Quái Vật Ở Berlin - Chương 25: Cuộc truy tìm tiếp diễn

Buổi sáng tiếp theo đến với chẳng có sự kiên nhẫn nào được đền đáp, hai người đàn ông trở về nhà khi mặt trời đã bắt đầu ló rạng, và lúc này, chỉ trong chốc lát – nếu họ đủ may mắn – màn sương mù sẽ không ảm đạm bằng cái vòng mây luẩn quẩn trong đầu Johannes, và tia nắng nhợt nhạt của ban ngày mùa đông chỉ tô thêm cái vẻ rầu rĩ trên gương mặt ông. Suy nghĩ của ông nhuốm gam màu u tối nhất, và khi ông ngoái nhìn người đồng hành một lần cuối trước khi tự nhốt mình trong phòng, người kia chợt cảm nhận được cái chạm nhẹ của việc mất đi một phần cuộc sống nó khủng khiếp đến nhường nào, mà lại có thể tấn công được kẻ lãnh đạm nhất.

Anze lại đánh xe đi khi chỉ mới hơn bảy giờ sáng, và tuyết đã rơi lần thứ hai trong mùa. Khi chiếc xe bò qua từng con phố, ông ta chiêm ngưỡng được cái vẻ kiều diễm của những bông tuyết trắng rơi xuống từ thiên đường, và xung quanh, nhiều cửa hàng đã bắt đầu treo những vành hoa vành lá đón Giáng Sinh. Ông dừng lại trước tòa nhà văn phòng của mình, rảo bước lách mình qua những nhân viên đang chào hỏi và đi thẳng lên tầng gặp người thư ký. “Nathalie.” Ông gọi.

“Sếp!” Người phụ nữ trẻ đáp lại, chưa gì đã bận rộn cho một ngày làm việc chăm chỉ khác. “Tôi làm được rồi, tôi đã dời được buổi họp qua tháng sau rồi!” Cô lập tức nói thêm.

“Vẫn xuất sắc như mọi khi.” Anze cất lời khen, trước khi lại nhanh chóng lảng qua chuyện khác. “Nhưng chuyện đó hãy để sau, bởi việc khẩn cấp của tôi vẫn chưa lo xong được. Nếu tôi nhớ không lầm, có một khách hàng của công ty mang tên Asmodeus phải không?”

“Vâng, thưa sếp, ông ấy là một trong những nhà vật lý rất hứng thú vời thiết bị của chúng ta, dù ông ấy là người duy nhất mua với số lượng lớn nhất.”

“Hắn có thuộc tổ chức nào hay làm việc với ai không?”

“Tôi e là không…” Người thư ký lắc đầu, xem qua tập hồ sơ. “Có vẻ như ông ấy làm việc một mình. Ở đây trong tờ giấy phép ông ấy có nói rằng mình đang thực hiện một dự án đơn lẻ.”

“Để tôi xem.” Anze yêu cầu, và người thư ký đưa ông xấp giấy. Ông ta chau mày, “Có dấu móc kép trong chữ ký của hắn ta.”

“Và như thế thì sao, thưa sếp?”

“Hắn là một tên chuyên nói dối.” [1]

“Ồ, thưa sếp, chẳng lẽ sếp đã đọc quá nhiều tiểu thuyết trinh thám rồi sao?” Với nét duyên sẵn có của mình, người thư ký nói. Anze đáp lại với một tiếng bật cười:

“Cứ xem là vậy đi!”

“Nhưng ông ấy đã làm gì mà sếp lại nói như thế?” Người thư ký hỏi. Anze chép miệng:

“Theo dõi báo đài. Ít hôm nữa hắn sẽ ở trên đó đấy.”

Ông ta kết thúc với một cái nháy mắt nghịch ngợm. Người thư ký phải phì cười, “Ông ấy không thực hiện hành vi nào phạm pháp đó chứ?”

“Không phải lo, nếu hắn có, thì cô sẽ là người đầu tiên tôi báo tin.”

“Nghe mà nhẹ người.”

“Tôi tin rằng chúng ta cũng lưu lại địa chỉ của hắn phải không?” Người đàn ông tiếp. Người thư ký gật đầu:

“Vâng, thưa sếp, chúng ta vẫn giữ nó trong hóa đơn vận chuyển đây.”

“Nathalie?”

“Vâng, thưa sếp?”

“Tiền lương của cô. Tăng 25% kể từ tháng này.”

Có một tiếng reo bị nén lại vang lên khi Anze rời văn phòng. Ông tiếp tục việc điều tra của mình, chiếc Bentley đen lại lăn bánh, cho đến khi mười hai giờ điểm trên tiếng chuông của Nhà thờ Thánh Nikolai đang nằm ở rất gần nơi Anze dừng lại đổ xăng, và đó là lúc ông ta biết mình đã đến rất gần một ngôi nhà khác của Asmodeus, nằm tại Khu phố cổ Spandau.

Quận khu này nom nhã nhặn, tắm ngập trong ánh nắng hiếm hoi của mùa đông, những ngôi nhà bằng gỗ được sơn phết bằng những màu sắc nhẹ nhàng nền nã, ngôi nhà nơi địa chỉ chỉ định lần này trông giống một nơi ở hơn nơi lần trước nhiều. Một người phụ nữ tóc vàng sậm, mặt cũng vàng như nghệ ra mở cửa. Gương mặt ả không một nét hiền lành, trơn bóng vẻ đạo đức giả, nhưng cung cách hành xử lại xuất sắc tuyệt vời. Ả đon đả mời Anze vào nhà mà không cần hỏi mục đích, một thoáng vui mừng quỷ quyệt lóe lên trên gương mặt khi ả quan sát ông như một con mồi. Người đàn ông nói:

“Cô bảo hắn ta không có ở đây?”

“Phải.” Ả rít. “Thói quen của ngài ấy rất thất thường, và ngài thường hay vắng mặt. Chẳng hạn như lần này, đã hai tháng rồi tôi chưa thấy mặt ngài ấy. Nhưng tôi hiểu, ngài ấy có nhiều việc để lo mà.”

“Việc như thế nào?” Anze trầm giọng.

“Ồ, ông biết đấy. Việc này, việc kia, ngài ấy có nhiều việc làm lắm. Một số bảo ngài là nhà hóa học. Một số bảo ngài là nhà vật lý. Một số lại bảo ngài là một bác sỹ.” Ả lắc lư hông mình khi đi vòng quanh người kia. “Nhưng ông biết tôi gọi ngài ấy là gì không? Ngài ấy là một bác sỹ phẫu thuật.” Ả vừa nói vừa thè lưỡi ra nghịch ngợm.

“Tôi không biết đấy.” Người đàn ông đáp lại, giọng mỉa mai. Người phụ nữ, một cách lười nhác, ngồi lên đầu tủ phòng khách và khoe thân, bắt đầu từ cặp đùi của ả, chi chít những vết sẹo tạo thành từng đường dài màu đỏ vòng quanh phần thịt trắng.

“Tôi là một trong những tuyệt tác của ngài.” Ả nói, chớp chớp mi, xem chừng có vẻ rất tự hào.

“Hắn bạo hành cô à?”

“Bạo hành?” Người phụ nữ chớp mắt ngạc nhiên. Anze chỉ ra:

“Tay chân cô đầy sẹo.”

“Đừng làm lố lên chứ, đây không phải sẹo. Là đường may.”

“Hắn khâu cô lại? Như một con búp bê?” Bàng hoàng, Anze nhướn mày hỏi. Người phụ nữ cười:

“Đó là một câu chuyện dài, mà tôi thì lại không nhớ được nhiều lắm. Điều duy nhất tôi biết khi mở mắt ra chính là ngài đã tạo ra tôi, nếu ông hiểu ý tôi muốn nói là gì.” Ả nháy mắt. “Và kể từ đó tôi chỉ có ngài để phụng sự thôi.”

“Vậy ra cô là một trong những huyết đồng của hắn sao?”

“Và là quản gia của ngài ấy nữa.”

“Một chú chim nhỏ mách tôi rằng mọi kiện hàng của hắn đều được chuyển đến địa chỉ này. Tôi tự hỏi không biết chúng ở đâu. Là một quản gia thì cô ắt phải biết, đúng không nhỉ?”

“Nhưng tôi e rằng những kiện hàng đó không thuộc phạm vi quản lý của mình. Asmodeus luôn cho xe tải đến điều chúng đi trước khi trời sáng.”

“Tôi hiểu rồi… Hắn có gửi thư về trong lúc vắng mặt không, hay hắn cứ biến mất không một lời và rồi xuất hiện trở lại?”

“Ngài ấy có viết thư, nhưng chưa bao giờ nói gì nhiều. Asmodeus là một người có đầy bí mật mà.” Vừa nói, vừa phụ nữ vừa đặt ngón tay ngang môi. Anze tiếp:

“Hắn có nói hiện giờ mình đang ở đâu không?”

“Không, tôi rất tiếc.” Người phụ nữ chép miệng. “Sao thế, ông cần gặp ngài ấy nhiều đến vậy à? Và ông hỏi nhiều lắm đấy, cưng ạ, ông là một thám tử sao?”

“Phải cho vế đầu, và không cho vế sau.” Ông ta cười trừ. “Chúng tôi có vài vấn đề cần bàn luận.”

“Chà, tiếc thật.” Người phụ nữ bĩu môi, lần này nhoài đến áp sát vị khách của mình, bạo gan đến mức kéo nhẹ cổ áo ông ta, vuốt ve lớp vải. “Nhưng tôi e rằng tôi là người duy nhất ở đây. Tuy vậy, ông có thể bàn luận với tôi, quý ngài điển trai ạ, tôi là một vị chủ nhà rất tốt.”

“Thế thì tôi xin nói cô không phải gu của tôi.” Anze cười điệu, thẳng thừng đáp, rồi lách qua người phụ nữ mà hướng ra cửa. “Và tôi cũng e rằng chẳng còn gì để tôi tìm hiểu ở đây. Tạm biệt.”

“Sớm vậy sao?”

“Tôi là một người bận rộn mà, quý cô.” Nụ cười của ông nhoẻn rộng ra, ông ta nhìn ả một lần cuối rồi ngồi vào xe mình. “Và nhắc nhở thân thiện – Cô nên tìm một tổ phụ tốt hơn. Không đáng để dây dưa với một kẻ như Asmodeus đâu.”

Nói đoạn, ông ta ra về, để lại người quản gia với một tiếng chậc lưỡi đầy thất vọng. Anze không quan tâm liệu ả có báo cáo cho Asmodeus hay không, đằng nào việc đấy cũng chẳng thể làm hại được gì họ, ông ta nghĩ, và tiếp tục đánh xe dọc theo dòng sông Havel. Ông lái dưới sắc trời ảm đạm thê lương dọc bờ sông băng giá, càng tiến gần hơn về phía bắc, càng thưa thớt người dân xung quanh ông. Cho đến một lúc, vào tầm hai giờ chiều, thứ duy nhất thu hút Anze là dáng dấp của một chú chó.

Anze dừng xe. Một chú chó chăn cừu lông khoang trắng và xám xanh, kích thước trung bình đang rên rỉ tuyệt vọng giữa một bụi rậm trơ trọi, nửa thân đang bị bao phủ bởi tuyết.

“Xin chào, bé con.” Anze cất tiếng, khi ông quỳ xuống bên chú chó và nhẹ nhàng gỡ nó ra khỏi mớ dây nhợ mà nó mắc vào. Ông ta cười tươi khi, may thay, không có vết thương nào được tìm thấy, “Mày đúng là một cô bé đáng yêu nhỉ!”

Chú chó, như thể đã từng được huấn luyện trước đây, liền vẫy đuôi và đứng dậy, dù chân nó hơi lảo đảo vì vết dây siết vào khiến chúng hơi tê, nó lúc lắc thân mình để rũ bỏ hết tuyết và để lộ ra bộ lông dài và dày đã bị ẩm và vấy bẩn đôi chút. Nó nhỏ tiếng sủa mấy cái và đánh hơi khi Anze vuốt ve nó, chải lại bộ lông và gãi gãi đầu. Nó thè lưỡi thích chí. “Mày có tên không?” Người đàn ông hỏi.

Chú chó chăn cừu chỉ sủa thêm một tiếng rồi nhào vào lòng Anze, dúi mặt vào ngực ông mà đòi ôm ấp. Nó không có vòng cổ hay thẻ tên. Anze chậc lưỡi, “Mày không có nhà à?”

Một tiếng sủa khác là thứ ông nhận được. Trong lúc phấn khích, chú chó đứng dậy bằng hai chi sau và dựa vào người Anze, và nó liếm khắp mặt ông như thể thay thế cho những cái hôn cảm ơn vậy. Ông ta phải bật cười, “Này, nhột quá! Ngồi xuống, con gái, ngồi xuống!” Ông vừa cười vừa ra lệnh.

Chú chó lập tức tuân theo, ngồi xuống ngoan ngoãn và hơi nghiêng đầu, nhìn chăm chú vào người vừa cứu mạng nó. Anze mỉm cười, “Mày đúng là rất khôn, nhỉ?”

Một tiếng sủa đáp lại.

“Đã có ai huấn luyện mày trước kia chưa?”

Lại thêm một tiếng sủa.

“Mày có muốn đi cùng không?”

Vừa hỏi, Anze vừa đứng dậy và quay ngược trở vào xe. Chú chó chạy ngay theo sau, lúc nào cũng vẫy đuôi rối rít, và nó nhảy lên ghế phụ lái ngay khi Anze vừa mở cửa xe. “Ngoan lắm.” Ông ta khen, khi chú chó ngồi im cho ông thắt dây an toàn. “Kể từ bây giờ,” ông ta nói, “tên con là Lilith.”

Chú chó chăn cừu nghiêng đầu, phát ra tiếng ư ử.

“Lilith.” Ông ta nhắc lại, chỉ tay vào chú chó. “Tên con là Lilith. Hiểu chứ? Lilith?”

Lập tức chú chó tru lên một tiếng vui vẻ.

“Đúng rồi!”

Chuyến xe trở về nhà với thú nuôi mới khiến Anze nhẹ lòng phần nào. Họ về đến nơi ở khi mặt trời vẫn còn chưa lặn, nhưng chào đón họ, không báo trước, lại là dáng dấp tiều tụy của Johannes, lúc này chỉ mặc độc một chiếc sơ mi và quần âu, đang đứng bần thần bên bàn bếp, chiếc lọ rỗng đặt trước mặt cho thấy ông đã uống hết liều thuốc mà Anze để lại trước khi đi, phòng khi ông ta trở về muộn. Nghe tiếng người trở về, Johannes mệt mỏi ngẩng đầu, cất tiếng nói về vấn đề đang làm tâm trí ông vướng bận một cách khó chịu.

“Tôi đoán, Anze, rằng ông đã ra ngoài từ sớm để tiếp tục tìm kiếm, phải không?”

“Tôi tìm được một nơi ẩn náu khác của hắn tại Khu phố cổ Spandau.” Anze đáp, và Johannes có vẻ phấn chấn lên được một chút. “Quản gia của hắn là một ả thuộc tộc Carpathia. Tôi khá ngạc nhiên về điều đó, tuy vậy… ả ta không giúp ích được gì nhiều. Hắn ắt phải còn một cái hang nào đó khác.”

“Vậy ra, hắn không có nhà?”

“Không.” Anze lắc đầu. “Quản gia nói thói quen của hắn rất thất thường và hắn hiếm khi ở nhà.”

“Đúng là Asmodeus.” Johannes nhăn mũi.

“Hôm nay em thấy thế nào?” Anze lo lắng hỏi. “Ý tôi là về vết thương. Hôm nay đã dùng đến liều thuốc cuối rồi.”

“Tôi thấy khỏe rồi.” Johannes gật đầu. “Đêm nay đã có thể tự đi lại một mình.”

“Em sẽ lại đi tìm tiếp sao?”

“Vì sao không? Tôi phải đi chứ.” Johannes quả quyết. Anze thở dài:

“Ồ… Được thôi. Chỉ là… nhớ cẩn thận.”

“Tôi sẽ nhớ.” Johannes đáp. “Sau khi mặt trời lặn tôi sẽ bay đến phía bắc Berlin.” Ông nói thêm. “Tên khốn đó không thể ở xa được, trừ phi lũ bò sát làm được gì nhiều vào mùa đông. Phía bắc ít người sinh sống, nên tôi nghĩ một con rắn như Asmodeus sẽ thấy những nơi như thế đủ lý tưởng để lẩn trốn.”

“Ý không tồi. Thế thì tôi sẽ xuống phía nam.” Anze đồng ý. “Nhưng tôi cần ít thời gian. Một giờ, không hơn. Để chăm sóc cho một người bạn đang cần giúp đỡ, nếu em cho phép tôi.”

“Và người bạn cần giúp đỡ của ông mang mùi của chó và đang ngửi chân tôi, có phải không?” Lần đầu tiên, Johannes cười. Anze trừng mắt rồi vội vàng chui xuống gầm bàn:

“Không được, Lilith, đi ra!”

“Lilith? Ông đặt tên cho nó rồi à?” Johannes chau mày. “Con gái sao…?”

Anze bế Lilith trên tay như thể nó là một em bé to lớn. “Hợp với nó mà!”

“Ông nhặt con chó này ở đâu về vậy?”

“Cạnh bãi hoang bờ sông Havel. Nó bị mắc kẹt.”

“Nhỡ đâu nó có chủ thì sao?”

“Không có.” Anze chắc chắn. “Nó cần tôi. Và nó cũng sẽ trở thành một người bạn đồng hành tốt, phải không, Lilith?”

Chú chó sủa vang và vẫy đuôi thêm lần nữa. Johannes phải nhịn cười, rồi ông khẽ nheo mắt. “Ông vui là được. Chỉ cần để nó tránh xa khỏi tôi thôi.”

“Sao thế? Em không sợ chó đấy chứ?”

“Không. Tôi chỉ không thích cái cách nó lườm tôi.”

.

.

“Lilith! Lilith, thôi, bố đang lái xe mà!”

Anze la lớn, trong khi Lilith cứ chúi mũi vào túi xách của ông mà ngọ nguậy. Hóa ra chú chó cảm thấy thích thú với chiếc nón beret trắng mà ông cất trong đấy, và chẳng chịu buông tha cho đến khi ông ta đưa chiếc nón cho. Lúc bấy giờ ông ta mới tự trách mình không sớm nhận ra cậu bé lúc ấy có mái tóc hệt như Herbert, một ý nghĩ vì thế lập tức lóe lên trong đầu ông, và ông ta ngừng xe lại.

“Lilith.” Anze nói. Chú chó nghiêng đầu, ngậm phần chóp mũ trong miệng. “Con có từng làm chó nghiệp vụ, hay đại loại vậy, bao giờ chưa?”

Chú chó chăn cừu chỉ ư ử trong cổ họng trong khi nhìn người đàn ông bằng đôi mắt hổ phách to tròn và chăm chú của mình. Anze cũng chẳng hiểu vì sao mình lại quyết định nói chuyện với chó, nhưng cuối cùng, ông ta cũng hỏi, “Con có… con có đánh hơi được không?”

Lilith vẫy vẫy đuôi.

Vậy câu trả lời có thể là có.

Anze tìm đến một trung tâm mua sắm gần đó và đỗ xe. Ông mua một sợi dây xích cho Lilith, và đưa nó chiếc mũ để nó ngửi thêm lần nữa. “Được rồi, con gái, để xem con làm được gì.” Ông nói. “Tìm chủ nhân của chiếc mũ này đi.”

Đó là một sự ngạc nhiên vô cùng với Anze khi Lilith vừa khỏe vừa kiên trì. Nó dẫn ông qua con phố này đến con phố khác của khu vực phía nam thành phố, băng qua thị xã Neukölln cùng những đại lộ sầm uất của nó, trước khi đến được khu dân cư của vùng Rudow. Chú chó chăn cừu cứ đánh hơi và đánh hơi mặc cho có khó khăn khi nhận diện mùi hương giữa trời đông giá rét, đồng thời vểnh tai nghe ngóng, tác phong chuyên nghiệp không khác gì lũ béc-giê đi tuần buổi đêm, và nó thậm chí còn “nói chuyện” với lũ chó địa phương như thể hỏi đường. Sau vài giờ lòng vòng, Lilith kéo Anze hoàn toàn tách biệt khỏi tiếng rì rầm văng vẳng và tiếng lách cách của thành phố, và họ đến được một khu nhà ven vùng ngoại ô. Bất chợt chú chó đứng yên như bị đánh động, và chớp mắt, nó đã lao về phía trước với tốc lực lớn đến nỗi khiến Anze suýt va vào tường khi nó rẽ ở góc đường.

“Lilith!” Anze gọi, rõ ràng vô cùng thất vọng khi ông ta nhìn thấy chú chó đang đánh nhau với một sinh vật gặm nhấm lông xám. “Bố không đưa con theo để đánh nhau với gấu mèo!” Nhưng Lilith không quan tâm, và nó vẫn cứ tiếp tục nhe nanh ra với kẻ thù. Con vật kia cũng ra dáng tự vệ, nó xù hết lông lên và sẵn sàng lao vào chiến đấu. Vào lúc ấy, một giọng trẻ con vang lên.

_______________________________________________

[1]: Trong thuật xem tướng chữ, một chữ “o” viết thường mà có đến hai dấu móc nối nghĩa là người viết đang nói dối điều gì. Ở đây Asmodeus viết hai dấu móc chữ “o” ở ngay trong chữ ký, tức bản thân hắn

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ