tiếng nói bất bình, là sự lên án lối cai trị tùy tiện, độc đoán, tàn bạo nhưng chưa phải sự đoạn tuyệt với nó. Nikita đã không đi đến cùng. Hoặc ông chưa đủ gan, hoặc ông còn bị kiềm chế bởi các thế lực thân Stalin, hoặc chính ông thấy xấu hổ nếu phơi bày tuốt tuột những cái xấu của chế độ xô-viết. Vì thế báo cáo mới là mật, mới không công khai. Cái còn thiếu trong bản báo cáo là thái độ sám hối. Trong báo cáo Nikita xuất diện chỉ với tư cách người buộc tội. Ông xấu hổ trước những gì xảy ra trên đất nước xô-viết. Ông kịch liệt lên án những việc làm bất nhân, vô đạo. Như chẳng lẽ không phải chính ông đã từng ở trong đám thuộc hạ của Stalin trong khi tội ác diễn ra, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp nhúng tay vào máu. Ông cũng chưa một lần nói “Không!” để chặn đứng bàn tay giết người của Stalin.

Như một nghịch lý, những người dựng nên chế độ xã hội chủ nghĩa lại thiếu đức tính mà họ có thừa khi còn đấu tranh chống nền chuyên chế: lòng dũng cảm. Chỉ tới Ðại hội XX các đại biểu mới bàng hoàng trước sự thật: trong số 139 ủy viên Trung ương được Ðại hội XVII (1934) bầu ra đã có tới 98 người bị bắn và tống giam. Vị chi là trên hai phần ba. Không một ai trong những người còn sống sót dám lên tiếng. Stalin đã thành công trong việc đánh thức bản năng sinh tồn trong mỗi người. Ai cũng sợ cái chết cầm chắc khi động tới lãnh tụ vĩ đại. Không cứ Ban chấp hành Trung ương, trong số 1.956 đại biểu đi dự Ðại hội XVII có tới 1.108 người sau này bị kết án phản cách mạng, bị bắt và bị giết.

Hiện tượng Khrusov gây ra sự ngạc nhiên có lý trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam. Kể cả những người có tư tưởng cấp tiến nhất trong thời kỳ ấy cũng không hiểu nổi vì sao ngay trong lòng chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập vững chắc ở Liên Xô lại nảy nòi ra một Khrusov bặm trợn dám đạp đổ thần tượng.

Tôi cho rằng trong khi giải thích hiện tượng Khrushov người ta có khuynh hướng làm rối rắm vấn đề. Sự thật, theo tôi, đơn giản.

Khrusov cũng là con người. Như mọi con người, ông thèm tự do. Chế độ toàn trị tước đoạt mọi quyền tự do không riêng của bầy nô lệ mà của cả quần thần. Chỉ có thấm thía nỗi đau khổ bị mất tự do, ý thức được nỗi nhục nhằn phải làm thân tôi tớ, Khrusov mới đủ dũng khí tự tước bỏ quyền thống trị mặc nhiên có nếu như ông không vì tự do mà phanh phui tệ sùng bái cá nhân Stalin (18).

Trong ý nghĩa này Khrushov còn hơn một anh hùng, ông là một Con Người, viết hoa.

Cuộc tấn công của Ðại hội XX vào tệ sùng bái cá nhân không phải chỉ là quả bom nguyên tử ném vào dinh lũy chế độ chuyên chế ở Liên Xô. Nó còn làm rung chuyển toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Bất kỳ nước nào thuộc hệ thống này cũng có sự sùng bái cá nhân y như thế.

Nhưng nghịch lý còn đó: những người cộng sản mới hôm trước đi đầu trong việc xóa bỏ sùng bái cá nhân, bảo vệ quyền con người, thì hôm sau lại đàn áp những người dân thường tại Hungari (19) chỉ vì những người này dám đòi thêm một chút tự do. Ông Khrushov chống sùng bái cá nhân biện bạch: xe tăng Liên Xô đến Budapest để bảo vệ chủ nghĩa xã hội!

Thì ra sống bảo thủ dễ chịu hơn sống sáng tạo nhiều.

Hoàn toàn bị bất ngờ trước bước ngoặt trong phong trào cộng sản quốc tế do Ðại hội XX gây ra, Ðảng Lao động Việt Nam khéo léo chọn thái độ kẻ ngoài cuộc: dào, chống sùng bái cá nhân là phải thôi, là đúng, lãnh đạo là phải tập thể chứ, nhưng đó là chuyện Liên Xô, chuyện các nước Ðông Âu, đâu phải chuyện nhà mình. Và thế là trong khi cả thế giới cộng sản chống sùng bái cá nhân hối hả dẹp đi những trò chướng mắt của thói xấu đó thì ở Việt Nam người ta vẫn ngang nhiên trương chân dung ông Hồ Chí Minh và ông Trường Chinh ở hàng đầu trong những cuộc mít tinh, biểu tình.

Ðại hội XX lôi tôi ra khỏi nghệ thuật, bắt tôi mở mắt ra để thấy ở bất cứ nước nào có chế độ độc tài tình hình cũng thế cả. Những nhà độc tài của mọi nước chỉ cho phép tồn tại thứ nghệ thuật tay sai, nghệ thuật bồi bếp, để thực hiện chức năng tôn vinh nền chuyên chính và nhà độc tài, để đánh bóng mạ kền cho chế độ. Mọi hoạt động nghệ thuật ở bên ngoài không gian sinh tồn đã được quy định đều bị coi là bất hợp pháp.

Mùa đông năm 1956 tại trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô xảy ra một sự kiện chưa từng có. Sinh viên Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên Hô Un Pây, nhà thơ, đảng viên cộng sản, trong cuộc họp bất thường của chi bộ mà anh là bí thư, đã lên tiếng đòi Ðảng Lao động Triều Tiên phải nghiêm khắc kiểm điểm Chủ tịch Kim Nhật Thành (20) về những hiện tượng phi dân chủ, sùng bái cá nhân.

Trước khi sang Liên Xô học, Hô Un Pây là sĩ quan tình báo hoạt động tại Hán Thành, nhiều lần bị thương, bị địch bắt. Sau khi anh gửi kiến nghị, các nhân viên mật vụ Triều Tiên đội lốt cán bộ ngoại giao đến trường mời anh tới gặp đại sứ, rồi giam anh lại trong sứ quán. Hô Un Pây đã dùng mẹo nhà nghề lừa được bọn chúng. Anh nhảy từ tầng lầu thứ tư xuống, vùng thoát ra ngoài. Tuyết gom thành đống dưới chân tường đã giảm nhẹ cú rơi từ độ cao hơn hai chục thước.

– Chúng nó định thủ tiêu cậu? Ngay trong sứ quán? – được tin anh thoát hiểm, chúng tôi kéo đến hỏi thăm.

– Không, chúng nó nói sẽ áp giải mình về nước. – anh kể về cuộc đào thoát của anh khỏi sứ quán, cánh tay bị sái khi ngã đeo trước ngực – Mình đề nghị chúng nó cho gặp vợ trước khi về (anh có vợ, cũng người Triều Tiên, học tại trường Y Moskva), đề nghị cho mình quay lại ký túc xá lấy quần áo thì chúng nó cười gằn: “Về đến Triều Tiên mày không cần vợ nữa đâu, quần áo thì một bộ đã thừa đủ”.

Nước mắt dòng dòng Hô Un Pây đọc cho tôi nghe những bức thư anh gửi Trung ương Ðảng, chính phủ, quốc hội, gửi Kim Nhật Thành:”Tôi tuyên bố từ bỏ Ðảng đã phản bội nhân dân Triều Tiên anh hùng và đau khổ…Tôi đau lòng từ bỏ quốc tịch Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên, vì nó không xứng đáng với tôi, nó không phải là quốc tịch của tôi mà là dấu ấn đóng trên trán tên nô lệ…Trong mình tôi mãi mãi chảy dòng máu của tổ tiên và tôi mãi mãi mang trong tôi niềm tự hào là người Triều Tiên…”

Tôi gai người khi nghe Hô Un Pây đọc những hàng chữ chua xót.

Người của Kim Nhật Thành đã thất bại trong vụ bắt cóc Hô Un Pây. Liên Xô sau Ðại hội XX đã là Liên Xô khác. Nhưng cũng chưa khác lắm. Trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô đã làm một việc đáng xấu hổ. Người ta công bố lệnh đuổi học đối với sinh viên Hô Un Pây mà không nêu lý do.

Hô Un Pây bỏ đi Tashkent (21) làm giảng viên văn học Triều Tiên.

Sau việc xảy ra với Hô Un Pây, tôi kinh tởm Kim Nhật Thành và cái nhà nước của ông ta. Anh trung úy Hồng quân Liên Xô (22) đã biến Bắc Triều Tiên thành một trại lính, trong đó dân chúng bị cai trị theo cách lính tẩy.

Phản ứng của Mao Trạch-đông đối với những kết luận của Ðại hội XX mạnh mẽ hơn cả. Mao không tha cho Khrushov tội dám tấn công vào trật tự đã được thiết lập một lần cho mãi mãi tại cái quốc gia cho đến lúc ấy còn đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, mà phản ứng dây chuyền của nó có thể làm lung lay ngai vàng của chính Mao.

Chống sùng bái cá nhân không thể không ảnh hưởng tới vị trí độc tôn của Mao. Ðể đối phó với tình hình mới, khi những tiếng nói đòi dân chủ và tự do vang lên ngay bên trong “bức màn tre” Trung Quốc, Mao gài bẫy “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng (23)) để “cỏ dại”, “tiếng lạ” lộ hình. Cuộc vận động này mở đầu cho cuộc tấn công nhằm vào những người muốn thay đổi trật tự xã hội Trung Quốc, gọi bất cứ ai không ưa Mao và không được Mao ưa là phần tử hữu khuynh chống Ðảng chống chủ nghĩa xã hội.

Những lời bài bác Liên Xô vốn có sẵn trong Mao nay được nhấn mạnh thêm. Sự rạn nứt trong khối xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu.

Cuộc họp mặt các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới năm 1957 và đặc biệt Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân thế giới tại Moskva vào tháng 11 năm 1960, bốn năm sau Ðại hội XX Ðảng Cộng sản Liên Xô, với bản Tuyên bố chung gượng gạo, chỉ là những thỏa hiệp bất đắc dĩ. Bị lôi kéo vào cuộc chiến ý thức hệ không những chỉ có những đảng cầm quyền một số nước xã hội chủ nghĩa, mà còn một loạt các đảng cộng sản và công nhân. Tình trạng phân liệt xảy ra trong hầu hết các đảng, có những nước có tới hai ba đảng, đảng nào cũng xưng mình là mác-xít – lê-nin-nít.

Trong cuộc chiến ý thức hệ Mao hi vọng Bắc Kinh sẽ trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế. Báo chí Trung Quốc khua chiêng gõ mõ về một thời đại mới – thời đại gió Ðông thổi bạt gió Tây, trung tâm cách mạng chuyển về châu Á.

Ðến lượt mình Khrusov lại phạm vào sai lầm tổ tông truyền của chủ nghĩa nước lớn: cắt viện trợ, rút toàn bộ chuyên gia giỏi về nước (24). Lập tức các phương tiện truyền thông của cái quốc gia gần một tỷ dân được huy động toàn lực để vạch mặt những tên phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin, vạch mặt bọn xét lại hiện đại và chủ nghĩa xét lại hiện đại. Cuộc tấn công bằng nước bọt và mực in diễn ra theo bài bản mà người Việt Nam đã hân hạnh được biết trong Cải cách ruộng đất: bắt đầu bằng đấu lưng (vạch tội khi kẻ bị đấu ngồi quay lưng lại), sau mới đấu mặt (đấu trực diện, chỉ tận mặt, gọi đích tên mà đấu).

Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc cãi vã giữa hai nước đàn anh, ông Hồ Chí Minh, nhạc trưởng của cái dàn nhạc khôn ngoan chỉ chơi một bài tủ “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh” liền cho cử nhạc lên, nhưng lần này tiếng kèn yếu ớt của ông bị tiếng trống của hai bên xung đột đang hăng máu ăn thua dập tắt.

Do kém học thức, các văn kiện Liên Xô làm các nhà lãnh đạo Việt Nam thất đảm bởi giọng văn hàn lâm cao đạo. Trong khi đó cách lý giải theo lô gích tam đoạn rất bình dân của các lý thuyết gia Bắc Kinh hợp với tầm kiến thức của họ hơn. ấy là chưa kể giữa hai nước cộng sản châu ỏ trước nay vẫn có một mẫu số chung là gốc rễ phong kiến lạc hậu, trong lòng mỗi người dân có một ông quan. Trong tâm trạng hoang mang trước một tương lai bỗng dưng trở thành không xác định của phong trào cộng sản, các nhà lãnh đạo Việt Nam, mặc dầu đã ngả theo Trung Quốc, vẫn kiên trì chủ trương đường lối khôn ngoan của nhà nghèo – gửi tiền vào hai ngân hàng cùng một lúc. Cho nó chắc ăn.

– Ông Cụ lừng khừng vì ông lúng túng trong những vấn đề phức tạp của cuộc đấu tranh lý thuyết. – cha tôi giải thích lập trường trung dung của ông Hồ trong cuộc cãi vã quốc tế – Ông Cụ chỉ thích những cái đơn giản. Cái vụ ông chọn Ðệ tam Quốc tế chứ không chọn Ðệ nhị Quốc tế ở Ðại hội Tours là một thí dụ. Quốc tế tốt là Quốc tế ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.

Ông Hồ thuộc sử nước nhà lắm. Ðánh nhau với thiên triều, thắng thì thắng đấy, mà vẫn phải sai sứ sang cầu hòa, xin được làm chư hầu. Noi gương các cụ, ông nhũn nhặn với bất kể Trung Quốc nào, Trung Quốc Tưởng hay Trung Quốc Mao. Ðường đường là chủ tịch một nước năm 1945 ông Hồ vẫn hạ mình thân đến chào các tướng Tiêu Văn và Lư Hán (25) vào ngày họ tới Hà Nội. Ông căn dặn cha tôi phải lo thuốc phiện cho tướng Long Vân con (26) “kẻo nó giận thì lôi thôi lắm, thằng nhóc ấy có thể ảnh hưởng xấu đến mối bang giao của ta với họ”. Khi La Quý Ba, đại sứ đầu tiên của Trung Quốc Mao tới Việt Bắc, ông sai cha tôi phải chọn địa điểm cho đẹp, dựng nhà cho đẹp để họ La ở:”Mình thế nào cũng xong, chứ với người ta thì phải chu đáo. Họ xét nét lắm đó!”. Ông nhớ lần ông bị bắt ở Hongkong (27), ngày một ngày hai sẽ bị Anh trao cho Pháp, những đồng chí Trung Quốc đã lờ ông đi, mặc cho ông tự xoay xỏa. Ông cũng không quên lần ông tới Bắc Kinh để đi tiếp Moskva, bị Mao bắt chầu chực chán chê ở nhà khách rồi mới cho tiếp kiến. Ông nhớ, và ông để bụng.

Biết ông Trần Huy Liệu đang điên tiết vì bức ảnh đăng trên Nhân dân nhật báo Bắc Kinh với dòng chú thích:”Ðồng chí Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã được hân hạnh Mao chủ tịch cho bắt tay” nhân forum Bắc Kinh năm 1965, ông Hồ Chí Minh an ủi ông Liệu:”Người ta bao giờ chả rứa, thiên triều mà!” Một hôm tôi đến chơi thấy bức ảnh Mao Trạch-đông vẫn thường treo trong nhà không còn ở chỗ cũ, tôi hỏi thì ông Liệu kể cho nghe chuyện xảy ra với ông ở Bắc Kinh, chuyện ông Hồ an ủi ông. Ông nói:”Tao cũng như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều, tao là thằng dân tộc chủ nghĩa”.

Chính thái độ lừng khừng trong giai đoạn này của Hồ Chí Minh làm cho lớp đàn em đang hăng máu chống Liên Xô coi thường ông (28). Mặt ngoài họ làm ra vẻ kiên trì đường lối đứng giữa, trên thực tế họ đã sà vào chiếu bạc rồi, đã xỉa tiền vào cửa Trung Quốc rồi.

Khởi đầu cuộc đấu tranh giữa hai đường lối ở Việt Nam là như vậy. Nó có diện mạo một cuộc thánh chiến vì lý tưởng mác-xít. Càng về sau nó càng lộ ra tính chất đời thường. Nói chung, chính trị cởi bỏ áo quần thì nó là đời thường, như tôi thấy.

Chuyện đó nói sau.

Cuộc tấn công lý thuyết nhằm vào điện Kremli đã được họ Mao tính kỹ. Nó giúp Mao Trạch-đông bắn một mũi tên mà được hai con thỏ: một mặt nó che lấp hậu quả nặng nề của bước nhảy vọt vĩ đại đã và đang làm suy kiệt nền kinh tế Trung Quốc, mặt khác nhân cơ hội này Trung Quốc sẽ giành lấy vị trí lãnh đạo thế giới cộng sản.

Thế giới cộng sản đang tách đôi: hai con đường, hai mô hình xã hội.

Bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản, chúng tôi chỉ có sự lựa chọn hai lấy một. Không có con đường thứ ba. Không lưỡng lự, chúng tôi bỏ phiếu cho mô hình Liên Xô. Mô hình này, theo chúng tôi, tốt hơn hẳn mô hình Trung Quốc. Tại Liên Xô đang manh nha một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó những quyền tự do và dân chủ được luật pháp bảo đảm. Nhà nước này chủ trương hòa bình tiến lên chủ nghĩa xã hội, chứ không lấy bạo lực áp đặt chủ nghĩa xã hội lên các dân tộc, là cái phù hợp với tình hình thế giới hiện tại.

Chế độ xã hội Trung Quốc, cũng như chế độ xã hội Việt Nam không hứa hẹn một cái gì tương tự. Nếu ở Trung Quốc là chế độ toàn trị cởi truồng thì ở Việt Nam còn giữ lại manh khố.

Lấy Trung Quốc làm thí dụ. Mao muốn thế giới thấy dưới sự lãnh đạo của ông ta Trung Quốc trong một thời gian cực ngắn sẽ đạt được sản lượng gang vượt nước Anh. Thế là các lò luyện thép sân sau mọc lên như nấm trên đất nước bao la. Người ta mang ban thờ ra đốt lò. Chẳng ai cần tới thứ gang ấy, chúng chẳng để làm gì.

Mấy anh bác học nhà quê trình lên Mao một con toán lập theo quy tắc tam suất rằng nếu một con chim sẻ một ngày ăn hết bằng này hạt thóc thì toàn bộ chim sẻ ở Trung Quốc trong một năm sẽ ăn hết bao nhiêu. Một con số khủng khiếp. Người cầm lái vĩ đại bèn hạ bút ký một nhát ra lệnh tiêu diệt bằng hết lũ chim ăn hại. Gần một tỉ dân đổ ra đồng, khua chiêng, gõ mõ, thúc trống, đập mẹt, đập thùng, đốt pháo… làm cho trăm họ chim chóc kinh hồn táng đởm bay tán loạn, bay mãi, bay mãi mà không dám đáp xuống, không còn chỗ nào yên để đáp xuống, cho tới khi rã cánh thì rơi xuống mà chết, hoặc để bị đập chết. Tôi rùng mình khi nhìn thấy những bức ảnh xác chim chất cao như đống rạ trên họa báo Trung Quốc. Thiên nhiên lập tức cho Mao một cái tát trời giáng (29). Mất mùa. Sâu bệnh. Không còn chim để bắt sâu. Cùng với chim sẻ mọi giống chim biến mất trên đại lục mênh mông. Nạn đói hoành hành.

Chẳng bao giờ người cầm lái vĩ đại lẫn đám đệ tử của ông ta nhận sai. Cái vụ tàn sát chim, cũng như những vụ tàn sát người, rồi bị lờ tịt, cho chìm vào quá khứ, coi như chưa từng xảy ra.

Cơn cuồng phong bắt đầu từ Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô lớn dần thành cơn bão trong khối nhân sinh cộng sản, mà mắt bão ở Trung Quốc. Chúng tôi cảm thấy rõ rệt bầu không khí ngột ngạt báo trước cơn bão sẽ tràn tới Việt Nam. Nhưng chúng tôi không có cách nào tránh nó.

Ðành tự an ủi: mình còn may chán – ở Việt Nam chỉ có bão rớt thôi!

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ