III.
Gail Wynand đứng lên đón cô ở giữa phòng.
“Chào bà Keating”, ông nói.
“Chào ông Wynand”, Dominique nói.
Ông kéo một chiếc ghế cho cô nhưng khi cô ngồi xuống, ông không sang ngồi đối diện với cô ở phía bên kìa bàn làm việc, ông đứng quan sát cô một cách chuyên nghiệp, như một người đang định giá. Ông cư xử với ngụ ý việc ông đang làm là một việc hiển nhiên cần thiết; như thể cô cũng biết rõ lý do của ông và cách cư xử đó không có gì là bất nhã cả.
“Trông bà giống như một bản sao nghệ thuật của chính bản sao nghệ thuật của bà”, ông nói. “Theo quy luật, việc gặp nguyên mẫu của một tác phẩm nghệ thuật thường có xu hướng làm cho người ta không còn tin có Chúa. Nhưng lần này thì Chúa và nhà điêu khắc là kỳ phùng địch thủ.”
“Nhà điêu khắc nào?”
“Người tạc tượng cho bà.”
Lúc trước, ông đã cảm thấy có chuyện gì đó không rõ ràng phía sau bức tượng. Giờ đây, ông càng chắc chắn hơn bởi một cái gì đó trên mặt cô – một sự căng thẳng trái ngược, dù chỉ trong giây lát, với vẻ thờ ơ cố tình mà cô tạo ra.
“Ông nhìn thấy bức tượng đó ở đâu và khi nào, ông Wynand?”
“Ở trong gallery của tôi, vào sáng nay.”
“Ông kiếm được nó ở đâu?”
Lần này đến lượt ông bối rối:
“Chả nhẽ bà không biết?”
“Không.”
“Người bạn của bà, Ellsworth Toohey, gửi cho tôi. Như một món quà.”
“Để đổi lấy cuộc hẹn gặp này cho tôi?”
“Không phải với một động cơ trực tiếp như bà đang nghĩ. Nhưng về bản chất thì đúng vây.”
“Ông ta chưa từng nói với tôi điều này.”
“Bà có phiền không khi tôi có bức tượng đó?”
“Cũng không hẳn.”
“Tôi đã hy vọng bà sẽ nói là bà rất vui.”
Tôi không vui.”
Ông ngồi xuống một cách thoải mái trên mép ngoài của chiếc bàn làm việc; hai chân duỗi thẳng, hai mắt cá chân vắt chéo nhau. Ông hỏi:
“Tôi đoán là bà đã mất dấu của bức tượng và đã cố tìm kiếm nó?”
“Trong hai năm.”
“Bà không thể có lại nó.” Ông nói, quan sát cô: “Bà có thể có Stoneridge.”
“Tôi sẽ thay đổi ý kiến. Tôi thấy vui vì Toohey đưa nó cho ông.”
Ông cảm thấy một chút vị đắng của chiến thắng – và của nỗi thất vọng khi ông nghĩ là ông có thể đọc được ý nghĩ của cô và rằng rốt cuộc thì ý nghĩ của cô rành rành ra đấy. Ông hỏi:
“Vì nhờ thế mà bà có được buổi gặp này phải không?”
“Không. Mà bởi vì nếu tôi được chọn, ông là người gần cuối trên thế giới tôi sẽ để cho giữ bức tượng đó. Người cuối cùng là Toohey.”
Ông đánh mất chiến thắng; điều cô vừa nói không phải là những gì mà một phụ nữ muốn có hợp đồng Stoneridge nên nghĩ hay nói ra. Ông hỏi:
“Vậy bà không biết là Toohey giữ nó?”
“Không.”
“Chúng ta sẽ nói về người bạn chung của chúng ta, ông Ellsworth Toohey. Tôi không muốn bị dắt mũi và tôi cũng không nghĩ bà muốn hoặc có thể bị dắt mũi. Có quá nhiều thứ ông Toohey không chịu nói ra. Chẳng hạn, tên của nhà điêu khắc.”
“Ông ta không nói với ông?”
“Không.”
“Steven Mallory.”
“Mallory?… Không phải là người đã định…” Ông cười lớn tiếng.
“Chuyện gì vậy?”
“Toohey nói với tôi là ông ta không thể nhớ được tên nhà điêu khắc. Ra chính là cái tên này.”
“Chả nhẽ ông Toohey vẫn còn làm ông kinh ngạc?”
“Ông ta vẫn có thể, vài lần liền trong mấy ngày qua. Trong sự trắng trợn của ông ta vẫn có cái gì đó đặc biệt tinh tế. Cái đó rất khó có được. Tôi gần như thích nghệ thuật của ông ta.”
“Tôi không có chung sở thích với ông.”
“Trong mọi lĩnh vực ư? Kể cả trong điêu khắc, hay kiến trúc?”
“Tôi chắc chắn là không, trong kiến trúc.”
“Liệu nói ra như thế có phải là một việc hoàn toàn bất lợi cho bà không?”
“Có thể.”
Ông nhìn cô. Ông nói:
“Bà thật thú vị.”
“Tôi không định tỏ ra thú vị.”
“Đó là lỗi thứ ba của bà.”
“Thứ ba?”
“Lỗi thứ nhất là về ông Toohey. Trong những tình huống thế này, người ta hẳn hy vọng là bà ca ngợi ông Toohey với tôi. Trích dẫn lời ông ta. Dựa vào uy tín lớn của ông ta trong vấn đề kiến trúc.”
“Nhưng người ta cũng sẽ hy vọng rằng ông hiểu rõ Ellsworth Toohey. Và như thế, tất cả những lời trích dẫn đều sẽ trở nên vô nghĩa.”
“Tôi đã định nói điều đó với bà nếu bà cho tôi cơ hội mà tôi chắc là bà sẽ không cho.”
“Như thế càng thích hợp cho việc tiêu khiển.”
“Bà mong được tiêu khiển?”
“Đúng.”
“Với bức tượng này?” Đó là điểm yếu duy nhất của cô mà ông khám phá ra.
“Không”, giọng cô cứng rắn “Không phải là với bức tượng này.”
“Bà có thể nói cho tôi biết nó được làm ra khi nào và cho ai?”
“Lại là một điều nữa mà ông Toohey quên hay sao?”
“Rõ ràng là như thế.”
“Ông có nhớ vụ bê bối liên quan tới một công trình có tên là Đền Stoddard? Cách đây hai năm. Lúc đó ông đi vắng.”
“Đền Stoddard… Làm sao bà biết được tôi ở đâu vào hai năm trước?… Đợi chút, Đền Stoddard. Tôi nhớ ra rồi: một nhà thờ báng bổ hay cái gì tương tự thế; và nó đã khiến những kẻ sùng đạo sủa ông ổng?”
“Đúng vậy.”
“Có một…” Ông dừng lại. Giọng ông trở nên cứng rắn và miễn cưỡng – giống với giọng cô “Có một bức tượng phụ nữ khỏa thân liên quan đến chuyện này.”
“Đúng vậy.”
“Tôi hiểu rồi.”
Ông im lặng trong giây lát. Sau đó ông nói, giọng đanh lại, như thể đang cố kìm nén một cơn giận mà cô không đoán được nó nhằm vào đâu. “Lúc đó tôi đang ở đâu đó gần Bali. Tôi rất tiếc là cả thành phố New York này đã nhìn thấy bức tượng đó trước tôi. Nhưng tôi không đọc báo khi đang trên biển. Tôi đã có lệnh sa thải bất cứ ai mang lên trên du thuyền dù chỉ một tờ báo Wynand.”
“Đã bao giờ ông nhìn thấy các bức hình của Đền Stoddard chưa?”
“Chưa. Liệu ngôi đền đó có xứng đáng với bức tượng không?”
“Bức tượng gần như xứng đáng với ngôi đền.”
“Nó đã bị phá hủy đúng không?”
“Phải. Với sự giúp đỡ của các tờ báo Wynand.”
Ông nhún vai. “Tôi nhớ Alvah Scarret lúc đó tỏ ra rất thích thú. Một câu chuyện ăn khách. Tiếc là tôi bỏ lỡ nó. Nhưng Alvah đã làm rất tốt. Nhân tiện, làm sao bà biết là tôi đi vắng và tại sao việc đó lại đọng lại trong trí nhớ của bà?”
“Vì tôi đã mất việc ở chỗ ông chỉ vì câu chuyện đó.”
“Việc của bà? Ở chỗ tôi?”
“Chẳng nhẽ ông không biết tên tôi là Dominique Francon?”
Phía dưới chiếc áo khoác chẽn, đôi vai ông nhô về phía trước; đấy là một sự ngạc nhiên – và bất lực. Ông nhìn chằm chằm vào cô – một cách rất đơn giản. Một lát sau, ông nói:
“Không.”
Cô mỉm cười vô cảm. Cô nói:
“Có vẻ như Toohey muốn làm khó cả hai chúng ta càng nhiều càng tốt.”
“Hãy quên Toohey đi. Việc này phải được làm rõ. Nó không hợp lý chút nào. Bà là Dominique Francon?”
“Tôi đã từng.”
“Bà làm việc ở đây, trong toà nhà này, trong nhiều năm?”
“Trong sáu năm.”
“Tại sao tôi chưa từng gặp bà?”
“Tôi chắc chắn rằng ông không gặp tất cả các nhân viên của mình.”
“Tôi nghĩ là bà hiểu ý tôi.”
“Ông có muốn tôi nói ra hộ ông?”
“Nói đi.”
“Tại sao trước đây tôi lại không cố gắng gặp ông?”
“Đúng.”
“Vì tôi không muốn gặp ông.”
“Chính việc đó là điều vô lý.”
“Tôi có nên bỏ qua câu này hay cứ buộc phải hiểu nó?”
“Tôi sẽ để bà lựa chọn. Với sắc đẹp của bà và với việc bà biết rất rõ những tai tiếng của tôi, tại sao bà lại không muốn tạo ra một sự nghiệp thực sự của mình ở tờ Ngọn cờ!”
“Tôi chưa bao giờ muốn có một sự nghiệp thực sự ở tờ Ngọn cờ.”
“Tại sao?”
“Có thể cũng chính vì cái lý do mà ông cấm mang những tờ Wynand lên du thuyền của ông.”
“Đó là một lý do tốt.” ông nói lặng lẽ. Sau đó ông hỏi, giọng bình thường trở lại:
“Xem nào, bà bị thải hồi vì việc gì? Bà chống lại chính sách của tòa soạn, tôi đoán thế?”
“Tôi đã cố bảo vệ Đền Stoddard.”
“Chẳng nhẽ bà không biết là không nên hành động trung thực ở tờ Ngọn cờ sao?”
“Tôi đã định nói điều đó với ông – nếu ông cho tôi cơ hội.”
“Bà có cảm thấy được tiêu khiển không?”
“Lúc đó thì không. Tôi đã thích làm việc ở đây.”
“Bà là người duy nhất từng nói câu đó trong tòa nhà này.”
“Tôi hẳn là một trong hai người.”
“Người kia là ai?”
“Chính ông, ông Wynand.”
“Đừng quá chắc về điều đó.” Ông ngẩng đầu lên và ông nhìn thấy sự thích thú hiện ra trong mắt cô. Ông hỏi:
“Bà nói thế chỉ để bẫy cho tôi nói ra một câu kiểu thế?”
“Đúng, tôi nghĩ thế,” cô trả lời lạnh lùng.
“Dominique Francon…” ông nhắc lại nhưng không phải nói với cô. “Tôi từng thích các bài viết của bà. Tôi hầu như mong lý do bà đến đây là để xin được đi làm trở lại.”
“Tôi đến đây để thảo luận về chuyện Stoneridge.”
“À, đúng rồi, tất nhiên.” Ông ngồi thẳng trở lại và tỏ ra thích thú chờ đợi một bài thuyết phục dài. Ông cảm thấy thú vị khi nghĩ tới những lý lẽ cô sẽ trình bày và cách cô đóng vai một người cầu xin như thế nào.
“Vậy bà muốn nói gì với tôi về chuyện đó?”
“Tôi muốn ông giao việc đó cho chồng tôi. Tất nhiên, tôi hiểu là không có lý do gì để ông chịu làm việc đó, trừ khi – để đổi lại – tôi đồng ý ngủ với ông. Nếu ông cho rằng lý do như vậy là đủ, thì tôi sẵn lòng làm việc đó.”
Ông nhìn cô trong yên lặng; ông không cho phép khuôn mặt mình thể hiện bất cứ phản ứng cá nhân nào.
Cô ngồi đó nhìn thẳng ông, hơi ngạc nhiên trước cái nhìn soi mói của ông, như thể những lời nói của cô không đáng được hưởng một sự chú ý đặc biệt nào. Dù hết sức cố gắng tìm kiếm, ông cũng không thấy khuôn mặt cô biểu hiện một ấn tượng nào khác ngoài một biểu hiện hết sức phi lý: đó là biểu hiện của sự thuần khiết trọn vẹn.
Ông nói:
“Đó chính là điều mà tôi sẽ đề nghị. Nhưng không thô thiển như vậy và cũng không phải trong buổi gặp đầu tiên giữa chúng ta.”
“Tôi đã tiết kiệm thời gian và những lời nói dối trá cho ông.”
“Bà rất yêu chồng mình?”
“Tôi khinh bỉ anh ta.”
“Bà tin tưởng lớn lao vào thiên tài nghệ thuật của chồng bà?”
“Tôi nghĩ anh ta là một kiến trúc sư hạng ba.”
“Thế thì tại sao bà lại làm việc này?”
“Vì nó làm tôi thích thú.”
“Tôi nghĩ chỉ có mình tôi là hành động với những động cơ kiểu thế.”
“Ông không nên nghĩ thế. Tôi chắc ông không cho việc là người duy nhất nghĩ ra cái gì lại là một phẩm chất cần thiết đến thế, phải không ông Wynand?”
“Thực ra, bà chẳng hề quan tâm việc chồng bà có dự án Stoneridge hay không, đúng không?”
“Đúng.”
“Và bà không hề muốn ngủ với tôi?”
“Không hề.”
“Tôi chắc sẽ khâm phục một phụ nữ khi cô ta diễn được một vai thế này. Chỉ có điều ở đây lại không phải là một vai diễn.”
“Không phải. Và đừng có khâm phục tôi. Tôi đã cố gắng để tránh điều đó.”
Mỗi khi ông mỉm cười, cơ mặt ông không cần tới một cử động rõ ràng nào cả; vẻ giễu cợt luôn luôn hiện hữu ở đó và nó chỉ cần hiện ra sắc nét hơn trong một tháng để rồi lại lặn đi như trước. Giờ đây, vẻ giễu cợt ấy đang sắc nét lên.
“Thực ra thì,” ông nói, “động cơ chủ yếu của bà chính là tôi. Bà muốn được trao bản thân bà cho tôi.” Ông nhìn thấy ánh nhìn mà cô không kiểm soát được và nói thêm. “Không, bà đừng vội nghĩ là tôi lại có thể mắc một lỗi kinh khủng như thế. Tôi không nói theo nghĩa thông thường. Mà hoàn toàn ngược lại. Chẳng phải chính bà đã nói rằng bà coi tôi là người tồi tệ thứ nhì trên thế giới? Bà không muốn có Stoneridge. Bà muốn bán mình vì một động cơ thấp hèn nhất cho một kẻ tồi tệ nhất mà bà có thể tìm thấy.”
“Tôi không nghĩ là ông lại hiểu được điều đó”, cô nói một cách đơn giản.
“Bà muốn – đàn ông đôi khi làm việc đó, chứ không phải phụ nữ – thể hiện sự khinh bỉ thậm tệ đối với tôi qua việc ngủ với tôi.”
“Không phải, ông Wynand. Mà là sự khinh bỉ với bản thân tôi.”
Đường hằn hẹp trên miệng ông hơi động đậy, như thể đôi môi ông đã bắt được tín hiệu đầu tiên của sự thổ lộ riêng tư – một sự thổ lộ bất tự giác và do đó là một điểm yếu. Ông liền bám lấy nó. Ông nói:
“Hầu hết mọi người đều cố gắng, thậm chí cố gắng rất nhiều, để tự thuyết phục bản thân là họ có lòng tự trọng.”
“Đúng vậy.”
“Và tất nhiên, việc phải đi tìm lòng tự trọng lại chứng tỏ là họ thiếu nó.”
“Đúng vậy.”
“Thế bà có hiểu được ý nghĩa của việc tìm kiếm sự khinh bỉ bản thân?”
“Là tôi không có nó?”
“Và bà sẽ không bao giờ có nó.”
“Tôi đã không nghĩ ra là ông cũng hiểu được điều này.”
“Tôi sẽ không nói thêm gì nữa – nếu không thì tôi sẽ không còn là người đáng ghét thứ nhì trên thế giới và sẽ không còn thích hợp cho mục đích của bà.” Ông đứng lên. “Liệu tôi có nên thông báo chính thức với bà là tôi chấp nhận lời đề nghị của bà không?”
Cô nghiêng đầu đồng ý.
“Thực ra,” ông nói, “Tôi chẳng hề quan tâm tới việc ai là người được chọn để xây Stoneridge. Tôi chưa từng thuê một kiến trúc sư giỏi nào cho các công trình tôi xây dựng. Tôi trao cho công chúng cái mà họ muốn. Lần này tôi phải lựa chọn bởi vì tôi phát ngán cái đám thợ vụng về từng làm việc cho tôi. Nhưng thật khó để có thể ra quyết định khi không có một tiêu chuẩn hay lý do nào cả. Tôi chắc rằng bà sẽ không phiền khi tôi nói thế này. Tôi thực sự biết ơn bà vì đã tạo cho tôi một động cơ tốt hơn nhiều so với bất kỳ động cơ nào mà tôi có thể tìm ra được.”
“Tôi mừng khi ông không nói rằng ông luôn khâm phục các công trình của Peter Keating.”
“Bà cũng không nói với tôi là bà vui mừng khi được gia nhập danh sách người tình nổi tiếng của Gail Wynand.”
“Ông cứ thoải mái tận hưởng việc tôi thừa nhận điều này – rằng tôi nghĩ tôi và ông sẽ rất hợp nhau.”
“Rất có thể. Ít nhất, bà đã cho tôi một kinh nghiệm mới: được làm điều tôi luôn muốn làm – mà lại làm một cách thật thà. Liệu bây giờ tôi đã có thể bắt đầu ra lệnh cho bà được chưa? Tôi sẽ không giả vờ rằng đó không phải là mệnh lệnh.”
“Nếu ông muốn.”
“Bà sẽ đi chơi với tôi trong vòng hai tháng, trên du thuyền của tôi. Chúng ta sẽ khởi hành trong mười ngày nữa. Khi chúng ta trở lại, bà được tự do quay lại chồng bà – cùng với hợp đồng Stoneridge.”
“Được thôi.”
“Tôi muốn gặp chồng bà. Liệu hai người có thể ăn tối với tôi vào tối thứ Hai chứ?”
“Được, nếu ông muốn.”
Khi cô đứng lên để đi, ông hỏi:
“Liệu tôi có thể nói với bà về sự khác nhau giữa bà và bức tượng của bà không?”
“Không.”
“Nhưng tôi muốn. Thật kinh ngạc khi thấy những thành tố như nhau được dùng để tạo ra hai tác phẩm có chủ đề trái ngược nhau như thế. Con người bà trong bức tượng mang chủ đề hân hoan. Nhưng bản thân bà lại mang chủ đề đau khổ.”
“Đau khổ ư? Tôi không nhận ra là mình đã thể hiện nó.”
“Rõ là chưa thể hiện. Đó chính là điều tôi muốn nói. Không có người hạnh phúcnào lại có thể vô cảm với nỗi đau như thế cả.”
* * *
Wynand gọi điện cho nhà buôn tranh của mình và đề nghị ông ta sắp xếp một buổi triển lãm các tác phẩm của Steven Mallory. Ông từ chối gặp mặt Mallory; ông chưa bao giờ gặp tác giả của những tác phẩm ông ưa thích. Nhà buôn tranh hăm hở thi hành mệnh lệnh của ông. Wynand mua năm tác phẩm ông nhìn thấy và trả nhiều hơn mức giá mà nhà buôn tranh này định đặt ra. “Ông Mallory muốn biết”, nhà buôn tranh nói, “cái gì làm ngài chú ý tới ông ấy.”
“Tôi nhìn thấy một tác phẩm của ông ta.”
“Tác phẩm nào?”
“Cái đó không quan trọng.”
Toohey đã hy vọng rằng Wynand sẽ cho gọi ông sau cuộc gặp với Dominique. Wynand đã không cho gọi. Nhưng vài ngày sau đó, khi tình cờ gặp Toohey ở phòng tin địa phương, Wynand hỏi lớn: “Ông Toohey, chả nhẽ có nhiều người định giết ông đến thế sao mà ông không nhớ được tên họ?”
Toohey mỉm cười và nói: “Tôi chắc rằng có khá nhiều người muốn thế.”
“Ông đang tâng bốc đồng loại của ông đấy”, Wynand nói và bỏ đi.
* * *
Peter Keating nhìn trân trối vào phòng ăn rực rỡ của nhà hàng. Đó là nhà hàng sang trọng nhất trong thành phố và cũng là nhà hàng đắt nhất. Keating thấy hả hê khi gặm nhấm ý nghĩ rằng anh có mặt ở đây với tư cách khách mời của Gail Wynand.
Anh cố gắng không nhìn chằm chằm vào khuôn người hào hoa thanh nhã của Wynand ở phía bên kia bàn. Anh biết ơn Wynand vì ông đã chọn ăn tối tại một nơi công cộng. Mọi người đều hướng về phía Wynand. Họ nhìn một cách bí mật và được ngụy trang kỹ lưỡng, nhưng dù sao vẫn cứ hướng về Wynand. Và sự chú ý của họ cũng gộp thêm cả hai vị khách đang ngồi tại bàn cùng với Wynand.
Dominique ngồi giữa hai người đàn ông. Cô mặc một chiếc áo lụa trắng dài tay, cổ áo dựng cao. Chiếc váy may theo kiểu nữ tu này tạo ra ấn tượng đáng kinh ngạc về một dạ phục ăn tối, chính vì nó hoàn toàn không phù hợp với mục đích đó. Cô không mang đồ trang sức. Mái tóc vàng của cô trông giống như chiếc mũ trùm đầu. Chiếc áo lụa màu trắng đục của cô chuyển động thành những góc nhọn cùng với những chuyển động của thân thể cô; nó để lộ thân thể cô một cách ngây thơ lạnh lùng. Đấy là thân thể của một vật tế thần đang được phơi ra cho công chúng – bất chấp nhu cầu che đậy hay ham muốn của công chúng. Keating thấy nó không hấp dẫn. Anh nhận thấy Wynand có vẻ ngưỡng mộ nó.
Có ai đó ở một bàn ăn xa xa nhìn về phía họ một cách chăm chú, một người nào đó cao lớn và nặng nề. Thế rồi cái dáng dấp cao lớn ấy đứng lên, và Keating nhận ra Ralston Holcombe đang vội vã tiến về phía họ.
“Peter, cậu bé của tôi, thật mừng được gặp anh.” Holcombe nói oang oang, rồi bắt tay anh, cúi chào Dominique và cố tình tảng lờ Wynand. “Dạo này anh trốn đi đâu thế? Sao chúng tôi không thấy anh mấy nhỉ?” Họ vừa mới ăn trưa với nhau cách đấy ba ngày.
Wynand đã đứng lên và hơi nghiêng người về phía trước một cách lịch thiệp. Keating ngần ngại; rồi với vẻ miễn cưỡng rõ ràng, anh nói “Ngài Wynand – ngài Holcombe.”
“Không phải là ngài Gail Wynand đấy chứ?” Holcombe nói với vẻ ngây thơ ráo hoảnh.
“Ông Holcombe, nếu ông nhìn thấy một trong hai anh em nhà Smith[108] bán thuốc ho ở ngoài đời, liệu có nhận ra họ không? Wynand hỏi.
“À, tôi chắc là có”, Holcombe nói và nháy mắt.
“Mặt tôi, thưa ông Holcombe, cũng chường ra chỗ công cộng chẳng kém gì họ.”
Holcombe lập bập vài câu vô thưởng vô phạt nào đó và chuồn mất.
Wynand mỉm cười thông cảm:
“Ông đừng sợ phải giới thiệu ông Holcombe với tôi, ông Keating, mặc dù ông ta cũng là kiến trúc sư.”
“Sợ ư, ngài Wynand?”
“Không cần thiết, vì tất cả đã được quyết định rồi. Bà Keating chưa nói với ông là Stoneridge đã thuộc về ông sao?”
“Tôi… không, cô ấy chưa nói với tôi.. tôi không biết…” Wynand đang cười, nhưng nụ cười ông bất động và Keating cảm thấy mình phải tiếp tục nói cho tới khi có một dấu hiệu nào đó dừng anh lại. “Thực tình tôi không dám hy vọng… không nhanh đến thế… tất nhiên, tôi nghĩ bữa tối này có thể là một dấu hiệu… giúp ngài quyết định…” Anh buột miệng một cách không kiềm chế: “Ngài luôn luôn gây bất ngờ như thế này sao – đúng như thế này?”
“Bất cứ khi nào tôi có thể”, Wynand lạnh lẽo nói.
“Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để xứng đáng với vinh dự này và đáp ứng được những kỳ vọng của ngài, thưa ngài Wynand.”
“Tôi không nghi ngờ gì về điều đó”, Wynand nói.
Ông gần như không nói gì với Dominique suốt buổi tối. Sự chú ý của ông dường như tập trung hoàn toàn vào Keating.
“Mọi người đều có thiện cảm với những công trình trước đây của tôi”Keating nói, “Nhưng tôi sẽ biến Stoneridge thành thành tựu lớn nhất của đời mình.”
“Điều này hứa hẹn nhiều đấy, nhất là khi nghĩ tới những công trình xuất sắc mà ông đã hoàn thành.”
“Tôi không biết là những công trình của tôi lại có thể thu hút được sự chú ý của ngài, thưa ngài Wynand.”
“Thế mà tôi biết chúng khá rõ. Toà nhà Cosmos-Stonick thuần túy theo phong cách Michelangelo.” Mặt Keating giãn ra trong sự thoả mãn đầy hoài nghi, anh biết Wynand là một người sành sỏi nghệ thuật và ông ta hẳn không so sánh như thế chỉ để chơi.
“Toà nhà Ngân hàng Prudential thì đích thực phong cách Palladio. Cửa hàng Bách hóa Slottern thì rõ ràng là Christopher Wren.” Mặt Keating đã biến đổi. “Hãy nhìn xem tôi có thể có được một đội ngũ kiến trúc sư giỏi thế nào, mà lại chỉ phải trả công cho một người. Đó chẳng phải là một món hời sao?”
Keating mỉm cười, mặt anh câng lên. Anh nói “Tôi vẫn nghe người ta nói nhiều tới phong cách hài hước tuyệt vời của ngài, thưa ngài Wynand.”
“Thế ông đã nghe nói tới phong cách miêu tả của tôi chưa?”
“Ý ngài là gì?”
Wynand quay nửa người trên ghế và nhìn vào Dominique như thể ông ta đang xem xét một vật thể bất động.
“Vợ ông có một thân hình đẹp, ông Keating ạ. Vai bà ấy hơi gầy quá, nhưng lại cân xứng một cách đáng ngưỡng mộ với phần còn lại của bà ấy. Chân bà ấy hơi dài quá nhưng lại tạo ra những đường nét thanh nhã, giống như ông sẽ thấy ở một chiếc du thuyền đẹp. Ngực bà ấy rất đẹp, ông có nghĩ thế không?”
“Kiến trúc là một nghề nghiệp thô lậu, ngài Wynand ạ”, Keating gượng cười. “Nó không trang bị cho người ta khả năng hiểu những thứ phức tạp như thế.”
“Ông không hiểu tôi sao, ông Keating?”
“Nếu tôi không hiểu ngài là một quý ông hoàn hảo thì tôi đã có thể hiểu nhầm ngài, nhưng ngài không thể đánh lừa tôi được đâu.”
“Thì tôi đang cố gắng không đánh lừa ông.”
“Tôi đánh giá cao các lời khen, ngài Wynand, nhưng tôi không đủ tự mãn để nghĩ rằng chúng ta phải tiếp tục bàn vợ tôi.”
“Tại sao lại không, ông Keating? Chẳng phải người ta luôn thấy dễ chịu khi nói về những thứ mà họ có – hoặc sẽ có – chung với nhau sao?”
“Ngài Wynand, tôi… tôi không hiểu.”
“Tôi có nên nói rõ hơn không?”
“Không, tôi…”
“Không à? Thế chúng ta sẽ không bàn đến Stoneridge nữa chứ?”
“Ồ, hãy nói về Stoneridge! Tôi…”
“Nhưng chúng ta đang nói về nó đấy thôi, ông Keating.”
Keating nhìn căn phòng xung quanh họ. Anh cảm thấy những việc như thế này không thể xảy ra ở một nơi như vậy; sự tráng lệ tuyệt vời của nơi này khiến cho mọi việc trở nên kinh khủng, anh ước gì nơi này chỉ là một hầm rượu tối tăm. Anh nghĩ: đổ máu trên nền đường – thế còn chấp nhận được; chứ đổ máu trên thảm phòng khách như thế này thì…”
“Giờ thì tôi biết rằng đó chỉ là một lời nói đùa, ngài Wynand”, anh nói.
“Đến lượt tôi phải khâm phục khiếu hài hước của ông, ông Keating.”
“Những thứ như… như thế không thể xảy ra…”
“Đó không phải là điều ông muốn nói, ông Keating. Ý ông là những thứ như thế này vẫn xảy ra hàng ngày, chỉ có điều chúng không được nói tới.”
“Tôi không nghĩ.”
“Ông đã nghĩ như thế từ trước khi ông đến đây. Ông đã không hề ngại. Tôi đồng ý với ông là tôi đang cư xử thô bỉ. Tôi phá vỡ mọi quy tắc của lòng trắc ẩn. Sự trung thực luôn rất tàn nhẫn.”
“Xin ngài, ngài Wynand, chúng ta hãy… bỏ qua nó. Tôi không biết là… tôi phải làm gì.”
“Đơn giản thôi. Ông phải tát vào mặt tôi.” Keating cười khúc khích. “Lẽ ra ông phải làm điều đó từ cách đây vài phút mới phải.”
Keating nhận ra lòng bàn tay ướt đẫm và anh cố gắng khỏi sụm người xuống bằng cách bám chặt vào tấm khăn ăn đặt trên đùi. Wynand và Dominique đang ăn, chậm rãi và lịch thiệp, như thể họ đang ngồi ở một bàn nào khác. Keating nghĩ họ không phải là những cơ thể người, cả hai bọn họ. Cái gì đó đã biến mất, ánh sáng lấp lánh từ những đồ trang trí bằng pha lê trong phòng đã trở thành những tia X-quang, chúng ăn xuyên tất cả, không chỉ xuyên qua xương, mà sâu hơn nữa. Anh nghĩ bọn họ là các linh hồn đang ngồi ở bàn ăn; những linh hồn hiện hình qua các bộ quần áo dạ tiệc, không có xác thịt làm trung gian. Anh cảm thấy sợ hãi trước nhận thức trần trụi này – sợ hãi bởi vì anh đã hy vọng sẽ thấy họ như những kẻ tự hành xác, nhưng anh chỉ thấy sự trong sáng tột cùng. Anh tự hỏi họ nhìn thấy gì ở anh; bên trong quần áo của anh sẽ là cái gì nếu như thể xác của anh biến mất.
“Không ư?” Wynand nói. “Ông không muốn làm thế ư, ông Keating? Tất nhiên ông không buộc phải làm. Chỉ cần nói là ông không cần nó nữa. Tôi sẽ không lấy làm phiền. Còn có ông Ralston Holcombe đang ngồi đằng kia. Ông ta có thể xây dựng Stoneridge tốt chẳng kém gì ông.”
“Tôi không hiểu ý ngài là gì, ngài Wynand”, Keating nói lý nhí. Mắt anh dán chặt vào món cà chua sốt trứng thịt trên đĩa salad của anh, nó mềm và nhầy nhụa, và khiến anh buồn nôn.
Wynand quay sang Dominique.
“Bà có nhớ cuộc nói chuyện giữa chúng ta về một sự tìm kiếm nhất định không, bà Keating? Tôi đã nói bà sẽ không bao giờ tìm được nó. Hãy nhìn chồng bà. Ông ấy là chuyên gia – mà chẳng cần phải cố gắng gì. Đấy chính là cách làm đúng đắn. làm đúng đắn. Cố mà đạt được như thế – dù thỉnh thoảng. Không cần phải nói với tôi là bà không thể. Tôi biết điều đó. Bà chỉ là một nghệ sĩ nghiệp dư thôi, thưa bà.”
Keating nghĩ anh phải lên tiếng, nhưng anh không thể, chừng nào món salad còn ở đó trước mặt anh. Mối kinh hãi của anh đến từ đĩa salad đó, không phải từ con quái vật lịch lãm đang ngồi bên kia bàn; và những thứ khác trong phòng đều ấm áp và an toàn. Anh chồm người về phía trước và khuỷu tay anh hất cái đĩa ra khỏi bàn.
Anh thốt ra một âm thanh gì đó bày tỏ sự xin lỗi. Có bóng ai đó xuất hiện, một giọng nói lịch sự nào đó xin lỗi và mớ bầy nhầy biến mất khỏi tấm thảm.
Keating nghe thấy một giọng nói “Tại sao ngài lại làm thế?”, rồi anh thấy hai khuôn mặt hướng về phía anh và nhận ra là chính anh vừa nói.”
“Ông Wynand làm thế không phải để tra tấn anh, Peter”, Dominique nói một cách bình thản. “Ông ta làm thế vì tôi. Để xem tôi có thể chịu đựng được đến đâu.”
“Đúng vậy, bà Keating,” Wynand nói. “Đúng một phần. Phần còn lại là để bào chữa cho chính bản thân tôi.”
“Bào chữa với ai?”
“Với bà. Và có thể với chính tôi nữa.”
“Ông có cần không?”
“Đôi khi. Tờ Ngọn cờ là một tờ báo đáng khinh, có phải không? Tôi đã phải trả giá bằng danh dự của mình để có được một vị trí mà ở đó, tôi có thể tiêu khiển bằng cách xem những người khác thể hiện danh dự của họ như thế nào.”
Giờ thì không còn gì ở bên trong quần áo của anh, Keating nghĩ, vì hai khuôn mặt kia không còn để ý tới anh nữa. Anh đã được an toàn, chỗ ngồi của anh ở bàn ăn hiện đang trống rỗng.
Anh tự hỏi mình – từ một nơi nào đó xa xăm và lãnh đạm – tại sao hai người này lại yên lặng nhìn nhau, không giống như những kẻ thù, không giống như những kẻ cùng nghề đao phủ, mà giống như hai người đồng chí.
* * *
Hai ngày trước khi họ khởi hành, Wynand gọi điện cho Dominique vào ban đêm.
“Bà có thể đến ngay đây không?” ông hỏi, và khi nghe thấy một thoáng im lặng, ông nói thêm “À, không phải điều bà đang nghĩ đâu. Tôi luôn giữ đúng cam kết của mình. Bà sẽ hoàn toàn an toàn. Tôi chỉ muốn gặp bà đêm nay.”
“Được thôi”, cô nói và kinh ngạc nghe thấy lời đáp lặng lẽ: “Cảm ơn bà.”
Khi cánh cửa thang máy mở ra tại sảnh riêng trong căn hộ trên mái của ông, ông đang chờ cô ở đó nhưng ông không để cô bước ra ngoài. Ông bước vào bên trong thang máy với cô.
“Tôi không muốn bà bước vào nhà tôi”, ông nói, “Chúng ta sẽ xuống tầng dưới.”
Người điều khiển thang máy nhìn ông kinh ngạc.
Thang máy dừng lại và mở ra trước một cánh cửa khóa kín. Wynand mở khóa và để cô bước ra trước, ông đi theo cô vào trong phòng gallery. Cô nhớ ra chưa từng có người nào ngoài ông được vào nơi này. Cô không nói gì. Ông cũng không giải thích gì.
Trong bốn giờ liền, cô bước đi lặng lẽ qua các căn phòng lớn, ngắm nghía các báu vật mỹ thuật tuyệt vời. Sàn nhà được trải thảm dầy và họ không nghe thấy tiếng bước chân bước đi hay tiếng động từ thành phố bên ngoài. Các ăn phòng cũng không hề có cửa sổ. Ông đi theo cô, dừng lại khi cô dừng lại.
Mắt ông dõi theo mắt cô từ tác phẩm này tới tác phẩm kia. Đôi lúc, ông liếc nhìn khuôn mặt cô. Cô bước đi, không dừng lại, tại bức tượng thuộc về Đền Stoddard.
Ông không mời cô ở lại, cũng không giục cô phải vội vàng, như thể ông giao phó nơi này cho cô. Cô tự quyết định thời điểm cô muốn rời khỏi chốn này và ông đi theo cô ra cửa. Tại đó, cô hỏi ông:
“Tại sao ông muốn cho tôi xem? Việc này cũng không làm tôi nghĩ tốt hơn về ông đâu. Có lẽ còn tệ hơn nữa.”
“Đúng, tôi đã đoán trước điều đó”, ông nói lặng lẽ, “nếu tôi cũng nghĩ về việc này theo kiểu đó. Nhưng tôi không nghĩ thế. Tôi chỉ muốn để bà xem.”