Lúc bốn giờ chiều thứ bảy, chúng tôi dong thuyền thẳng tiến về đảo Hải tặc.
Thoạt đầu ai nấy đều hồ hởi. Những chú cá heo bơi theo nô giỡn, mặt trời chiếu sáng tươi vui. Nhưng chẳng mấy chốc khi giờ cầu nguyện magirb đến, thuyền chúng tôi bắt đầu chao đảo. Những ngọn song cao dần. Càng đi ra xa, thuyền càng khó điều khiển.
Thời tiết mới lúc trước vẫn còn êm ả là thế mà giờ gió nổi lên ào ào. Mây đen cuồn cuộn kéo đến. Ánh chớp liên tục lóe lên xé toạc bầu trời.
Thuyền trưởng cố chống chọi nhưng động cơ bốn mươi mã lực không ăn thua gì. Ông ta sợ nếu chúng tôi cố chống lại sóng, thuyền sẽ bị lật úp. Sóng nổi điên cuồng.
Chúng tôi mau chóng nhận ra mình đang lâm vào tình cảnh hiểm nghèo. Mà cơn bão thực sự thậm chí còn chưa đến. Những đợt sóng khổng lồ liên tục cuộn lên. Chúng tôi túm tụm vào nhau bu quanh cột buồn cố bám chặt lấy, hệt như người đang đối mặt với Tử thần.
Chúng tôi đang yên đang lành mà chỉ trong nháy mắt đã phải vật lộn để giành lấy sự sống. Tôi thấy hối tiếc vì đã nghe theo những kẻ dở điên dở tỉnh của hội Soceiteit đi gặp một pháp sư mà đến mạng sống của mình còn chẳng quan tâm. Tôi trông xuống mặt biển đen ngòm, chẳng thể tưởng tượng nổi bên dưới đó có gì. Tôi sợ sẽ bị chìm vào cái thế giới lạ lẫm tăm tối đó.
Chúng tôi bất lực, như thể bị bàn tay một người khổng lồ hất qua hất lại đùa chơi. Rồi cơn bão đến vùi dập con thuyền xoay mòng mòng như con quay. Chúng tôi ngã sóng soài cả ra boong. Thuyền trưởng nhanh chóng hạ cánh buồm đã bị gió đánh cho tơi tả, đóng khoang, hất những vật sắc nhọn ra và tắt máy. Ông ta ra lệnh cho chúng tôi buộc người vào cột buồm. Chúng tôi quấn dây thừng vào thắt lưng mấy vòng và buộc người vào cột buồm để khỏi bị văng xuống biển.
Khuôn mặt thuyền trưởng toát lên vẻ vô vọng. Ông ta cũng buộc người vào cột buồm. Nếu chúng tôi chết chìm hết thì khi rơi xuống đáy, thi thể mỗi người sẽ lủng lẳng ở đầu mấy sợ dây thừng hệt những xúc tu bạch tuộc.
Sóng vẫn không lặng hơn chút nào. Ngày một dữ dội hơn thì có. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm lúc này là đợi thuyền chìm. Giây phút chúng tôi sợ hãi đã đến. Từ xa chúng tôi trông thấy một con sóng cao khủng khiếp lừng lững tiến tới. Ai nấy đều run lên kinh hãi. Con sóng ghê gơm đó đổ ập xuống là gãy đôi cột buồm. Một nửa đổ xuống thân tàu chọc thủng một lỗ lớn khiến nước tuôn vào ào ạt.
Mujis, Mahar và anh người Hoa nãy giờ vẫn bám cột buồm bị nửa cây cột kia tông mạnh vào, ngã lăn trên boong. Nếu khoang chưa đóng thì chắc bọn họ đã làm mồi cho lũ cá rồi. Họ hét lên hoảng sợ. Tôi nghĩ chắc thế là hết rồi, nước biển chẳng mấy nữa mà đỏ lòm vì lũ cá mập sắp mở tiệc tới nơi. Nhưng đúng lúc gay go nhất, tôi nghe văng vẳng tiếng ai đó la lên. Viên trưởng cảnh về hưu khấn nguyện trong lúc chúng tôi đang bị quăng quật dữ dội còn nước thì sắp nhấn chìm thuyền rồi. Nhưng dần dần, những đợt sóng dịu đi một cách thần kỳ.
Viên trưởng cảng vẫn liên tục cầu khấn, và đợt sóng lúc mỗi lúc một lắng dần. Chỉ một lúc sau những đợt sóng kinh khủng lùi dần, mây đen cũng tản ra. Chúng tôi sửng sốt trước sự thay đổi chóng vánh ấy. Những con sóng dữ dội trở nên hiền hòa, và một lúc sau gió lặng, giống như một cái quạt vừa được tắt đi. Cơn bão chết người biến mất như chưa từng xảy ra. Tôi thường nghe câu chuyện của người Sarong rằng nếu gặp chuyện không may ngoài khơi và họ chẳng thể làm gì để tự cứu mình thì phương kế cuối cùng là viện đến sự giúp đỡ của đấng Allah thông qua lời cầu kinh. Chúng tôi đã chứng minh rằng điều đó hoàn toàn đúng.
Đêm xuống.
Thuyền trưởng quan sát mặt trăng và những ngôi sao chiếu sáng lấp lánh trên bầu trời. Ông cho nổ máy. Con thuyền lại tiếp tục hành trình.
Không lâu sau đó thuyền trưởng tắt động cơ và nhìn xung quanh bằng đôi mắt nhà nghề. Chúng tôi trông thấy những bóng đen thấp thoáng đằng trước, nhìn không rõ lắm vì sương mù che mất tầm nhìn. Chúng tôi vô cùng lo lắng, ngờ rằng một mối nguy hiểm khác sắp xuất hiện – cướp biển, những con vật to lớn, hay có khi là một cơn bão khác. Bất thình lình, thuyền trưởng chỉ tay và hét lớn giọng khàn đặc:
“Đảo Hải tặc!”
Hòn đảo đứng trơ trọi, như một vật thể lạ, xung quanh là biển. Nhìn đảo Hải tặc người ta dễ có cảm giác nó không muốn bất kỳ du khách nào viếng thăm. Có thể nghe thấy từng đợt hú dài của lũ chó hoang, tiếng lầm rầm của những hồn ma ám đảo.
Hòn đảo toát lên vẻ thần bí, khiến người ta cảm thấy như mình đang ở trong nghĩa địa; cảm giác về sự bội giáo, phản bội, sự nổi loạn chống lại Thượng đế. Có tiếng gào thét của những con vật bị hiến tế. Người ta có thể ngửi thấy mùi máu, mùi xác chết hôi thối phảng phất trong không khí; và khói nhang nghi ngút vời ma gọi quỷ.
Có tiếng chó tru trong đêm tối tĩnh lặng nhưng chẳng thấy chúng đâu, thỉnh thoảng nghe như tiếng trẻ em khóc hay tiếng bà già van xin tha thứ trong khi bị lửa địa ngục thiêu đốt. Những âm thanh đó khiến chúng tôi hồn xiêu phách lạc. Đúng là Tuk Bayan Tula có khả năng thôi miên vật to lớn thật. Vào lúc đó, tôi phải thừa nhận rằng Tuk Bayan Tula, dù cho ông ta ở đâu đi nữa, thật sự là một pháp sư đầy quyền năng.
Chúng tôi xuống thuyền và men theo lối đi về phía cửa hang. Chúng tôi nhận thấy những chiếc lá cọ được sắp sẵn cho từng người ở ngay miệng hang. Chúng tôi đã được chào đón và phải sẵn sàng chấp nhận rủi ro có thể mất mạng tại đây.
Bên trong hang, chúng tôi thấy một tấm vải mỏng bay phần phật. Từ từ, hệt một làn khói bốc lên từ chỗ củi ướt, một bóng người to lớn xuất hiện. Tôi trông thấy bóng người đó chuyển động mà không chạm đất. Mọi người đều nghi ngờ sự tồn tại của ma thuật, nhưng chính mắt tôi trông thấy một người lửng lơ trong không khí, chuyển động qua lại hệt một vật thể không trọng lượng. Bóng hình đó có ma thuật, và khiến tất cả người Mã Lai đều kinh sợ, ông ta là người duy nhất có đủ pháp thuật để băng qua biển, ông ta nửa người nửa ma. Ông ta là Tuk Bayan Tula.
Chúng tôi kính cẩn đứng xung quanh, cách Tuk Bayan Tula hai mét. Một tấm vải đen bao quanh người ông ta. Cả râu và tóc đều có màu nâu, dài, đã bạc, rối bù. Xương gò mà nhô cao cho thấy ông ta có khả năng thực hiện những hành động tàn bạo không thể tưởng tượng nổi. Lông mày rậm và cao cho thấy ông ta chẳng sợ một thứ gì, kể cả Thượng đế. Đặc điểm nổi bật nhất của ông là đôi mắt, sáng như mắt gấu, rặt một màu đen.
Pháp sư nửa người nửa ma đó không thân thiện. Mahar đứng như bị bỏ bùa nhìn ông ta chằm chằm, không đủ dũng khí đến gần. Flo lại bên Mahar giật giật tay nó. Đứa con gái lạ lùng đó lôi Mahar về phía ông pháp sư không chút chần chừ.
Rất cẩn trọng, thằng Mahar thì thầm gì đó với Tuk Bayan Tula. Pháp sư chẳng để ý gì. Ông dõi mắt nhìn xa xăm ra đại dương lung linh ánh trăng. Mahar, bằng giọng lí nhí đến nỗi hầu như chẳng ai nghe thấy, kể cho ông ta nghe về mối nguy hiểm chết người chúng tôi đã trải qua trên đường đến gặp ông.
“… bão… gió to… cột buồm bị gãy… khấn cầu…”
Tuk Bayan Tula nghe không mấy hứng thú. Mahar tiếp tục câu chuyện kể cho ông ta nghe lý do chúng tôi đến đây.
“Flo và con… sắp bị đuổi học rồi… tụi con nhận ba thư cảnh cáo vì những con điểm đỏ rồi… tụi con muốn nhờ ngài giúp để thi đậu.”
Thình lình Tuk Bayan Tula quay về phía Mahar và Flo. Hai đứa ngỗ ngược đó mặt tái không còn giọt máu. Ông ta vỗ vai Mahar và lắc đầu. Mahar sung sướng muốn ngất. Các thành viên Soceiteit hãnh diện vì thủ lĩnh của mình được vị pháp sư có sức mạnh vô song bấy lâu nay họ vẫn giữ trong lòng một hình ảnh thiêng liêng chạm tay vào. Mahar biết nó cần phải làm gì. Nó lấy một mảnh giấy và cái bút ra kính cẩn trao cho Tuk Bayan Tula. Pháp sư cầm lấy nó và trở vào hang nhanh như chớp.
Những gì xảy ra sau đó rất lạ lùng. Chúng tôi nghe thấy những giọng nói lớn ầm ĩ vang lên từ bên trong hang, như có cả mười người đang đánh nhau. Chúng tôi rúm rụm cả lại, đề phòng, co rúm người trước những tiếng hú của bầy thú vô hình.
Rõ ràng là Tuk Bayan Tula đang đánh nhau với những con dã thú trong đó. Dường như để thực hiện lời thỉnh cầu của Mahar, ông ta phải đánh nhau với hàng ngàn con ma. Mặt nó lộ vẻ hối hận. Nó không thể chịu được ý nghĩ rằng thần tượng yêu quý của nó sẽ phải chết chỉ vì lời thỉnh cầu được thi đậu của nó.
Bụi cuộn từ trong hang bốc ra vì trận đánh dữ dội với bầy thú dữ bên trong. Trận chiến vẫn dữ dội cho đến khi rốt cuộc chúng tôi nghe thấy tiếng thét thua cuộc. Hàng chục cái bóng như những xác chết phủ vài đen bay ra khỏi hang, xuyên qua những ngọn cây santigi rồi biến mất vào đại dương.
Tuk Bayan Tula quay ra cửa hang với bộ dạng tả tơi. Tấm vải che chân ông giờ rách bươm, khuôn mặt ông nhàu nhĩ. Tôi giật mình kinh hãi khi trông thấy một con người có sức mạnh nhường ấy mà giờ lại trở nên rã rượi như thế. Ông đã làm hết sức mình để hoàn thành lời thỉnh cầu của Flo và Mahar để giúp tụi nó khỏi bị đuổi học.
Tuk Bayan Tula giơ cao lên một cuộn giấy cùng với dáng điệu như thể muốn nói, Hãy nhìn đây, những con sâu bé mọn vô dụng. Không một ai, người hay ma, có thể chống lại ta. Ta chế ngự tất cả ma quỷ từ địa ngục sâu thẳm để có được phép màu chống lại quy luật tự nhiên. Điểm thi của các ngươi sẽ biến mất trong bóng đêm để cứu các ngươi. Hãy đón nhận lấy phần thưởng này vì các ngươi là những đứa trẻ can đảm dám chống lại Tử thần để đến gặp ta.
Tuk Bayan Tula đưa cuộn giấy và thằng Mahar đón lấy bằng hai bàn tay hệt một người ăn xin chết đói đến nơi giờ tự nhiên có người đến cho thức ăn vậy. Flo, Mahar và tất cả thành viên của Soceiteit cúi đầu tạ ơn Tuk Bayan Tula. Tôi không muốn cúi đầu, khiến thằng Mahar bực bội ra mặt.
Mahar cho cuộn giấy vào trong cái hộp trước đây từng dùng để đựng cầu lông. Nó lận cái hộp vào bên trong áo khoác.
Tuk Bayan Tula ra điều kiện là về đến nhà chúng tôi mới được mở cuộc giấy đó ra, rồi ông chỉ tay về hướng con thuyền ra hiệu đã đến lúc chúng tôi trở ra. Nhanh như chớp, và thoảng như cơn gió, ông biến mất, biến mất khi bóng đêm và khói hang từ trong hang ùa ra trùm lấy ông.
Chúng tôi vội ra con thuyền. Thuyền trưởng ngay lập tức nổ máy, và chúng tôi cho thuyền chạy như ma đuổi. Chúng tôi thống nhất sẽ mở cuộn giấy ba ngày nữa, dưới tán cây filicium, sau giờ học.