Trên sa mạc và trong rừng thẳm - Chương 31 – 32

Bắt đầu những ngày chờ đợi nặng nề và đầy lo âu. Mãi một tuần sau, cơn sốt thứ hai mới bắt đầu, không dữ dội như cơn trước, nhưng sau đó, Nen lại càng cảm thấy yếu đi nhiều hơn. Cô bé gầy và xanh xao đến nỗi dường như chỉ còn là một cái bóng mà thôi.

Ngọn lửa sống leo lắt yếu ớt trong cô bé, tưởng chừng như chỉ cần khẽ thổi cũng khiến cho nó tắt đi hoàn toàn. Xtas hiểu rằng tử thần không cần phải chờ tới cơn sốt thứ ba mới có thể bắt Nen mang đi, mà đang chờ đợi từng ngày, từng giờ một.

Bản thân cậu bé cũng gầy sút đi và tái xanh, vì nỗ i bất hạnh vượt quá sức lực và trí tuệ của cậu. Nhìn khuôn mặt như nặn bằng sáp của Nen, em nhủ thầm hàng ngày: “Mình đã trông nom con bé như con ngươi trong mắt như thế đó, để giờ đây chôn nó trong rừng”. Và em hoàn toàn không thể hiểu nổi, tại sao mọi sự lại phải như vậy. Chốc chốc em lại tự trách mình đã không chăm nom Nen thật cẩn thận, không đối xử thật hết lòng với cô bé, và trong những lúc như thế, một nỗi ân hận giày vò tim em, khiế n em chỉ muốn cắn xé những ngón tay của mình. Nói cho cùng, có nhiều bất hạnh quá chừng.

Bây giờ, Nen gần như ngủ thiêm thiếp suốt ngày, và rất có thể chính điều đó đã giữ cho cô bé còn sống thoi thóp. Vài lần một ngày, Xtas phải đánh thức cô bé dậy để bón cho ăn. Vào những lúc đó, nếu trời không mưa, Nen yêu cầu em mang cô ra ngoài trời, vì cô bé không còn tự mình bước đi được nữa. Nhiều khi cô bé thiếp đi trên tay em. Cô bé cũng tự biết rằng mình ốm nặng lắm và rất có thể sẽ chết ngày một ngày hai. Trong những lú c tỉnh táo nhất, cô bé nói với Xtas về chuyện đó, bao giờ cũng khóc nức nở, vì cô sợ chết.

– Thế là em chẳng còn được về với ba em nữa rồi, – một lần cô bé nói, – nhưng anh phải nói với ba rằng em rất tiếc và bảo ba đi tới đây thăm em nhé…

– Em sẽ về mà, – Xtas đáp.Nhưng cậu không thể nói gì thêm, bởi chỉ muốn gào lên thật to.

Còn Nen vẫn nói tiếp với giọng ngái ngủ, phải lắng tai mới nghe thấy:

– Và thể nào ba cũng đến, còn anh cũng có khi nào đó anh sẽ đến, phải không anh?…

Ý nghĩ ấy khiến cô bé mỉm một nụ cười, làm rạng ngời khuôn mặt gầy gò, nhưng rồi sau đó cô lại cất tiếng nói còn khẽ hơn nữa:

– Nhưng em tiếc quá…

Nói thế xong, cô bé ngả đầu vào vai anh khóc, còn cậu bé cố chế ngự nỗi đau của mình, ghì chặt cô vào ngực và tha thiết đáp:

– Nen, anh sẽ không trở về nếu thiếu em, và…anh cũng không biết sẽ làm gì trên đời nữa, nếu không có em!

Im lặng bao trùm, Nen lại ngủ thiế p đi. Xtas mang cô bé vào trong ruột cây, khi em vừa bước ra ngoài thì từ chóp mũi đất Cali chạy lại, vung vẩy hai tay và gọi to, vẻ mặt đầy tức giận và sợ hãi:

– Ông lớn! Ông lớn ơi!

– Gì thế? – Xtas hỏi.Cậu bé da đen đưa tay chỉ về phía Nam, nói:

– Khói!

Xtas đưa tay che mắt, cố căng mắt nhìn về phía ấy và trông thấy quả thực có một cột khói bay lên trong ánh mặt trời đỏ rực đã xuống thấp, ở giữa rừng, giữa hai rặng núi khá cao phía xa xa.

Cali run toàn thân vì nó hãy còn nhớ rất rõ kiếp sống nô lệ hãi hùng trong tay bọn phiến loạn, nó tin rằng, nơi đó chính là trại của bọn chúng. Xtas cũng cho rằng đó không phải là ai khác ngoài gã Xmainơ, và thoạt tiên em cũ ng rụng rời tay chân. Chỉ còn thiếu có chuyện đó nữa thôi! Bên cạnh cơn ốm thập tử nhất sinh của Nen lại thêm bọn phiến loạn. Lại nô lệ, lại quay về Phasôđa hay Kháctum dưới bàn tayMahơđi, hay dưới ngọn roi của Ápđulahi!

Nếu như bọn chúng tóm được lũ trẻ, Nen sẽ chết ngay trong ngày đầu tiên, còn em thì phải làm nô lệ trong những ngày còn lại trên đời. Nếu có lúc nào đó em trốn thoát được đi chăng nữa, thì sống mà làm gì, tự do mà làm gì nếu thiếu Nen? Làm sao có thể nhìn vào mắt cha, hoặc ông Rôlixơn, khi mà bọn phiến loạn ném cô bé sau lúc nhắm mắt cho lũ linh cẩu xé xác, còn em thì không biết nói với mọi người nấm mồ cô bé nằm ở đâu?

Nhữ ng ý nghĩ ấy vụt qua đầu em như những tia chớp. Bỗng nhiên em cảm thấy có ý muốn không cưỡng lại nổi là được nhìn Nen, và liền đi về phía cái cây. Trên đường đi, em bảo Cali dập tắt lửa và chớ có đốt lên về đêm, rồi bước vào trong ruột cây.

Nen đang thức và cảm thấy dễ chịu hơn. Cô bé lập tức chia xẻ với Xtas điều ấy. Xaba nằm bên cạnh cô bé và sưởi ấm cô bằng tấm thân to lớn của mình, còn cô bé thì vuốt nhẹ đầu con chó và mỉm cười khi nó há mồm đớp những cái bụi vỏ cây mục bay lượn trong chùm ánh sáng của những tia nắng mặt trời cuối cùng ban chiều rọi vào trong cây. Hẳn là cô bé thanh thản hơn, vì lát sau cô quay sang hỏi Xtas với nét mặt khá tỉnh táo:

– Mà cũng có thể em sẽ không chết đâu, anh nhỉ?

– Chắc chắn là em sẽ không chết. – Xtas đáp. – Sau cơn sốt thứ hai mà em cảm thấy khỏe hơn thì cơn thứ ba sẽ không tới nữa đâu.

Cô bé hấp háy mi mắt dường như đang suy nghĩ điề u gì rồi nói:

– Giá như em có cái thứ thuốc đắng, thứ thuốc đã làm em dễ chịu đến thế sau cái đêm gặp bọn sư tử ấy – anh nhớ không? Thì chắc chắn em sẽ không nghĩ gì tới cái chết đâu, không nghĩ một tí ti nào bằng ngần này nữa anh này!

Và cô bé bấm trên đầu ngón tay nhỏ bé để chỉ rõ khi ấy mình sẽ sẵn sàng bao nhiêu để chết.

– Ôi! – Xtas bật lên. – Anh sẵn sàng đổi hết để lấy một chút kí ninh.

Em nghĩ rằng, giá như có nhiều thuốc, thì em sẽ cho Nen uống ngay hai viên một lúc, rồi sau đó dù ng tấm chăn bọc Nen vào, đặt lên lưng ngựa, trước mặt em, rồi lao thẳng về phía ngược hướng với trại của bọn phiến loạn.

Mặt trời lặn xuống, khu rừng bỗng chìm vào bóng tối.

Cô bé trò chuyện chừng nửa giờ nữa rồi ngủ thiếp đi, còn Xtas tiếp tục suy nghĩ về bọn phiến loạn và thuốc kí ninh. Cái đầu đang lo lắng nhưng rất tháo vát của em bắt đầu làm việc và vạch ra những kế hoạch khác nhau, cái sau bạo dạn và liều lĩnh hơn cá i trước. Đầu tiên em cân nhắc xem làn khói phía Nam có nhất thiết phải bốc lên từ trại của gã Xmainơ hay không. Rất có thể đó chính là bọn phiến loạn, nhưng cũng có thể đó là những người Ả Rập xứ duyên hải, những người đi sâu vào lục địa để lùng ngà voi hoặc săn nô lệ. Bọn họ không dính dáng tới bọn phiến loạn, vì chúng khiến cho việc buôn bán của họ bị cản trở. Cũng có thể đó lại trại của những người Abixinia hoặc một làng dân da đen sơn cước nào đó mà bọ n săn người chưa sục tới. Liệu có nên tự mình đi thám thính xem cho chắc chắn hay không?

Người Ả Rập ở Dandiba, từ vùng lân cận Bagamôiô, từ Vit hay từ Mombaxa, và nói chung từ vùng duyên hải đến, là những người luôn tiếp xú c với người da trắng, nên biết đâu họ sẽ chẳng đưa cả hai đứa tới một cái cảng nào đó gần đó nhất để đổi lấy một phần thưởng lớ n? Xtas biết rõ rằng em có thể hứa một phần thưởng thật to và người ta sẽ tin vào lời hứa của em. Cũng có một ý nghĩ kháclàm cậu xúc động sâu sắc. Ở Kháctum em đã trông thấy nhữ ng tín đồ Hồi giáo nhất là những người vùng Nubia cũng bị sốt rét gần như những người da trắng – và họ chữa bệnh bằng kí ninh mà họ tướcđoạt được của dân châu Âu, hoặc đã mua với giá cắt cổ nếu thuốc này được giấu giếm trong tay những kẻ bội giáo người Hy Lạp hay Coptơ. Vì vậy, có thể hi vọng rằng, những người Ả Rập vùng duyên hải chắc chắn có kí ninh.

“Mình sẽ đi, – em tự nhủ, – mình sẽ đi vì Nen!”.

Càng cân nhắc kĩ tình thế hiện tại, em lại càng tin tưởng rằng cho dù đó là toán quân của gã Xmainơ đi chăng nữa, thì cũng nên tới đó. Em nhớ lại rằng, vì quan hệ giữa Ai Cập và Xuđan cắt đứt hoàn toàn, nên có lẽ Xmainơ không hay biết gì về chuyện bắt cóc bọn trẻ từ Phaium. Mụ Phátma không thể liên hệ được với gã, chuyện bắt cóc chỉ là ý đồ của mụ ta, được thực hiện với sự trợ sức của Khamix, con trai Khađigi, cùng với Ghebơrơ và hai tên Bêđuin. Những kẻ này không dính dáng gì tới Xmainơ vì cái lí do đơn giản là gã chỉ biết có mỗi một mình Khamix mà thôi, những tên kia thì gã chưa từng gặp bao giờ. Gã chỉ quan tâm tới những đứa con của gã và mụ Phátma thôi. Mà cũng có thể gã đang nhớ chúng và sẽ vui sướng được quay trở lại với vợ con nếu như việc phục vụ dưới trướng Mahơđi đã khiến gã chán ngán. Dưới trướng Mahơđi rõ ràng gã đã chẳng làm nên trò trống gì to tát, bởi lẽ thay vì được thống lĩnh những đội quân hùng hậu hoặc được giao cho trị vì một vùng đất rộng lớn nào đó thì gã lại phải đi săn bắt nô lệ ở mãi một chốn thâm sơn cùng cốc tận bên dưới Phasôđa. “Mình sẽ nói với gã” – Xtas nghĩ thầm: “Nếu như ông đưa chúng tôi tới được một cái cảngnào đó trên bờ biển Ấn Độ Dương, hoặc nếu ông cùng chúng tôi quay trở về Ai Cập, chính phủ sẽ tha thứ cho ông mọi lỗi lầm, ông sẽ được sum họp với bà Phátma và bọn trẻ, ngoài ra, ngài Rôlixơn sẽ làm cho ông trở nên giàu có, còn nếu không, ông sẽ không bao giờ còn được trông thấy Phátma và bọn trẻ nữa đâu!”.

Và Xtas tin rằng, gã Xmainơ sẽ phải suy nghĩ kĩ trước khi từ chối một hiệp ước như thế.

Tất nhiên, tất cả những chuyện đó không phải đều an toàn, thậm chí có thể mất mạng nữa, nhưng cũng có thể trở thành cái phao cứu mạng trong vực thẳm muôn trùng này của Phi châu. Rốt cuộc, Xtas đâm ra ngạc nhiên vì sao lú c đầ u khả năng chạm trán với gã Xmainơ lại có thể khiến cho em kinh hoàng đến thế – và vì muốn cứu Nen cấp tốc, em quyết dịnh ngay trong đêm nay sẽ lên đường.

Song nghĩ thì dễ hơn thực hiện. Ngồi bên đống lửa rừng rực, sau hàng rào gai giữa rừng đêm là một chuyện, còn lao mình vào trong đêm thẳm, trong đám cỏ cao, nơi đó giờ này lũ sư tử, báo, beo, không kể tới linh cẩu và lang núi đang săn mồi lại là một chuyện khác hẳn. Tuy nhiên em chợt nhớ lại lời của thằng bé da đen trong cái đêm nó bỏ đi tìm con Xaba, lúc trở lại đã nói với Xtas: “Cali sợ, nhưng vẫn đi!”. Và em cũng lặp lại y như thế:

“Mình sợ, nhưng mình sẽ đi!”.

Tuy vậy, nó cũng chờ cho đến khi trăng mọc, vì đêm hôm ấy rất tối, và khi rừng bàng bạc ánh trăng, em mới gọi Cali và bảo:

– Cali, cậu hãy dắt con Xaba vào trong ruột cây, lấy gai rào kín lỗ cửa, rồi cù ng với Mêa, cậu hãytrông nom cô chủ thật cẩn thận, còn tớ sẽ đi xem thử những ai đang ở trong cái trại phía kia.

– Ông lớn hãy mang theo Cali và khẩu súng để giết bọn thú giữ. Cali không ở nhà đâu.

– Cậu phải ở nhà! – Xtas nói quả quyết. – Tớ cấm cậu không được đi theo tớ.

Rồi em im lặng một lát, lúc sau mới cất giọng hơi trầm hơn nói tiếp:

– Cali, cậu rất trung thành và chín chắn, nên tôi tin rằng cậu sẽ thực hiện được những gì tôi sẽ nói đây. Nếu như tôi không trở lại, mà cô chủ qua đời, thì cậu hãy để cô chủ lại trong lòng cây gỗ, nhưngdựng chung quanh cây một hàng rào cao, còn trên vỏ cây, cậu khắc một cái dấu lớn như thế này.

Cầm lấy hai thanh tre, em đặt vuông gó c thành chữ thập.

Rồi em nói tiếp:

– Còn nếu như cô bé không chết mà tôi không quay trở lại, thì cậu sẽ thành kính và trung thành phục vụ cô chủ. Cậu sẽ đưa cô chủ tới chỗ dân tộc của cậu và nói với các chiến sĩ Vahima để họ cùngcô chủ đi mãi về phía Đông, đến tận Biển Lớn. Ở đó, cậu sẽ gặp những người da trắng, họ sẽ cho các cậu nhiều súng, thuốc đạn, chuỗi hạt cườm, đạn súng săn và vải vóc. Cậu hiểu không?

Cậu bé da đen quỳ xuống trước mặt Xtas, ôm ghì lấy chân em, lặp đi lặp lại thảm thương:

– Ô, bvana kubva! Trở lại, trở lại, trở lại!

Xtas rất cảm động trước tình gắn bó của cậu bé da đen, nên cúi xuống, đặt tay lên đầu nó và bảo:

– Đi vào trong cây đi, Cali,… Cầu Chúa ban phước lành cho cậu!

Còn lại một mình, Xtas suy nghĩ một lúc nữa, xem có nên mang theo con lừa hay không. Nếumang đi thì an toàn hơn, vì sư tử châu Phi cũngnhư hổ Ấn Độ, khi gặp người cưỡi ngựa hoặc lừa, bao giờ cũng nhảy vào con vật trước, chứ không phải vào người.

Nhưng em lại tự hỏi, trong trườnghợp như thế thì ai sẽ chở lều cho Nen, và chính cô bé sẽ cưỡi gì để đi? Sau khi cân nhắc, em từ bỏ ý định mang con lừa theo, và bắt đầu cất bước đi vào rừng thẳm.

Trăng đã lên cao nên bầu trời sáng hơn. Nhưng những gian khó cũng ập đến ngay lập tức khi cậu bé bắt đầu dấn thân vào trong đám cỏ mọc cao đến nỗi một người cưỡi ngựa cũng có thể dễ dàng ẩn kín trong đó. Thậm chí cả ban ngày cũng không thể trông thấy gì trong ấy cách một bước chân, huống hồ là giữa đêm khuya, khi ánh trăng chỉ soi sáng ngọn cỏ, còn mọi thứ phía dưới đều chìm ngập trong bóng tối dầy đặc. Trong những điều kiện như thế rất dễ lạc đường, thay vì đi thẳng về phía trước rất có thể sẽ đi vòng. Xtas cảm thấy can đảm hơn khi nghĩ rằng, thứ nhất, khu trại mà em đang hướng tới chỉ ở cách mũi đất cùng lắm là ba hay bốn dặm Anh; hai nữa, khói bốc lên giữa hai ngọn đồi cao, nên nếu còn trông thấy những ngọn đồi đó thì không thể lạc đường được.

Nhưng cỏ, cây trinh nữ và xiêm gai đã che mất tất cả. May thay, cứ chừng vài mươi bước chân lại có một tổ mối nhiều cái cao tới hơn chục bộ. Xtas cẩn thận đặt súng dưới chân những tổ mối ấy rồi trèo lên đỉnh và khi trông thấy những ngọn đồi đen thẫm nổi bật trên nền trời, em lại tụt xuống đi tiếp. Em chỉ sợ khi nghĩ tới chuyện mây che mất vầng trăng và phủ kín bầu trời, khi ấy sẽ không biết ra sao, vì em sẽ như bị lạc xuống dưới âm phủ. Song đó cũng không phải là mối đe dọa duy nhất. Rừng thẳm trong đêm – trong sự tĩnh mịch nghe thấy rõ từng tiếng động, từng tiếng chân chạy, và ngay cả tiếng sột soạt, khi lũ sâu bọ trườn trong cỏ gây nên – quả thật là đáng sợ. Nỗi hãi hùng và sự đe dọa như rình rập trên rừng đêm. Xtas phải để ý đến mọi thứ, phải lắng tai nghe cảnh giác, phải nhìn quanh tứ phía, đầu óc phải căng lên như dây đàn, còn súng thì lúc nào cũng sẵn sàng nhả đạn. Cứ chốc chốc lại cảm thấy như có con gì đó đang tiế n lại gần, đang rình mò theo, đang nấp sẵn. Thỉnh thoảng em nghe thấy tiếng cỏ xao động và tiếng chân bất thần của những con thú đang chạy đi. Em đoán rằng hẳn em đã làm kinh động đến một con linh dương, bọn này mặc dù đã đặt “lính canh” nhưng vẫn ngủ rất cảnh giá c, vì biết rằng trong bóng tối vào giờ này, không ít những con thú màu hoe hoe vàng đang đi săn mồi. Những cái gì kia to lớn đen thui dưới tán cây xiêm gai hình cái ô? Có thể đó là một tảng đá, mà cũng có thể là một con tê giác hay trâu rừng ngửi thấy hơi ngườiđã tỉnh thức và sắp sủa lao vào hú c. Ở kia, sau lùm cây đen đen có điểm sáng long lanh. Nào! Súng lênvai! Sư tử đấy! Không! Báo động hão rồi! Đó chỉ là hai con đom đóm, vì một đốm sáng bay vụt lên còn một đốm bay xuống cỏ như một ngôi sao rơi xiên. Không phải Xtas leo lên tổ mối chỉ là để nhìn xem mình đi có đúng hướng không, mà còn để lau cái trán đổ mồ hôi lạnh, để thở một chút và đợi cho trái tim bớt nhịp đập dập dồn. Ngoài ra, em cảm thấy mệt rã cả người, khó khăn lắm mới đứ ng vững trên đôi chân.

Nhưng em vẫn tiến lên phía trước với ý nghĩ cần phải đi để cứu lấy Nen. Sau hai giờ đường, em tới một vùng mặt đất trải đầy những hòn đá nhỏ, nơi cỏ mọc thấp hơn trước và sáng hơn. Hai ngọn đồi vẫn in hình xa xa như trước, nhưng có một lèn đá chạy dài ngang trước mắt đã gần hơn, phía sau là một cái lèn đá nữa cao hơn, cả hai hình như bao quanh một thung lũng hay một khe núi, tương tự như cái khe đang giam giữ King.

Đột nhiên, ở phía bên phải, cách chừng ba hay bốn trăm mét, Xtas nhìn thấy ánh lửa hồng phản chiếu trên vách đá.

Em đứng sững lại. Tim đập dồn dập tưởng chừng có thể nghe thấy được giữa cái tĩnh mịch của đêm thanh. Em sẽ trông thấy ai ở dưới kia? Nhữngngười Ả Rập từ vùng biển phía đông chăng? Hay bọn phiến loạn của gã Xmainơ? Hay những người da đen hoang dã rời bỏ làng xóm quê hương đi trốn tránh bọn phiến loạn trong chốn núi thẳm rừng hoang này? Em sẽ gặp cái chết, sự nô lệ hay cứu vãn cho Nen đây?

Cần phải xác minh điều đó. Em không thể và cũng không muốn thoái lui. Một giây sau em bắt đầu lần mò về phía đống lửa, bước đi thật khẽ, cố nín thở. Bước được chừng trăm bước, em nghe từ phía rừng có tiếng ngựa thở mạnh. Em đứng dừng lại. Trong ánh trăng, em tính được năm con ngựa. Số lượng đó quá ít đối với bọn phiến loạn, nhưng cũng có thể là số ngựa còn lại ẩn ở đâu đó trong đám cỏ cao. Em chỉ ngạc nhiên một điều là bên cạnh ngựa không thấy có người canh, và rằng những người canh nọ không đốt trên cao những đống lửa để xua đuổi các loài dã thú. Nhưng ơn Chúa, vì nhờ đó em có thể tiến lên được mà không bị trông thấy.

Ánh lửa hồng trên vách đá mỗi lúc một rõ hơn. Chưa đầy mươi lăm phút sau, Xtas đã tới được chỗ đối diện với vách đá được chiếu sáng mạnh nhất, điều chứng tỏ là dưới chân vách đá ấy có đống lửađang cháy.

Em bèn bò và trườn thật chậm đến rìa vách đá và nhìn xuống phía dưới.

Vật đầu tiên đập vào mắt em là một cái lều to, trước lều là một cái giường vải dã chiến, trên đómột người mặc quần áo màu trắng kiểu châu Âu đang nằm.

Một thằng bé da đen chừng mười hai tuổi đang chất thêm cành khô vào đống lửa, ánh lửa đang chiếu sáng vách đá và một đoàn người da đen đangngủ dọc theo vách đá về hai bên cửa lều.

Trong chớp mắt, Xtas đã tụt theo sườn dốc xuống lòng khe núi.

Vì mệt và xúc động cậu bé đứng lặng đi, thở hổn hển, không thốt ra được lời nào trước con người đang nằm trên giường; người đó cũng im lặng nhìn em với vẻ kinh ngạc của một người nửa tỉnh nửa mê.

Mãi sau ông ta mới gọi:

– Nasibu, mày có đấy không?

– Con đây thưa ông chủ! – Cậu bé da đen đáp lại.

– Mày có trông thấ y ai không, ai đang đứng trước mặt ta đây?

Trước khi cậu bé da đen kịp trả lời, Xtas đã nói ngay:

– Thưa ngài, – em nói, tôi là Xtanixoáp Tarcôpxki. Cùng với tiểu thư Rôlixơn, tôi chạy thoát khỏi cảnh nô lệ từ tay bọn phiến loạn và chúng tôi đang náu trong rừng. Nhưng Nen đang ốm nặng, tôi cầu xin ngài hãy giúp đỡ.

Người lạ mặt hấp háy mắt ngó em một lú c nữa, rồi đưa tay gạt ngang vầng trán.

– Ta nghe thấy đây mà, không phải chỉ nhìn thấy không, – ông ta cất tiếng như tự nói với bản thân mình. – Đây không phải là ảo giác. Hả? Giúp đỡ à? Chính ta cũng đang cần giúp đỡ đây. Ta bị thương rồi.

Bỗng nhiên ông giật mình, dường như vừa thoát khỏi giấc mơ, hoặc cơn bải hoải, nhìn cậu bé với vẻ tỉnh táo hơn, với ánh sung sướng long lanh trong mắt, rồi bảo:

– Một đứa bé da trắng!… Ta còn được trông thấy một người da trắng đây mà!… Xin chào anh, dù anh là ai. Anh nói đến bệnh tật gì thì phải? Anh muốn gì ở ta?

Xtas nhắc lại, rằng người ốm là Nen, con gái của ngài Rôlixơn, một trong các vị giám đốc kênh đào, rằng cô bé đã bị hai cơn sốt rét và chắc sẽ chết nếu như không có kí ninh để phòng cơn thứ ba.

– Hai cơn, gay rồi đấy. – Người lạ đáp – Nhưng kí ninh thì ta có thể cho anh, bao nhiêu tuỳ ý anh. Ta có mấy lọ to, và chúng cũng chẳng giúp gì cho ta nữa.

Nói thế, ông ra lệnh cho cậu bé Nasibu đưa cho mình một cái hộp sắt tây to tướng, hẳn là tủ thuốckhi đi đường, lấy từ trong đó ra hai lọ lớn đựng đầy một thứ thuốc trắng, đưa cho Xtas.

– Đây là một nửa số ta có. Ngần này cũng đủ dùng ít ra là một năm…

Xtas suýt nữa thì reo lên vì mừng rỡ, em cảm ơn ông ta, xúc động như chính em được cứu sống vậy. Người lạ mặt gật gật đầu rồi nói:

– Được rồi! Ta là Linđe, người Thuỵ Sĩ, quê ở Duyrích… Hai ngày trước đây ta gặp tai nạn: mộtcon lợn rừng nơđiri húc ta bị thương nặng.

Rồi quay sang phía thằng bé da đen, ông bảo:

– Nasibu, nhồi cho ta tẩu thuốc.

Và quay sang Xtas:

– Về đêm ta bị sốt nhiều hơn và hơi bị choáng váng trong đầu. Nhưng hút một điếu thuốc sẽ làm cho đầu óc minh mẫn hơn.

Anh bảo là các anh trốn thoát khỏi tay bọn phiến loạn và hiện đang ẩn náutrong rừng, có phải thế không?

– Vâng, thưa ngài, cháu đã nói thế.

– Thế các anh định làm gì?

– Chạy đến Abixinia ạ.

– Thế thì các anh sẽ rơi vào tay quân lính của Mahơđi mất thôi, hiện nhiều đơn vị quân của yđang tuần phòng suốt dọc biên giới.

– Nhưng chúng cháu không thể làm gì khác hơn được ạ.

– Ôi, giá như một tháng trước đây thì ta đã có thể giúp các cháu. Nhưng giờ đây ta chỉ còn lại cómỗi một mình, sống nhờ lượng Chúa và nhờ thằng bé da đen kia mà thôi.

Xtas nhìn ông với vẻ ngạc nhiên.

– Thế còn cái trại này ạ?

– Đó là cái trại của tử thần.

– Còn những người da đen này?

– Họ đang ngủ và sẽ không bao giờ tỉnh dậy nữa.

– Cháu không hiểu…

– Bọn họ bị bệnh ngủ(1). Đó là những người thuộc vùng Hồ Lớn, nơi cái bệnh khủng khiếp này hoành hành liên tục, và tất cả bọn họ đều mắc phải thứ bệnh quái ác ấy, trừ những kẻ trước đó đã chết vì đậu mùa. Chỉ mỗi mình thằng bé này là còn sống sót với ta thôi…

Bây giờ Xtas mới chợt nhận ra rằng khi em tuột xuống khe núi, không một người da đen nào nhổm dậy hay động đậy – trong khi họ trò chuyện, tất cả bọn họ đều ngủ: người thì tựa đầu vào vách đá, kẻ lại gục đầu xuống ngực.

– Họ ngủ và không bao giờ tỉnh dậy nữa ư? – Emhỏi lại, dường như vẫn chưa thật hiểu điều vừa nghe thấy.

Ông Linđe thốt ra:

– Ôi, cả Phi châu này là một cái nhà xác!…Những lời tiếp theo của ông bị gián đoạn bởi tiếng vó ngựa, lũ ngựa sợ một cái gì đó trong rừng, nhảy chồm chồm trên hai chân bị buộc vào nhau, lần về phía mép thung lũng, muốn được xích lại gần lửa gần người!

– Không có gì đâu, lũ ngựa đấy thôi! – người đànông Thuỵ Sĩ nói tiếp – Ta đã lấ y được ngựa của bọn quân lính Mahơđi vài tuần trước, khi ta đánh cho chúng tan tác. Bọn chúng có chừng ba trăm tên, có lẽ hơn thế. Nhưng bọn chúng phần nhiều chỉ có giáo mác, còn người của ta thì lại có súng trường rêmingtơn, số súng đang đặt gần vách đá kia, chúng cũng chẳng còn dùng được vào việc gì nữa rồi. Nếu cháu thiếu súng, hoặc đạn thì cứ lấy, bao nhiêu cũng được. Lấy cả ngựa nữa, cháu sẽ quay về với cô bạn đang ốm của cháu nhanh hơn. Con bé bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?

– Tám tuổi ạ. – Xtas đáp.

– Vậy ra hãy còn là một đứa trẻ con. Nasibu sẽ đưa cho cháu chè, gạo, cà phê và rượu vang… Trong số lương thự c cháu muốn thứ gì cứ lấy, và sáng mai hãy tới lấy thêm nữa.

– Cháu nhất định sẽ quay trở lại để cảm ơn ngài một lần nữa với tất cả tấm lòng, và để đỡ đần cho ngài những gì cháu có thể làm được.

Ông Linđe nói:

– Thật dễ chịu dù chỉ được trông thấy một khuôn mặt người Âu. Nếu như sáng mai cháu đến sớm thì ta sẽ tỉnh táo hơn. Bây giờ cơn sốt lại kéo tới hành hạ ta rồi, ta trông thấy cháu thành hai người. Có thật hai người đang đứ ng trước mặt ta không? Không!…

Ta biết chắc là chỉ có mỗi mình chá u, vàđó chỉ là do cơn sốt thôi…

Ôi cái châu Phi này!

Và ông nhắm nghiền mắt lại.

Mười lăm phút sau, Xtas lên đường quay trở lại, rời cái trại kì lạ của bệnh ngủ và cái chết, lần này thì bằng ngựa. Đêm hãy còn sâu thẳm, nhưng em không còn phải để ý đến những mối nguy hiểm có thể sẽ gặp trong vùng cỏ cao nữa. Tuy vậy, em đi dọc theo gần sông, với dự tính rằng hai cái khe núi đều phải đổ ra sông. Nói cho cùng, quay trở về dễ dàng hơn nhiều, vì trong sự tịch mịch của đêm, tiếng thác nước vang đi rất xa, thêm vào đó, phía Tây bầu trời mây quang hẳn, và bên cạnh vầng trăng còn có ánh sáng hoàng đạo soi khá tỏ. Cậu bédùng mũi bàn chân đạp kiểu Ả Rập rộng bản thúc vào hông ngựa lao đi vun vút, vừa nhủ thầm trong lòng: “Sư tử và báo gấm mà hề chi! Ta đã có kí ninh cho cô em bé bỏng đây rồi!”. Chốc chốc, em lại đưa tay sờ nắn hai cái lọ, như muốn kiểm tra cho chắc xem quả thực có chúng trong tay không, và tất cả những điều này không phả i chỉ là một giấc mơ. Biết bao ý nghĩ và hình ảnh diễn qua óc em. Em như thấy người đàn ông Thuỵ Sĩ bị thương mà em vô cùng biết ơn, đồng thờ i chân thành hối hận rằng thoạt đầu trong khi nói chuyện, em đã ngỡ ông ta điên, em như thấy thằng bé Nasibu với cái sọ dừa tròn như một quả bóng, cùng những hàng người phu đang ngủ say và những họng súng rêmingtơn tựa vào vách đá, ánh lên trong lửa. Giờ đây em tin chắc rằng cuộc chiến đấu mà ông Linđe nói tới chính là cuộc chiến đấu với toán quân của gã Xmainơ, và đối với em có vẻ thật lạ lùng khi nghĩ rằng chính gã Xmainơ cũng có thể đã chết.

Nhữ ng hình ảnh ấy hòa trộn không ngừng với những nghĩ suy về Nen. Em tưởng tượng thấy cô bé sẽ ngạc nhiên đến thế nào khi trông thấy cả một lọ thuốc kí ninh đầy, có thể cô bé coi em là phù thủycũng nên. “Ôi, – em tự nhủ, – giá như ta hè n nhát không dám tự mình đi xem thử làn khói đó bốc lên từ đâu, thì suốt đời ta không bao giờ có thể tha thứ nổi cho mình điều đó!”.

Không đầy một tiếng đồng hồ sau, tiếng thác nướ c đã vang lên nghe rõ mồn một, và nghe cả tiếng ếch nhái, khiến Xtas đoán ra rằng đã về tới gần khoảng nước rộng nơi hôm trước em từng săn chim nước. Trong ánh trăng em còn nhận rõ những cái cây xa xa mọc trên bờ nước. Giờ thì cần phải thật cảnh giác, vì vùng nước đó đồng thời cũng là nơi uống nước mà mọi loài thú trong vùng đều phải tới, vì tại tất cả những nơi khác, bờ sông đều dốc đứng và khó xuống. Nhưng lúc này đêm đã quá muộn, lũ thú dữ hẳn là ẩn náu trong các hang đá sau những chuyến đi săn đêm. Con ngựa khẽ kêu lên rừ rừ khi ngửi thấy thấy mùi sư tử hay hùm beo hãy còn vương vất quanh đấy, nhưng Xtas đã vượt qua nơi đó không gặp trở ngại gì và một lúc sau em đã trông thấ y hình dáng đen sẫm của “Cracốp” đứng sừng sững trên mũi đất cao. Lần đầu tiên trong thời gian ở châu Phi, em có cảm giác như về tới nhà.

Em ngỡ rằng sẽ gặp mọi người đang ngủ say, nhưng quên tính tới con Xaba, con chó cất tiếng sủa đến nỗi cả người chết chắc cũng phải bật dậy. Trong chớp mắt, Cali hiệ n ra trước cái cây và kêu tướng lên:

– Bvana kubva cưỡi ngựa!

Trong giọng của cậu bé có nhiều niềm vui hơn là sự ngạc nhiên, bởi nó quá tin tưởng vào sự hùng mạnh của Xtas, nên nếu như Xtas có hóa phép tạo ra voi đi nữa thì cậu bé da đen cũng chẳng ngạc nhiên lắm.

Nhữ ng niềm vui bao giờ cũng khiến cho người da đen cười, nên thằng bé vừa vỗ đùi bành bạch vừa cười lên như hóa dại.

– Hãy buộc chân con ngựa này lại, – Xtas bảo, tháo đồ đạc xuống, đốt to lửa lên và nấu nước sôi đi.

Rồi em bước vào lòng cây gỗ. Nen cũng đã thức dậy và bắt đầu gọi tên em. Xtas khẽ hé bứ c rèm bằng vải nhìn khuôn mặt nhợt nhạt của Nen trong ánh sáng ngọn đèn cù ng đôi bàn tay gầy trắng bệch đặt trên lần chăn đắp trên người cô bé.

– Em thấy trong người ra sao, cô bé? – Xtas vuivẻ hỏi.

– Bình thường, em ngủ rất say, cho tới khi con Xaba làm em thức giấc. Thế sao anh không ngủ?

– Vì anh còn phải đi.

– Đi đâu, anh?

– Tới hiệu thuốc, – Tới hiệu thuốc à?

– Phải, để mua kí ninh mà.

Vị thuốc kí ninh đắng ngắt không làm cho cô bé thích thú chút nào, nhưng cô bé vốn xem đó là thứ thuốc trị được bách bệnh trên đời nên cô thở dài vào bảo:

– Em biết anh không còn kí ninh nữa.

Xtas bèn giơ một trong hai cái lọ lên gần đèn và hỏi vẻ vừa tự hào vừa sung sướng:

– Thế cái gì đây?

Nen không muốn tin vào mắt mình nữa, còn cậu bé nói vội vã, cả người như sáng bừng lên:

– Em sẽ khỏe ngay bây giờ! Lát nữa anh sẽ lấy cho em một liều thuốc thật nhiều bọc trong vỏ quả vả tươi và em phải nuốt chửng, rồi uống thứ gì thì em sẽ biết. Sao em nhìn anh như nhìn con mèo màu xanh thế? Phải anh còn một lọ nữa. Anh được một người đàn ông da trắng cho, trại của ông ta ở cáchđây bốn dặm.

Anh vừa từ đó quay về đây. Ông ta tên là Linđe và bị thương, nhưng ông ta cho anh vô số thứ ngon. Anh quay về bằng ngựa, nhưng phải đi bộ đến chỗ ông ta đấy. Em nghĩ là đi qua rừng trong đêm dễ chịu lắm à? Brr! Có các vàng anh cũng không đi nữa, trừ phi đi xin thuốc kí ninh!

Nói thế xong, em rời cô bé đang kinh ngạc, đi sang “buồng con trai”, lấy trong số lương thực dự trữ một qủa vả nhỏ nhất, khoét ra và rắc thuốc kíninh vào bên trong, chú ý sao cho liều thuốc khôngnhiều hơn so với những viên thuốc mà em nhận được ở Kháctum. Rồi em bước ra khỏi thân cây, rótnước trà vào cốc nước mang và o cho Nen.

Trong thời gian ấy cô bé nghĩ tới chuyện vừa xảy ra. Cô bé rất tò mò, không hiểu người da trắng nọ là ai? Làm sao Xtas lại biết ông ta? Liệu ông ta có đến thăm chúng không và liệu có đi cùng chúng? Bây giờ cô bé không hề nghi ngờ gì nữa, khi Xtas đã có được kí ninh thì cô sẽ khỏe lại. Nhưng anh Xtas này… dám đi một mình trong đêm vượt quarừng, cứ như là không ấy thôi! Dù cho cậu bé cóngạc nhiên, nhưng Nen vẫn quen coi tất cả những gì Xtas làm cho cô là những chuyện tất nhiên, cô bé không hề suy nghĩ gì lâu la về điều đó, vì nói cho cùng thì một người anh lớn phải chăm sóc một đứaem gái chứ! Nhưng lần này thì cô bé hiểu được rằngnếu không có sự chăm sóc của Xtas thì chắc chắncô bé đã chết từ lâu, rằng Xtas vô cùng chăm lo tới Nen, rằng cậu chiều chuộng và bảo vệ Nen đến mức không có một đứa con trai nào ở vào tuổi cậu có thểlàm được – và một lòng biết ơn to lớn tràn ngậptrong trái tim nhỏ nhoi của cô bé.

Cho nên khi Xtas bước vào và cầm thuốc cúi xuống thì Nen liền lập tức vươn hai cánh tay mảnh mai của mình lên ôm choàng lấy cổ Xtas và chân thành ghì chặt lấy:

– Anh Xtas, anh đối với em thật tốt biết bao. Còn thằng bé đáp:

– Thì anh còn biết tốt với ai nữa? Tuyệt lắm! Nào, uống thuốc đi em!

Tuy nhiên, cậu vui sướng vô cùng, mắt cậu long lanh thỏa mãn, và quay lại phía lỗ cửa gọi to, với vẻ thật tự hào và sung sướng:

– Mêa! Bây giờ đưa trà cho cô bé nào!

—————

1. Gần đây, người ta tin chắc rằng, bệnh ngủ này do giống ruồi tse tse gây ra khi đốt người (chính giống ruồi tse tse gây cái chết cho đại gia súc). Tuy nhiên, bệnh ngủ chỉ lan tràn trong một số vùng mà thôi. Vào thời khởi nghĩa Mahơđi, nguyên nhân của bệnh này chưa được biết. (Chú thích của tác giả).

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ