Nghe thấy tiếng kêu của em, Cali chạy lại đầu tiên, theo sau là hai người xạ thủ trước đó vừa được thay gác, rồi lát sau tất cả những người Vahima và Xamburu tụ tập lại, vừa hò hét vừa hú lên tại nơi xảy ra vụ án mạng. Lộn xộn, đầy nhữ ng tiếng kêu và kinh hoàng. Người ta quan tâm không mấy đến những người bị giết và đến chuyện giết người, mà quan tâm nhiều hơn tới những giọt nước cuối cùng đã bị ngấm sạch vào nền đất bỏng cháy của hoang mạc. Một số người da đen bò ngoài ra đất, dùng tay vốc từng vốc đất lên, cố hít lấy chút hơi ẩm còn sót lại. Những người khác kêu la ỏm tỏi rằng chính cái ma ác đã giết chết những người lính canh và phanh thủng các túi nước. Nhưng Xtas và Cali biết rõ nên hiểu chuyện ấy ra sao. Chính M’Kunđe và M’Pua không có mặt trong số những người đang gào thét quanh bụi cỏ. Trong chuyện vừa xảy ra có cái gì đó lớn hơn là một vụ giết hai người lính canh và đánh cắp hai túi nước. Việc băm nát những túi nước còn lại chứng tỏ đó là một hành động báo thù, đồng thời là cái án tử hình cả đoàn. Những tên tín đồ của Mdimu Ác đã báo thù những người tốt. Những tên phù thủy trả thù vị vua trẻ, người đã phanh phui chuyện lừa lọc của chúng và không cho phép chúng được tiếp tục bóc lột những người Vahima lâu hơn nữa. Giờ đây, đôi cánh của tử thần đang chao lượn trên đầu cả đoàn, như những cánh diều hâu lượn trên đàn bồ câu.
Cali chợt nhớ lại một cách quá muộn màng rằng vì đang có nhiều lo nghĩ và bận những việc khác nên đã quên không ra lệnh trói những tên phù thủy này lại, như vẫn làm từ khi chúng định chạy trốn đến nay. Cũng rõ ràng là, do tính cẩu thả bẩm sinh của người da đen, hai lính canh đã đặt lưng và ngủ thiếp đi. Chính điều đó đã khiến cho công việc của lũ đểu cáng được dễ dàng và khiến chúng trốn thoát mà không bị xử tội.
Cũng phải mất khối thì giờ thì sự lộn xộn mới lắng đi chút ít và mọi người mới thoát khỏi cơn bàng hoàng, tuy vậy, bọn tội phạm chắc là vẫn chưa đi được xa, vì đất chỗ những tú i nước bị rách hãy còn ẩm và máu chảy từ thây hai người bị giết vẫn chưa đông hẳn. Xtas ra lệnh đuổi theo hai tên chạy trốn, không những chỉ để nhằm trừng trị chúng mà còn để đoạt lại hai túi nước cuối cùng. Cali lên ngựa, dẫn hai mươi tay súng đuổi theo. Thoạt tiên Xtas cũng muốn tham gia vào việc đuổi bắt, nhưng em nghĩ là không thể để Nen ở lại một mình trong cơn phẫn nộ và trong trạng thái kích động của những người da đen, nên em ở lại. Em chỉ bảo Cali mang con Xaba theo.
Em ở lại vì e sẽ có cuộc nổi loạn, đặc biệt là về phía những người Xamburu. Nhưng em nhầm. Nói chung người da đen dễ nổi khùng, đôi khi vì những chuyện không đâu, nhưng một khi có một nỗi bất hạnh lớn nào đó đổ xuống đầu họ, nhất là khi cánh tay không khoan nhượng của tử thần chạm tới họ, thì họ đành thúc thủ, không chỉ riêng những người được đạo Hồi dạy rằng chống lại định mệnh là vô ích, mà hết thảy mọi người đều như thế. Khi đó cả nỗi sợ hãi lẫn sự dày vò của những phút giây cuối cùng cũng không làm họ thức tỉnh khỏi cơn bải hoải xuôi tay. Bây giờ đây cũng vậy. Khi sự bùng nổ ban đầu đã qua đi, khi cái ý nghĩ rằng sẽ phải chết đã hằn sâu vào đầu óc họ, thì cả những người Xamburu lẫn những người Vahima đều lặng lẽ nằm lăn ra đất chờ chết, vì vậy có lẽ không cần phải lo họ nổi loạn, mà có lẽ nên lo ngày mai họ có chịu nhổm dậy đi tiếp hay không. Khi nhận ra điều đó, Xtas cảm thấy rất thương họ.
Trước khi mặt trời mọc, Cali đã quay trở về và đặt trước mặt Xtas hai cái bao đã bị cào xé rách nát, trong đó không còn lấy một giọt nước nào cả.
– Ông lớn, – nó nói, – hết nước rồi!Xtas đưa tay lên cái trán đẫm mồ hôi rồi hỏi:
– Thế còn M’Kunđe và M’Pua?
– M’Kunđe và M’Pua chết rồi. – Cali đáp.
– Cậu ra lệnh giết chúng à?
– Sư tử hoặc vôbô đã giết chúng.
Rồi nó bắt đầu thuật lại chuyện xảy ra. Họ tìm thấy xác của hai tên tội phạm cách trại khá xa, tại chỗ chúng bị tử thần bắt gặp. Cả hai đều nằm cạnh nhau, cả hai đều có cái sọ bị vỡ nát đằng sau gáy, cánh tay bị cào xé và tấm lưng bị gặm dở dang. Cali cho rằng sư tử hoặc vôbô hiện ra trước mặt bọn chúng trong ánh trăng, thì cả hai liền nằm úp sấp mặt xuống và van xin chúng tha chết cho. Nhưng con thú dữ tợn đã giết cả hai, rồi sau khi cơn đói đã qua, nó ngửi thấy hơi nước liền xé nát các túi đựng nước.
– Chính Chúa đã trừng phạt chúng. – Xtas nói. Người Vahima nên biết rằng Mdimu Ác không thể cứu nổi bất cứ kẻ nào.
Cali lặp lại:
– Chúa đã trừng phạt chúng, nhưng chúng ta không có nước.
– Phía xa xa trước mặt tớ trông thấy những rặng núi về phía Đông. Ở đó chắc chắn có nước.
– Cali cũng trông thấy núi, nhưng nhiều nhiều ngày đường mới tới nơi được. .. Im lặng.
– Ông chủ, – Cali cất tiếng nói. – Xin Mdimu Tốt hãy… xin cô bé hãy cầu Linh thần vĩ đại cho một con sông hay một trận mưa.
Xtas không nói gì hết và bỏ đi. Em trông thấy hình bóng màu trắng của Nen đang đứng trước lều. Tiếng kêu thét và tiếng hú của những người da đen đã đánh thức cô bé dậy từ nãy.
– Có chuyện gì thế, anh Xtas?
Cậu bé đặt tay lên đầu Nen và nói nghiêm trang:
– Nen, hãy cầu Chúa xin nước, nếu không tất cả chúng ta sẽ chết.
Thế là cô bé bèn ngước khuôn mặt nhợt nhạt của mình lên trời và nhìn dán mắt vào vầng trăng bạc,bắt đầu cầu xin Đấng tối cao, ngườ i đã đưa đẩy những chòm sao trên bầu trời và đã quạt gió vào lông cừu trên mặt đất, hãy cứu vớt.
Sau một đêm mất ngủ, ồn ào và không yên tĩnh, mặt trời bỗng nhô lên sau đường chân trời một cách bất thần, như thường khi vẫn vọt lên trong vùng nhiệt đới, một ngày ngập tràn ánh sáng bắt đầu. Trên ngọn cỏ không có lấy một giọt sương, trên bầu trời không một gợn mây. Xtas ra lệnh cho các xạ thủ tập trung mọi người lại và nói chuyện với họ một lúc. Em nói với họ rằng không thể quay lại con sông đã qua nữa, vì chính họ cũng biết rõ rằng nó nằm cách đó năm ngày đêm đường. Nhưng không một ai biết rằng liệu phía đối diện có nước hay không. Rất có thể là ở cách đây không xa có một nguồn suối nào đấy, một con sông hay một vũng nước. Tuy không thấy cỏ, cây cối gì, nhưng thường thường, trên những vùng đồng bằng trống trải, nơi gió mang vung vãi hạt giống đi xa, cây cối cũng không thể mọc được, ngay cả bên cạnh nước.
Hôm qua họ đã trông thấy mấy con linh dương rất to cùng mấy con đà điểu chạy về phía đông, đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng phía ấy hẳn phải có một nguồn nước nào đó. Vậy thì, những ai không phải là kẻ ngu ngốc, những ai trong ngực có trái tim không phải của loài thỏ mà là trái tim của sư tử và trâu rừ ng, người ấy hãy tiếp tục đi về phía trước, dù là đang khát khô cổ và mệt mỏi, chứ không chịu nằm lại để chờ lũ diề u hâu hay linh cẩu tới.
Vừa nói thế, em vừa đưa tay chỉ những con diều hâu đang quần những vòng u ám trên đầu đoàn người. Sau những lời của Xtas, tất cả những người Vahima được Cali ra lệnh đều đứng cả dậy. Vì vốn đã quen tuân phục quyền lực hà khắc của nhà vua, họ không dám cưỡng lại. Nhưng nhiều người Xamburu không muốn đứng dậy, vì vua của họ là Pharu đã ở lại tại vùng hồ. Những người này bảo nhau: “Tại sao chúng ta lại phải đi đón cái chết khi mà tự nó cũng sẽ đến với chúng ta?” Thế là đoàn người tiếp tục tiến lên, giảm đi gần một nửa, và ngay lúc mới lên đường đã rơi vào nỗi mệt nhọc.
Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ người ta không có lấy một giọt nước nào trong cổ họng, cũng không có lấy một chất lỏng nào khác. Ngay cả trong những điều kiện khí hậu mát mẻ hơn, thì khi lao động, chuyện đó cũng đã là chuyện khó chịu đựng nổi, huống hồ trong cái lò lửa Phi châu nóng bỏng này, nơi ngay cả những người được uống nước thỏa thuê cũng bị tháo mồ hôi nhanh đến nỗi họ có thể dùng tay vớt lại nước toát ra khỏi da mình ngay vào lúc đang uống. Cũng có thể thấy trước được rằng, nhiều người sẽ nằm xuống dọc đường vì kiệt sức và vì bị say nắng. Xtas cố gắng hết sức bảo vệ Nen khỏi bị mặt trời thiêu đốt và không cho phép cô bé được ló người ra khỏi cá i bành lấy một phút nào, cái bành mà trên nóc em đã dùng một tấm lụa trắng làm thành hai lớp để che.
Dùng chút nước còn lại trong cái bình cao su, em nấu lên pha chè thật đặc, để nguội đi và đưa cho Nen, không pha đường, vì vị ngọt khiến cho cái khá t tăng thêm. Cô bé rơi lệ van xin em hãy cùng uống, nên em bèn đặt cái bình lên miệng – trong bình chỉ còn lại chừng vài chén nước – rồi động đậy cổ họng giả vờ uống. Lúc cảm thấyvị hơi ẩm trên môi, em tưởng như trong bụng và ngực đang có lửa cháy, và nếu như không dập tắt ngọn lửa ấy thì em sẽ gục xuống chết ngay lập tức. Trong mắt em quay cuồng những đốm màu đỏ, em cảm thấy trong hai hàm răng nhói lên nỗi đau khủng khiếp, dường như có ai đang cắm vào đó hàng ngàn chiếc kim. Tay em run đến nỗi suýt đánh đổ nhữ ng giọt nước cuối cùng ấy. Tuy vậy, em chỉ dùng lưỡi hớp lấy hai ba giọt, còn lại, em dành cho Nen.
Lại một ngày đầy khổ sở và khó nhọc nữa trôi qua, đêm đến, may thay, trời lại mát mẻ hơn. Song sáng ngày hôm sau trời lại vô cùng nóng nực. Không một hơi gió thoảng. Mặt trời như một vị hung thần trút lửa xuống thiêu đốt mặt đất khô rang. Thậm chí không thấy một cây xương khô nào cả, chỉ có một vùng bình nguyên khô cháy, trống trải, phủ đầy những bụi cỏ xám xịt, cùng những cây thạch thảo khô khốc. Chỉ thỉnh thoảng ở tận phía xa xa vang lên những tiếng sấm nhè nhẹ, nhưng trong khi bầu trời đang nắng chang chang, những tiếng sấm ấy không báo hiệu mưa, chỉ báo nắng hạn đang kéo dài mà thôi.
Lúc gần trưa, khi trời nóng nực kinh khủng hơn cả, cần phải dừng lại nghỉ ngơi. Cả đoàn rải ra nghỉ trong im lặng nặng nề.
Kiểm lại thấy một con ngựa bị chết và hơn mười người phu khuân vác nằm lại dọc đường. Ngay cả lúc nghỉ ngơi, không một ai nghĩ đến chuyện ăn. Mắt mọi người hõm sâu, môi nứt nẻ với những cục máu khô đọng lại. Nen thở hổn hển như một con chim. Xtas bèn đưa cái bình cao su cho Nen và kêu lên: “Anh uống rồi! Anh uống rồi!”, rồi em vội chạy trốn sang đầu kia của trại, vì sợ rằng nếu ở lại thì em có thể lấy lại bình nước hoặc sẽ đòi Nen chia nước cho mình chăng. Và đó có thể là hành động dũng cảm nhất của em trong suốt cuộc hành trình. Bản thân em đang khốn khổ vì chịu đựng. Những đốm lửa đỏ quay lượn trước mắt em liên tục. Em cảm thấy hai hàm dính chặt với nhau, đến nỗi há ra ngậm vào đều khô.
Cổ họng em khô khốc, cháy bỏng, không có một ít nướ c bọtnào trong miệng, lưỡi cứ ng đờ như bằng gỗ. Ấy thế mà đối với em cũng như cả đoàn, đây mới chỉ là bước đầu của những nỗi cực hình.
Nhữ ng tiếng sấm báo hạn cứ rền khan ở chântrời. Khoảng ba giờ chiều, khi mặt trời đã ngả vềtây, Xtas ra lệnh cho cả đoàn đứng dậy, rồi dẫn đầucả đoàn tiếp tục tiến về phía đông. Nhưng bây giờđây chỉ còn chừng bảy chục người đi cùng với em, song chốc chốc lại có một người ngã vật xuống bêngói hàng của mình để không bao giờ đứng dậy nữa.Cái nóng giảm đi chừng vài độ nhưng thự c ra lạicòn kinh khủng hơn. Trong bầu không khí lặng yênhình như có hơi khí than lởn vởn. Mọi người dườngnhư không còn gì để thở nữa, lũ súc vật cũng khốnkhổ không ké m. Chỉ một giờ sau khi xuất phát lại một con ngựa nữa ngã gục xuống. Con chó Xaba thởhổn hển, bụng hóp cả lại, cái lưỡi xám xịt thè ranhư không còn một tí bọt nào. Còn con King vốnquen với cái khô cằn của vùng đồng hoang Phichâu, ít nhọc nhằn hơn, nhưng cũng đã bắt đầu nổicáu. Đôi mắt nhỏ bé của nó ánh lên những tia sáng kì lạ. Khi Xtas và nhất là Nen thỉnh thoảng nói vớinó đôi lời, nó còn đáp lại bằng một thứ tiếng gừ gừtrong cổ họng, nhưng Cali vô tình đi qua ngang gầnnó, nó rống lên dữ tợn và huơ vòi ra, suýt nữa thìgiết chết tươi cậu bé, nếu cậu không kịp nhảy tránhvề một bên.
Mắt Cali cũng vằ n máu đỏ, những mạch máu trên cổ nó căng phồng ra, môi nứt nẻ như những người da đen khác. Khoảng năm giờ chiều, nó lại gần Xtas và nói bằng một giọng khản đặc khó khăn lắm mới thoát ra khỏi cổ:
– Ông lớn ơi, Cali không thể đi xa hơn được nữa. Cứ để cho đêm tới ngay chỗ này thôi.
Xtas cố nén nỗi đau đớn trong hai hàm răng và nói một cách khó nhọc:
– Cũng được! Dừng lại thôi. Đêm sẽ dễ chịu hơn.
Mọi người ném phịch những kiện hàng đội trên đầu xuống đất, nhưng vì cái nóng trong người họ đã khiến cho máu đặc lại đến hết mức, nên lần này họ không nằm vật ngay xuống đất. Trái tim và những mạch máu ở thái dương họ, ở chân tay họ, đập mạnh như vỡ tung ra. Da trên thân thể họ khô đi, co lại và bắt đầu nứt nẻ, họ cảm thấy trong xương cốt có cái gì đó thật bồn chồn, còn trong lục phủ ngũ tạng cũng như trong họng thì có lửa đốt. Một số người đi đi lại lại vẻ đầy lo lắng bên cạnh những bọc hàng, còn những người khác thì trong ánh sáng đỏ của vầng mặt trời đang lặn có thể thấy họ nối nhau lẩn quẩn trong những bụi cây khô khỏng như đang muốn tìm kiếm vật gì cho tới khi sức họ hoàn toàn kiệt quệ. Khi đó họ nối nhau ngã xuống mặt đất và nằm xoài người trong cơn rung giật. Cali ngồi xệp bên cạnh Xtas cùng Nen, há hốc miệng đớp đớp không khí, giữa hai hơi thở nó lặp đi lặp lại như một lời van xin:
– Bvana kubva, nước!
Xtas dương cặp mắt đông cứng như thủy tinh nhìn nó và nín lặng.
– bvana kubva! – Rồi một một lúc sau: – Cali chết mất.
Khi đó, Mêa, người mà không rõ vì lí do nào có thể chịu đựng những cơn khát giỏi hơn cả và ít đau khổ hơn tất cả những người khác, bèn tiến đến gần, ngồi xuống cạnh cậu bé, ôm chặt lấy cổ nó và cất giọng du dương khe khẽ nói:
– Mêa muốn chết với Cali…
Im lặng kéo dài…………..
Trong khi đó mặt trời lặn hẳn và đêm bao trùm lên cảnh vật.
Bầu trời ngả sang màu tím than. Chòm sao chữ thập lóe sáng ở phương Nam. Những chòm sao dầy đặc lấp lánh vùng bình nguyên ấy. Mặt trăng dường như nhô lên từ dưới đất tỏa ánh sáng vào bóng đêm, còn phía trời Tây sáng lên, ánh sáng mờ mờ nhạt nhạt của hoàng đạo. Không khí như biến thành một bể ánh sáng to lớn duy nhất. Rồi ánh sáng mỗi lúc một rạng thêm lên. Cái bành trên lưng con King mà người ta đã lãng quên đi cùng nhữ ng lều trại sáng lên như những tường nhàđược quét vôi trắng ánh lên trong bóng đêm. Ánh sáng rơi vào im lặng, trái đất chìm trong giấc ngủ mê mệt.
Thế mà trong cái im lặng và thanh bình này của thiên nhiên, những con người trong khu trại lại đang phải rên lên vì đau đớn và đang chờ chết. Trên cái nền bàng bạc của bóng tối hiện lên sắc cạnh những đường nét khổng lồ của con voi. Ngoài những chiếc lều ra, ánh trăng còn làm sáng lên những bộ quần áo màu trắng của Xtas và Nen, còn trong những bụi thạch thảo là những thân hình sẫm đen co quắp của những người da đen, đây đó vứt lỏng chỏng những bọc hàng hóa. Con Xaba ngồi tựa hai chân trước mặt bọn trẻ, ngẩng đầu trông lên cái đĩa của vầng trăng và hú lên thê thảm.
Trong lòng Xtas quay cuồng những mẩu ý nghĩ, nhào trộn vào nhau thành một cảm giác tuyệt vọng câm lặng, rằng lúc này không còn cứu cánh nào cả, rằng tất thảy, tất thảy những cố gắng và công sức to lớn, những chịu đựng vô song, những hành động can trường và đầy ý chí mà em đã thực hiệ n trong thời gian những chuyến đi kinh khủng từ Mêđinét tới Kháctum, từ Kháctum tới Phasôđa rồi từ Phasôđa tới cái hồ chưa ai biết đến, đã không mang lại một kết quả gì hết, và giờ đây, cái kết cục chấm hết cuộc đấu tranh và sự sống đang kéo đến mộtcách không khoan nhượng. Đối với em, điều khủng khiếp hơn cả là ở chỗ, cái kết cục ấy lại đến chính trong đoạn đường cuối cù ng này, đoạn đường mà cáiđích là đại dương. Ôi, em không còn đưa được bé Nen đến bờ biển nữa, em không cò n được lao vào vòng tay cha, không được nghe ông khen em đã hành động như một thiếu niên can đảm, như một người Ba Lan chân chính nữa! Hết rồi, hết cả rồi! Vài ngày nữa thôi, mặt trời sẽ chỉ gặp những cái xác chết, và sau đó sẽ thiêu đốt chúng cho đến khi chúng giống như những cái xác ướp đang ngủ một giấc ngủ vĩnh hằng trong các viện bảo tàng ở Ai Cập.
Vì đau đớn và nóng sốt, đầu óc em hỗn loạn. Những ảo ảnh và ảo âm hôn mê kéo tới. Em nghe rõ tiếng bọn Xuđan và bọn Bêđuin thét lên: “Yalla, yalla” trên những con lạc đà phi nước đại.
Em trông thấy Iđrix và Ghebơrơ. Gã Mahơđi với cặp môi dầy đang mỉm cười nhìn em và hỏi: “Cháu có muốn uống nước từ nguồn suối chân lí hay không?…” Tiếp đó con sư tử trên phiến đá đang dương mắt nhìn em, rồi ông Linđe đưa cho em lọ thuốc kí ninh và bảo:
“Nhanh lên, nhanh lên cháu, cô bé đang chết kia kìa!” Rồi cuối cùng, em chỉ còn nhìn thấy khuôn mặt vô cùng thân yêu, tái nhợt, và hai cánh tay nhỏ bé đang vươn về phía em.
Đột nhiên em rùng mình tỉnh dậy vì sát bên tai loáng thoáng tiếng thì thào nghe như một lời than vãn của Nen:
– Anh Xtas… nước!
Cũng giống như Cali vừa rồi, cô bé chỉ trông vào em, chờ sự cứu vớt. Nhưng vì mười hai tiếng đồng hồ trước đây em đã trao cho cô bé những giọt nước cuối cùng, nên lúc này em bật dậy, kêu lên thành tiếng, trong tiếng kêu đó có sự bùng nổ của nỗi đau đớn tuyệt vọng và tủi thân:
– Nen ôi! Anh chỉ giả vờ uống thôi, chứ ba ngày nay anh không có một chút nước nào trong họng!
Rồi hai tay ôm chặt lấy đầu, em chạy trốn để khỏi phải nhìn thấy nỗi đau đớn của cô bé. Em cắm đầu chạy như mù giữa những bụi cỏ và thạch thảo cho tới khi ngã vật vào một bụi cây vì hoàn toàn kiệt sức. Em không còn một chút khí giới nào để tự vệ. Bất kì một con báo, một con sư tử hay thậ m chí một con linh cẩu lớn nào cũng có thể ăn thịt em một cách dễ dàng. Nhưng con chó Xaba chạy lại, và sau khi ngửi ngửi khắp người em, con chó hú lên, nhưng muốn gọi người cứu lấy chủ.
Song chẳng hề có ai vội đến cứu. Từ trên trời cao, vầng trăng thản nhiên và không chút động lòng nhìn xuống. Cậu bé nằm rất lâu như đã chết. Mãi tới khi một hơi gió mát mẻ hơn chợt thổi từ phíaĐông tới, khiế n em hồi lại. Xtas ngồi dậy, và lát sau, cố gắng đứng lên để quay về phía Nen.
Hơi gió mát hơn lại thổi đến với em lần thứ hai. Con Xaba thôi hú và quay mũi về phía Đông, cánh mũi phập phồng. Bỗng nhiên nó bật sủa lên một tiếng, rồi hai tiếng, bằng cái giọng trầm đứt đoạn, và nó lao đi về phía trước mặt. Một hồi lâu không nghe thấy tiếng nó, nhưng rồi lát sau tiếng sủa của nó lại vang lên từ phía xa xa. Xtas đứng dậy chuệch choạng trên hai chân cứng đờ dõi nhìn theo nó. Nhữ ng chặng đường dằng dặc, cuộc sống kéo dài trong rừng, sự cần thiết phải căng thẳng tất cả các giác quan một cách thường xuyên, cùng những nỗi nguy hiểm luôn luôn đe dọa để dạy cho cậu bé chú ý đến tất cả những gì xảy ra chung quanh, nên giờ đây, mặc dù đau đớn, mặc dù trí óc không thật tỉnh táo, nhưng bằng bản năng và thói quen, em liền chú ý ngay tới hành động của con chó. Một lúc sau, con Xaba lại xuất hiện bên cạnh em có vẻ rất xúc động và loay hoay một cách lạ lùng. Mấy lần liền nó ngước mắt nhìn Xtas, nó chạy vòng tròn, rồi lại lao đi, hít hít không khí và sủa về phía đám thạch thảo, rồi lại quay trở lại, và cắn lấy quần cậu bé lôi về phía ngược với trạ i.
Xtas đã hoàn toàn tỉnh táo.
“Gì thế nhỉ? – Em nghĩ thầm – Hoặc là con chó đã hóa điên vì quá khát, hoặc là nó cảm thấy có nước đâu đây. Nhưng mà không!… Giá như có nguồn nước gần đây thì nó đã phải chạy ngay tới uống và mõm nó phải ướt chứ. Nếu như nước ở xa thì hẳn là nó không ngửi thấy… nước không có mùi… Còn nếu có linh dương thì chắ c nó không muốn ăn. Thú dữ chắc cũ ng không phải… Vậy thì là cái gì?
Và bỗng nhiên trái tim cậu bé đập mạnh hơn trong lồng ngực.
“Vậy rất có thể là gió đã mang lại hơi người… Có thể ở phía xa xa kia có một cái làng dân da đen nào chăng?… Có thể một cái diều đã bay được tới tận…Ôi, Đức Chúa Giêsu lòng lành, ôi Đức Chúa Giêsu…” Dưới ảnh hưởng của tia hi vọng, em bỗng lấy lại được sức lực và lao ngay về phía trại mặc dù con chó cứ cưỡng lại, bằng cách chạy chắ n đường em.
Trong trại, em trông thấy cái bóng trắng của Nen, em nghe thấy tiếng nói yếu ớt của cô bé, em vấp phải Cali đang nằm trên mặt đất, nhưng em không còn để ý đến điều gì nữa cả. Em lao đến cái gói đựng pháo hiệu, xé toạc ra, rút một cái, tay run rẩy buộc nó vào một cái cọc tre cắm xuống khe nứt trên mặt đất, đánh lửa và châm vào sợi dây ngòi nhỏ lủng lẳng dưới chân ống pháo.
Một giây sau, một con rắn đỏ vừa kêu rít vừa bay lên cao, Xtas ôm chặt hai tay vào cây cọc tre để khỏi ngã và dán mắt nhìn về phía xa. Mạch ở tay em và ở thái dương em đập mạnh như búa, môi em mấp máy những câu cầu nguyện khẩn thiết. Em gửi hơi thở cuối cùng của mình trong đó chứa đựng cả tâm hồn đến với Đức Chúa.
Một phút trôi qua, rồi hai, ba, bốn phút. Không thấy gì, không thấy gì cả! Hai tay cậu bé buông thõng xuống, đầu gục xuống phía mặt đất và một nỗi tủi hận trào lên trong lồng ngực đã quá đau khổ của em.
– Vô ích! Vô ích! – Em thì thào. – Ta sẽ đến, ngồi xuống cạnh Nen và sẽ chết cùng em!
….
Chính vào lúc ấy, ở xa xa, trên cái nền màu bạc của đêm trăng, đột nhiên vọt lên một dải lửa rồi tóe ra thành những vì sao màu vàng rơi lả tả như những giọt lệ lớn xuống mặt đất.
– Cứu tinh… – Xtas kêu lên.
Thế là những người vừa như chết dở mới đây lao dậy chạy như đua nhau vượt qua những bụi thạch thảo và những bụi cỏ.
Sau cái pháo hiệu thứ nhất tiếp đến cái thứ hai rồi thứ ba. Sau đó hơi gió mang lại tiếng gì như tiếng gõ mà người ta dễ dàng nhận ra đó là tiếng súng xa xa. Xtas ra lệnh cho tất cả các khẩu súng rêmingtơn đều phát hỏa, thế là từ đó cuộc đối thoại của những khẩu súng trường không ngơi nghỉ một giây, mỗi lúc càng nghe rõ hơn lên. Cậu bé nhảy lên lưng ngựa, con ngựa dường như cũng được một phép thần nào đó trả lại cho sức lực, và giữ chặt Nen trước yên, Xtas phi như bay về phía những thanh âm cứu tinh, xuyên qua đồng bằng. Con Xaba chạy theo bên cạnh, phía sau là con King khổng lồ với nhữ ng bước chân thình thịch.
Hai trại cách nhau chừng vài cây số, nhưng vì người ta lao đến với nhau từ cả hai phía đồng thời, nên quãng đường đó chẳng phải đi mất bao lâu. Chẳng mấy chốc, không những chỉ nghe mà còn thấy được nhữ ng phát súng bắn nữa. Lại thêm một chiếc pháo hiệu bay lên không trung, cách đấy cùng lắm chỉ vài trăm bước chân. Rồi nhiều ánh đuốc sáng bừng lên. Mặt đất hơi nhô cao che khuất chúng đi trong giây lát, nhưng khi Xtas vừa vượt qua được thì em gần như đột ngột chạm ngay vào một hàng rào người da đen đang cầm trong tay những bó đuốc chá y rừng rực.
Dẫn đầu đoàn là hai người Âu đội mũ kiểu Anh và cầm súng.
Chỉ cần thoáng qua Xtas đã nhận ra ngay đó chính là đại uý Glen và bác sĩ Clery.
Chuyến đi của đại uý Glen và bác sĩ Clery hoàn toàn không nhằm mục đích tìm kiếm Nen và Xtas.Đó là một chuyến đi rất đông người và được hậu cần chu đáo của chính phủ, nhằm mục đích nghiêncứu sườn phía Đông Bắc của dãy núi Kilima Ndarô khổng lồ, cùng với những vùng đất còn rất ít được biết đến nằm ở phía Bắc rặng núi này. Mặ c dù cả đại uý lẫn bác sĩ đều biết tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc từ Mêđinét En Phaium (vì các nhật báo Anh và Ả Rập đều đưa tin này) nhưng họ nghĩ rằng cả hai trẻ hoặc đã chết hoặc đang rên xiết trong cảnh nô lệ ở xứ sở của tên Mahơđi, nơi mà không một ngườidân châu Âu nào trốn thoát. Ông Clery có người chị lấy ông Rôlixơn ở Bombay, rất yêu thích cô bé Nen trong chuyến đi tới Cairô, cảm thấy vô cùng đau đớn vì bị mất cô bé.
Song cả hai ông nói chung cũngchân thành thương tiếc cậu bé cương nghị. Đã mấy lần liề n từ Mombaxa họ gửi điện tới ông Rôlixơn để hỏi thăm xem đã tìm thấy bọn trẻ chưa, và mãi cho tới khi nhận được bức điện cuối cùng – điện đến từ trước khi họ lên đường khá lâu – với câu trả lời mang tin buồn, thì cả hai mới mất hi vọng.
Thậm chí họ không hề nghĩ rằng bọn trẻ vốn bị giam ở thành Kháctum xa xôi lại có thể xuất hiện ở vùng này. Tuy nhiên, thường thường, về đêm, sau khi kết thúc những công việc ban ngày, họ thường trò chuyện về bọn trẻ, vì bác sĩ không sao quên nổi cô bé xinh xắn tuyệt vời nọ.
Trong khi đó, chuyến đi của họ càng ngày càng tiến xa. Sau khi dừng chân một thời gian lâu trêncác sườn phía Đông của dãy núi Kilima Ndarô, sau khi đã khảo sát nguồn sông Xốpbát và Tana cùng ngọn núi Kênia, đại uý và bác sĩ quặt về phía Bắc, rồi sau khi vượt qua vùng Cuaxô Nưirô lầy lội, họ tiến vào một vùng đồng bằng rộng lớn, không cư dân, chỉ có những đàn linh dương không tính xuể sinh sống. Sau hơn ba tháng đi đường, cần để cho mọi người được nghỉ ngơi một thời gian dài, vậy nên đại uý Glen – sau khi phát hiện được cái hồ nhỏ nhiều nước, một thứ nước màu nâu nâu nhưng rất lành, liền ra lệnh hạ trại tại đó và tuyên bố nghỉ mười ngày.
Trong khi dừng chân nghỉ, hai người da trắng thường lo việc săn bắn, chỉnh lại những ghi chép về địa lí và tự nhiên, còn những người da đen thì rong chơi theo đúng sở thích của họ. Một ngày kia, bác sĩ Clery dậy sớm, vừa khi đến bên bờ hồ, ông trông thấy khoảng mươi người Dandiba trong đoàn đang ngước mắt nhìn lên một ngọn cây cao, lặp đi lặp lại một cách luẩn quẩn:
– Ndege? Akuna ndege! Ndege? (Chim? không phải chim!
Chim?) Bác sĩ bị cận thị nên bảo người về lều mang lại cho mình cái kính dã chiến, rồi nhìn qua kính lên cái vật mà những người da đen đang chỉ trỏ – và một nỗi kinh ngạc hiện lên trên mặt ông.
– Hãy mời đại uý đến ngay! – Ông bảo.
Song trước khi những người da đen kịp chạy đến nơi, đại uý đã hiện ra trước cửa lều vì ông đang định đi săn linh dương.
– Trông này, anh Glen! – Bác sĩ vừa nói vừa trỏ lên cây.
Đến lượt đại uý cũng ngửa đầu nhìn lên, lấy tay che mắt và ngạc nhiên không kém bác sĩ.
– Cái diều! – Ông kêu lên.
– Phải, nhưng những người da đen không biết thả diều, từ đâu nó bay lại đây mới được chứ?
– Có lẽ có một cái làng da trắng nào hay một đoàn truyền giáo nào đó đang ở gần đây chăng?…
– Gió đã thổi từ hướng Tây suốt ba ngày nay rồi, nghĩa là thổi từ phía vùng ta chưa biết, vùng mà hình như cũng không người như cái đồng hoang này vậy. Mà anh cũng biết đấy, vùng này đâu có làng nào, cũng có đoàn truyền giáo nào đâu.
– Vậy thì lạ thật nhỉ…
– Phải lấy cho được. Có thể chúng ta sẽ biết được nó xuất phát từ đâu chăng.
Đại uý ra lệnh. Cái cây cao vài chục mét, nhưng những người da đen trong chớp mắt đã leo lên đến ngọn, cẩn thận lấy cái diều đang bị vướng xuống, đưa cho bác sĩ. Bác sĩ vừa nhìn cái diề u đã bảo ngay:
– Có những chữ gì đây này… Ta đọc xem…Rồi nheo mắt lại, ông bắt đầu đọc. Bỗng nhiên mặt ông biến đổi hẳn, tay run run.
– Anh Glen, – ông nói, – anh hãy cầm lấy đọc lênvà bảo cho tôi biết xem tôi có bị say nắng không và trí óc tôi có hoàn toàn minh mẫn hay không.
Đại uý cầm lấy cái gọng diều bằng tre có dán tờ giấy và đọc như sau: “Nenly Rôlixơn và Xtanixoáp Tarcôpxki.
Bị đưa từ Kháctum đi Phasôđa. Rồi từ Phasôđa bị đưa về phía dòng sông Nin.Đã thoát khỏi tay bọn phiến loạn. Sau nhiều tháng đi đường chúng tôi đã đến được một cái hồ nằm ở phía Nam Abixinia.Chúng tôi đang đi về phía Đông. Yêu cầu được cứu ngay”.Ở rìa tờ giấy có một dòng ghi thêm bằng nét chữ nhỏ hơn:
“Cái diều này là cái thứ năm mươi tư, đượ c thả lên từ dãy núi vây quanh cái hồ chưa có tên trong địa lí. Ai nhặt được xin chuyển cho Công ti Kênh đào ở Port Xaiđơ hoặc cho đại uý Glen ở Momxaba.
Xtanixoáp Tarcôpxki”. Khi giọng đọc của đại uý đã lặng đi, cả hai người bạn cùng im lặng nhìn nhau.
– Cái gì thế này? – Mãi sau bác sĩ Clery mới hỏi.
– Tôi không tin vào mắt mình nữa! – Đại uý trả lời.
– Nhưng đây đâu phải là ảo ảnh.
– Không phải!
– Rõ ràng viết: “Nenly Rôlixơn và XtanixoápTarcôpxki”.
– Thật rõ ràng.
– Sao bọn trẻ lại có thể ở vùng này nhỉ?
– Chúa đã cứu thoát chúng, rất có thể là như thế.
– Tạ ơn Người! – Bác sĩ nhiệt thành kêu lên.
– Nhưng biết tìm bọn chúng ở đâu bây giờ.
– Trên diều không còn viết thêm gì nữa à?
– Còn vài chữ nữa nhưng đúng vào chỗ bị cành cây chọc thủng. Khó mà đọc nổi.
Cả hai chụm đầu xuống tờ giấy và sau khi nghiên cứu khá lâu, họ mới đánh vần được nổi:
– “Mùa mưa qua đã lâu”.
– Thế có nghĩa là gì? – bác sĩ hỏi.
– Có nghĩa là thằng bé không còn tính được thời gian nữa.
– Và bằng cách này nó muốn báo gần đúng thời gian. Anh nó i phải lắm. Và như thế có nghĩa là chiếc diều này mới thả cách đây chưa lâu.
– Nếu đúng như thế thì bọn trẻ ở cách đây không xa!
Cuộc trò chuyện sôi nổi đứt đoạn còn kéo dài một chút nữa, rồi hai người bạn lại nghiên cứu cái tài liệu nọ một lần nữa, mỗi người đều nghiền ngẫm riêng mình thật kĩ mỗi lời mỗi chữ ghi trên đó. Song việc này khó tin đến nỗi giá như nó không xảy rađúng vào cái vùng hoàn toàn không có người Âu sinh sống và cách bờ biển những sáu trăm cây số, thì hẳn bác sĩ và đại uý đã cho rằng đó chỉ là mộttrò đùa không phải lúc mà một bạn trẻ người Âu nào đó hoặc những đứa con nuôi của một đoàn truyền giáo nào đó đã bày đặt ra sau khi đọc tin về việc bọn trẻ bị bắt cóc qua các báo mà thôi. Song thật khó mà không tin vào chính mắt mình: họ đang cầm cái diều thật trong tay, trên đó nổi rõ lên những hàng chữ màu đen đã hơi bị mờ đi.
Ấy thế mà nhiều chuyện họ không sao hiểu nổi. Bọn trẻ kiếm ở đâu ra giấy để làm diều? Nếu như có một đoàn thương khách nào đó cho chúng giấy, thì hẳn là chúng đã nhập luôn vào đó và đâu cần xin cứu viện nữa. Vì những lí do gì mà cậu bé không cố gắng cùng với cô bạn đồng hành nhỏ bé của mình chạy trốn sang Abixinia? Vì sao bọn phiếnloạn đày bọn trẻ về phía Đông sông Nin, tới vùng đất chưa ngườ i biết đến? Làm cách nào chúng có thể thoát khỏi tay bọn canh giữ? Chúng ẩn náu ở đâu? Bằng phép màu nhiệm nào mà suốt hàng tháng trời đi đường ròng rã chúng không bị chết đói, không làm mồi cho dã thú? Vì sao những người dã man không giết chúng? Tất cả những câu hỏi đó đều không có trả lời.
– Tôi không hiểu gì cả, tôi không thể hiểu gì cả!
– Bác sĩ Glery lặp đi lặp lại. – Họa chăng đó là sự kì diệu của Chúa.
– Chắc chắn là thế. – Đại uý đáp.
Rồi ông nói thêm:
– Nhưng cả cái thằng bé ấy nữa chứ! Vì rõ ràng đây là công lao của nó.
– Nó đã không bỏ rơi con bé! Cầu Chúa ban phước lành cho cái đầu và đôi mắt của chú bé!
– Xtanlây, thậm chí cả Xtanlây cũng không thể sống nổi quá ba ngày trong những điều kiện như thế.
– Ấy thế mà bọn trẻ lại sống nổi.
– Và chúng đang cầu cứu. Chấm dứt chuyện nghỉ ngơi! Lên đường ngay lập tức!
Và họ làm đúng thế. Dọc đường hai người bạn lại nghiên cứu tài liệu một lần nữa, vì họ tin rằng có thể tìm thấy trong đó lời chỉ dẫn về phương hướng mà họ cần phải đi để cứu bọn trẻ.
Nhưngkhông có chỉ dẫn nào hết. Đại uý dẫn đoàn đi theo đường dích dắc với hi vọng là có thể gặp một đống lửa đã tắt hoặc những dấu hiệu nào đó khắc lên vỏ cây. Họ cứ đi như thế mấy ngày liền.
Không may, sau đó họ tiến vào một vùng đồng bằng hoàn toàn không có cây cối gì, chỉ phủ đầy những bụi thạch thảo cao và những lùm cỏ khô khốc. Nỗi lo lắng bắt đầu hành hạ hai ngườ i bạn. Trên cái khoảng không gian mênh mông này thậm chí có thể dễ dàng bỏ qua cả những đoàn thương khách lớn chứ chưa nói tới hai đứa trẻ con, mà theo tưởng tượng của họ, đang bò trườn ở đâu đó như hai con sâu nhỏ giữa nhữ ng bụi thạch thảo còn cao hơn chúng nữ a. Lại một ngày nữa trôi qua. Nhữ ng cái lon đựng giấy để lại trong các bụi cây cũng như những đống lửa ban đêm không hề giúp gì. Đại uý và bác sĩ đôi khi đã bắt đầu thấy mất hi vọng, không hiểu liệu có tìm thấy bọn trẻ hay không, nhất là có tìm thấy chúng cò n sống hay không.
Tuy nhiên, họ vẫn tìm kiếm một cách nhiệt thành suốt mấy ngày nữa. Những đội tuần tra mà đại uý Glen phái đi sang phía bên trái và bên phải cho biết rằng tiếp theo đây sẽ là vùng hoang mạc khô cằn hoàn toàn không có nước, cho nên khi tình cờ tìm thấy nước trong một khe đất, họ đành phải dừng lại để lấy nước chuẩn bị cho chuyến đi tiếp tục.
Cái khe thực ra chỉ là một hẽm sâu chừng mươi mét và rất hẹp. Dưới lòng khe có nguồn nước nóngsủi bọt như sôi vì có chứa axít cácbôníc. Song sau khi để nguội đi, nước lại rất tốt và rất lành. Nguồn nước dồi dào đến nỗi cả ba trăm người trong đoàn cũng không thể khiến nó cạn được. Ngược lại, họcàng lấy nhiều nước bao nhiêu thì nguồn lại càng phun mạnh bấy nhiêu và khiến cho khe càng đầy hơn nhiều.
– Cũng có thể với thời gian vù ng này sẽ thành một nơi chữa bệnh, – bác sĩ Clery nói. Nhưng hiện nay thì bọn thú không uống được nước này vì hai sườn khe quá dốc.
– Liệu bọn trẻ có tìm ra được một nguồn nước tương tự như thế này không nhỉ? – Đại uý hỏi.
– Không rõ. Cũng có thể là trong vùng này có nhiều nguồn nước. Nhưng nếu không thì bọn trẻ chết mất vì thiếu nước.
Đêm đến. Họ đốt lên những đống lửa heo hắt mặc dù không dựng hàng rào chắn vì chẳng biết dựng bằng gì. Sau khi ăn tối, bác sĩ và đại uý ngồi trên những chiếc ghế gấp và vừa hút thuốc vừa trò chuyện về những điều đang đè nặng nhất lên trái tim họ.
– Không có lấy một dấu vết nào hết! – Ông Clerythốt lên.
– Mình đã định, – Glen đáp, – phái mươi người của chúng ta đi đến biển để đánh điện báo là đã có tin bọn trẻ. Nhưng thật mừng là mình đã không làm việc đó, vì chắc là những người này sẽ chết dọc đường, mà nếu họ có đến nơi được chăng nữa thì khuấy lên cái hi vọng hão huyền mà làm gì…
– Để lại khiến cho nỗi đau trở lại…
Bác sĩ nhấc cái mũ ra khỏi đầu, lau trán đẫm mồ hôi.
– Này, – ông nói, – nhưng nếu chúng mình quay trở lại cái hồ ấy, chặt thật nhiều cây và đêm đêm đốt những đống lửa thật to thì có thể bọn trẻ thấy được đấy…
– Nếu như chúng ở gần thì thể nào chúng mình cũng tìm được chúng, còn nếu chúng ở xa thì sự lồi lõm của địa hình sẽ che mất ánh lửa. Cái bình nguyên này có vẻ bằng phẳng nhưng thực ra đầy gò đống, lượn sóng như mặt đại dương. Thêm nữa, nếu đi lùi lại thì chúng mình bị mất thêm khả năng tìm ra dấu vết của bọn trẻ.
– Anh hãy nói thẳng xem, không còn tí hi vọng nào nữa à?
– Bạn thân yêu ơi, chúng ta là người lớn, mạnh khỏe và tháo vát, thế nhưng cậu hãy nghĩ thử xem chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chúng mình chỉ có độc hai đứa rơi vào xứ này, cứ cho là có cả khí giới đi, nhưng không có lương thực và không có người nào khác…
– Phải, phải, đáng buồn là đúng như vậy… Tôi hình dung ra cảnh hai đứa trẻ đi qua vùng hoang mạc trong một đêm như thế này.
– Đói, khát, thú dữ…
– Ấy thế mà thằng bé lại viết rằng chúng nó đã đi qua nhiều tháng ròng rã.
– Thế nên trong chuyện này có cái gì đó vượt quá sức tưởng tượng của mình.
Một hồi lâu trong lặng im chỉ nghe thấy tiếng thuốc lá đang ngún cháy trong nõ tẩu. Bá c sĩ nhìn đăm đăm vào bóng đêm nhợt nhạt, rồi hạ giọng nói:
– Khuya rồi, nhưng tôi không thấy buồn ngủ…Cứ nghĩ rằng bọn trẻ còn sống, vẫn đang lang thang đâu đó trong ánh trăng, giữa những bụi thạch thảo khô khốc này… mỗi mình hai đứa… hai đứa trẻ con như thế. Anh có nhớ không, Glen, cái khuôn mặt đầy vẻ thiên thần của cô bé.
– Nhớ chứ, mình không sao quên được.
– Ôi! Tôi sẵn sàng để cho chặt tay mình giá như…
Ông không nói hết câu, vì đại uý Glen bật dậy như bị bỏng.
– Pháo hiệu ở phía xa! – Ông kêu lên. – Pháohiệu!
– Pháo hiệu! – Bác sĩ lắp lại.
– Có một đoàn người nào đó đang ở phía trướcchúng ta.
– Có thể là họ đã tìm thấy bọn trẻ.
– Có thể. Mau đến với họ đi!
– Tiến lên!
Nhữ ng mệnh lệnh của đại uý trong chớp mắt loan ra toàn trại. Những người Danbiba bật dậy.Nhữ ng ngọn đuốc được thắp sáng lên ngay. Để trả lời lại tín hiệu phía xa, ông Glen cho đốt liền mấy cái pháo hiệu, cái nọ tiếp theo cái kia, rồi sau đó cho bắn mấy loạt súng. Chưa đầy mươi lăm phút cả trại đã lên đường.
Từ phía xa có những tiếng súng đáp lại. Không còn nghi ngờ gì nữa, rằng có một đoàn người Âu đang kêu gọi sự giúp đỡ vì một lí do chưa tường nào đó.
Đại uý và bác sĩ thi nhau chạy, vừa hi vọng vừa phập phồng lo sợ. Họ có tìm thấy bọn trẻ hay không? Bác sĩ nhủ thầm trong bụng rằng nếu như không thì chắc hẳn trên con đường tiếp theo đó họ chỉ còn tìm thấy xác của chúng giữa những lùm thạch thảo kinh khủng này mà thôi.
Nửa giờ sau, một cái gò nhô lên trong số nhữ ng chỗ lồi lõm được nói tới trên kia đã chắn mất tầm mắt của hai người bạn.
Nhưng họ đã tới gần đến nỗi có thể nghe rõ tiếng vó ngựa. Chỉ mấy phút sau, trên sườn đồi đã hiện ra một kị sĩ đang ôm giữ trước mặt mình một vật gì đó to lớn màu trắng.
– Giơ đuốc lên cao! – Glen ra lệnh.
Đúng vào lúc đó người kị sĩ nọ dừng ngựa trong vùng ánh sáng.
– Nước! Nước!
– Bọn trẻ! – Bác sĩ Clery hét lên.
– Nước! – Xtas lặp lại. Và em gần như ném Nen vào tay đại uý rồi nhảy xuống ngựa.
Song ngay tức khắc em lảo đảo và ngã vật xuống như chết.