Cuộc Săn Cừu Hoang - Chương 18: PHẦN 6: Câu chuyện kì lạ của người đàn ông kì lạ tiếp diễn

“Chỉ mới ban nãy, tôi có ám chỉ đến sự tầm thường của cậu,” người đàn ông nói, “Điều này không hề có ý chỉ trích cậu chút nào. Hoặc nói đơn giản hơn, bởi vì bản thân thế giới thật tầm thường đến mức cậu cũng tầm thường như thế. Cậu có đồng ý không?”

“Xin lỗi?”

“Thế giới tầm thường. Về chuyện đó thì không thể nhầm được. Nhưng vậy thì, liệu thế giới có tầm thường từ thời thượng cổ? Không. Thủa ban đầu, thế giới hỗn mang, mà hỗn mang thì không phải tầm thường. Sự tầm thường hóa bắt đầu khi người ta tách biệt công cụ sản xuất ra khỏi cuộc sống thường nhật. Khi Karl Marx thừa nhận giai cấp vô sản, ông vì thế đã củng cố sự tầm thường của họ. Và cũng chính bởi điều này, chủ nghĩa Stalin có mối liên hệ trực tiếp với chủ nghĩa Marx. Tôi coi trọng Marx, ông là một trong những thiên tài hiếm hoi có trí nhớ mở rộng đến tận thời hỗn mang tiền sử. Và tương tự như vậy, tôi đánh giá cao Dostoyevsky. Tuy vậy, tôi không tán thành chủ nghĩa Marx. Nó quá tầm thường.”

Người đàn ông nén lại một âm thanh khe khẽ phát ra từ sâu trong cổ họng.

“Tôi, ngay lúc này đây, đang nói cực kỳ thành thật. Tôi coi điều này như một cử chỉ trả ơn đối với sự thành thật lúc trước của cậu. Hơn nữa, tôi sẽ đồng ý làm sáng tỏ bất cứ nghi ngại nào gọi là thành thật của cậu. Nhưng hãy hiểu rằng khi tôi nói xong, quyền lựa chọn để ngỏ cho cậu sẽ trở nên cực kỳ giới hạn. Xin hãy hiểu trước điều này. Nói đơn giản hơn, cậu đang đánh bạc với chính bản thân mình đó. Chúng ta đồng ý chứ?”.

“Tôi có lựa chọn gì?” tôi hỏi.

“Ngay lúc này đây, một ông già đang nằm chờ chết trong trang viên này,” ông ta bắt đầu. “Nguyên nhân rất rõ ràng. Đó là một khối u khổng lồ trong não ông. Một khối u đủ lớn để làm biến dạng chính hình dạng bộ não của ông. Cậu biết đến đâu về thần kinh học?”

“Hầu như không biết tí gì.”

“Vậy thì, nói đơn giản, đó là một quả bom máu. Lưu thông máu bị tắc dẫn đến não sưng lên bất thường. Giống như một con rắn nuốt quả bóng chơi golf. Nếu nó nổ tung, bộ não sẽ ngừng hoạt động. Tuy thế hoàn toàn không thể mổ. Một sự kích thích nhỏ nhất cũng có thể khiến nó nổ tung. Nói một cách thực tế, chúng tôi chỉ có thể chờ đợi và nhìn ông ấy chết. Ông ấy có thể chết trong vòng một tuần nữa, hoặc cũng có thể một tháng nữa. Không ai có thể nói được.”

Người đàn ông nói từ từ và thở ra.

“Không có gì kỳ quặc về việc ông ấy đang nằm chờ chết. Ông ấy già rồi, bệnh tình của ông ấy đã được xác định rõ. Điều kỳ quặc là ông ấy đã sống lâu đến thế này.”

Tôi không thề có chút khái niệm mơ hồ nhất về những điều ông ta đang cố diễn đạt.

“Sự thật là, nếu ông ấy chết ba mươi hai năm trước thì cũng chẳng có gì sai,” Người đàn ông tiếp tục. “Hoặc thậm chí bốn mươi hai năm trước. Cái khối u ấy lần đầu tiên được các bác sĩ quân y Mỹ phát hiện khi tiến hành kiểm tra sức khỏe tội phạm chiến tranh Loại A. Chuyện này là vào mùa thu năm 1946, trước Tòa án Tội phạm Chiến tranh Tokyo. Viên bác sĩ phát hiện ra nó khá hoảng khi trông thấy bản chụp X-quang. Có một khối u khổng lồ như thế trong não mà vẫn sống – lại còn năng động hơn người bình thường ấy là chuyện thách thức tất cả lẽ thường của y học. Ông ấy được chuyển từ Sugamo đến bệnh viện quân y ngày đó, St. Luke, để làm xét nghiệm đặc biệt.

“Các xét nghiệm kéo dài trong một năm, mặc dù rốt cuộc họ không làm được gì hết. Chỉ có điều nếu ông ấy có chết thì cũng không ai ngạc nhiên, vì việc ông ấy vẫn sống sờ sờ ra đó hoàn toàn là một bí ẩn. Tuy vậy ông ấy không cho thấy dấu hiệu ốm yếu tàn tật gì sau đó, ông tiếp tục sống với một sinh khí phi thường. Hơn nữa, tất cả các hoạt động của não đều bình thường một cách vượt bậc. Họ không biết phải giải thích thế nào. Bế tắc. Đây là một người mà theo lý thuyết đã phải chết rồi, tuy vậy vẫn sống và đi lại bình thường.

“Tất nhiên họ làm sáng tỏ một số triệu chứng đặc biệt. Ông ấy bị nhức đầu kéo dài ba ngày, cơn nhức đầu cứ đến và đi theo chu kỳ bốn mươi ngày. Theo miêu tả của ông, những cơn nhức đầu bắt đầu từ năm 1936, họ phỏng đoán đấy là thời gian khối u lần đầu xuất hiện. Ông nhức đầu không chịu đựng được, đến nỗi ông phải cần thuốc giảm đau. Tóm lại là, thuốc ngủ. Thuốc ngủ làm giảm các cơn đau nhưng lại gây ra ảo giác. Ảo giác bị đè nén ở mức độ cao. Chỉ có mình ông ấy biết chính xác những gì ông ấy trải qua, nhưng dường như chúng không dễ chịu chút nào. Quân đội Mỹ vẫn còn lưu giữ bản miêu tả tỉ mỉ các trải nghiệm ảo giác này. Các bác sĩ hiển nhiên đã quan sát vô cùng tỉ mỉ. Tôi có được những thứ này qua một kênh đặc biệt và đã đọc chúng vài lần, mặc dù dùng ngôn ngữ lâm sàng nhưng các bản này miêu tả một chuỗi hiện tượng làm cho người ta kiệt sức. Tôi ngờ rằng ít người có thể chịu đựng như ông ấy đã từng chịu các trải nghiệm lặp đi lặp lại của thứ ảo giác đó.

“Không ai biết được tại sao những ảo giác này lại xuất hiện. Có lẽ khối u tiết ra năng lượng theo chu kỳ và những cơn nhức đầu là phản ứng của cơ thể. Vì thế khi cái thứ đệm phản hồi ấy bị dỡ bỏ, năng lượng trực tiếp kích thích những phần nhất định của não, gây ra ảo giác. Tất nhiên, đây chỉ là một giả thuyết, nhưng đó là một giả thuyết khiến người Mỹ quan tâm. Đủ để họ bắt đầu những xét nghiệm kỹ lưỡng. Những cuộc xét nghiệm tối mật của Cục Tình báo. Ngay cả bây giờ chúng ta cũng không rõ tại sao Cục Tình báo Mỹ lại nhảy vào điều tra một khối u của một người; tuy nhiên, chúng ta có thể đưa ra vài khả năng.

“Khả năng thứ nhất, liệu có thể họ đã tiến hành các cuộc thẩm vấn tinh vi nào đó dưới vỏ bọc xét nghiệm y học? Tức là, đảm bảo các đường dây gián điệp và các đường thuốc phiện trên đại lục Trung Hoa. Hãy nhớ rằng thất bại cuối cùng của Tưởng Giới Thạch có nghĩa là Mỹ mất đi mối quan hệ với Trung Hoa. Nhưng không cần phải nói cũng biết những cuộc tra hỏi này không thể để lộ ra công chúng. Trên thực tế, sau chuỗi xét nghiệm này, Ông Chủ được thả mà không phải hầu tòa. Có thể hiểu là một cuộc dàn xếp đã được bí mật thỏa thuận. Chúng ta có thể gọi đó là trao đổi thông tin lấy tự do.

“Khả năng thứ hai là họ muốn bóc trần mối quan hệ qua lại giữa tính lập dị rõ rệt của ông với tư cách là nhà lãnh đạo cánh hữu và khối u. Tôi sẽ đi sâu vào khả năng này với cậu sau, nhưng đó là một hướng tư duy kỳ lạ hơn. Dù tôi ngờ là họ chưa bao giờ khám phá được bất kỳ thứ gì. Liệu có thật họ tưởng rằng mình có thể khám phá một điều gì đó thuộc loại đó khi cái sự thật cơ bản hơn rằng ông vẫn sống vẫn còn là điều bí ẩn? Nếu không mổ xác khám nghiệm thì họ không có cách nào để tìm thấy bất kỳ thứ gì. Vậy nên, đây lại là một tình trạng bế tắc nữa.

“Khả năng thứ ba liên quan đến tẩy não. Có lẽ, ý tưởng là bằng cách phát ra một loại sóng kích thích đã được định sẵn vào trong não bộ, họ có thể khơi gợi được một phản ứng đặc biệt. Ngày đó họ đang thực hiện các thí nghiệm dạng đó. Người ta mới biết là trên thực tế có một nhóm nghiên cứu về tẩy não tại thời điểm đó.

“Không rõ hướng tư duy nào trong ba hướng trên đại diện cho chỉ thị chủ yếu của Cục Tình báo. Cũng không rõ là liệu các cố gắng của họ, chúng ta cứ tạm gọi thế, dẫn đến kết quả gì. Mọi thứ đều bị chôn vùi trong lịch sử. Những người duy nhất biết được sự thật là một nhóm số ít các thành viên ưu tú trong Quân đội Mỹ và bản thân Ông Chủ. Cho đến nay, Ông Chủ chưa bao giờ nói một lời nào về chuyện này với bất kỳ ai, kể cả với tôi, và không chắc rằng ông ấy sẽ có lúc nói ra.”

Khi nói xong, người đàn ông hắng giọng. Tôi quên mất không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi bước vào phòng.

“Vào mùa đông năm 1932, Ông Chủ bị cầm tù về tội đồng lõa trong kế hoạch ám sát một nhân vật chủ chốt. Ông bị cầm tù cho đến tháng Sáu năm 1936. Sổ sách chính thức của nhà tù và y bạ vẫn còn, và ông thi thoảng có đề cập đến chuyện này. Nhìn thoáng qua cho thấy: hầu hết cả quãng thời gian trong tù, Ông Chủ bị chứng mất ngủ trầm trọng. Hoặc có lẽ còn tệ hơn chứng mất ngủ thông thường. Đây là chứng mất ngủ đã được nâng đến mức độ đặc biệt nguy hiểm. Có lúc cứ ba hoặc bốn ngày liền, thậm chí có lúc gần một tuần, ông không thể nhắm măt lấy một lần. Hồi đó cảnh sát buộc tội phạm chính trị phải khai nhận bằng cách không cho họ ngủ. Đối với trường hợp của Ông Chủ, các cuộc hỏi cung càng khắc nghiệt hơn nữa bởi ông có liên quan đến phe đối lập chống lại quân phiến loạn ủng hộ phái bảo hoàng và bên cầm quyền. Nếu tù nhân cố ngủ, họ sẽ hắt nước lên anh ta, đánh anh ta bằng gậy tre hoặc chiếu anh đèn sáng lóa mắt anh ta, bất cứ thứ gì hòng đập vỡ cái lịch ngủ ra thành từng mảnh. Hầu hết người ta suy sụp nếu chế độ đó duy trì trong vòng vài tháng. Trí óc điều khiển giấc ngủ của họ bị hủy diệt một cách hiệu quả. Họ chết hoặc phát điên hoặc trở thành những kẻ mất ngủ cực độ. Ông Chủ đi theo hướng cuối cùng. Mùa xuân năm 1936, ông hồi phục hoàn toàn khỏi chứng mất ngủ. Đó cũng là khoảng thời gian khối u xuất hiện. Cậu nghĩ như thế nào về chuyện đó?”

“Mất ngủ cực độ vì một lý do nào đó phá vỡ dòng máu lưu thông trong não, do đó tạo nên khối u, đúng vậy không?”

“Đó dường như là một giả thuyết hợp lý nhất, có nghĩa nhất. Và vì một người không phải chuyên gia còn nghĩ vậy nên cậu có thể chắc chắn rằng các bác sĩ Quân đội Mỹ cũng nghĩ vậy. Tuy nhiên, chỉ riêng lời giải thích đó thì không hoàn toàn đầy đủ. Có gì khiếm khuyết ở đây. Tôi không khỏi nghĩ rằng hiện tượng khối u là biểu hiện thứ yếu của một nhân tố quan trọng hơn. Ví dụ, chú ý là trong số vài người được biết mang một khối u tương tự, không ai có triệu chứng giống như vậy. Hơn nữa, lời giải thích không đưa ra nguyên nhân tại sao Ông Chủ tiếp tục sống.”

Không còn nghi ngờ gì nữa, những gì người đàn ông nói là hoàn toàn logic.

“Có một điều còn kỳ lạ hơn về khối u. Bắt đầu từ mùa xuân năm 1936, Ông Chủ, nói theo cách ngôn, như được tái sinh, thành một người mới. Trước đó, Ông Chủ nói thẳng ra chỉ là một nhà hoạt động cánh hữu tầm thường. Là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân nghèo ở Hokkaido, ông rời nhà khi mười hai tuổi rồi đến Triều Tiên, nhưng cũng không tìm được chốn dung thân ở đó, vì thế ông trở lại quê hương và gia nhập một nhóm cánh hữu. Có vẻ như hồi đó ông là một thanh niên nổi giận, không ngớt vung kiếm samurai. Rất có thể ông hầu như không biết đọc. Tuy vậy, vào mùa hè năm 1936, khi ông được thả khỏi nhà tù, ông đã leo đến đỉnh phe cánh hữu, với tất cả mọi nghĩa của từ này. Ông có sức lôi cuốn quần chúng, một ý thức hệ vững vàng, sức mạnh diễn thuyết khiến ta đáp lại đầy nhiệt huyết, có sự khôn khéo về mặt chính trị, quyết đoán, và trên hết, khả năng định hướng xã hội bằng cách sử dụng điểm yếu của đám đông để làm động lực đòn bẩy.”

Người đàn ông thở một hơi và hắng giọng lần nữa.

“Tất nhiên, với tư cách là một nhà tư tưởng cánh hữu, lý thuyết và khái niệm về thế giới của ông hơi trẻ con. Tuy nhiên, điều đó hầu như không quan trọng. Câu hỏi thật sự là ông có thể tổ chức đội ngũ đằng sau những lý thuyết ấy đến mức độ nào. Hãy nhìn cách thức Hitler lấy những khái niệm nửa vời như không gian sống (lebensraum) và thượng đẳng chủng tộc để tổ chức chúng trên bình diện quốc gia.

Tuy nhiên, Ông Chủ không đi theo con đường đó. Con đường ông chọn kín đáo hơn – một lối đi trong bóng râm. Ông thao túng xã hội từ phía sau hậu trường, không bao giờ lộ ra giữa thanh thiên bạch nhật. Và vì lý do đó, vào năm 1937, ông qua Trung Hoa đại lục. Nhưng ngay cả như vậy – mà thôi, chuyện này tạm dừng ở đây đã. Trở lại chuyện khối u, những gì tôi muốn nói là thời gian khối u xuất hiện trùng khớp chính xác với thời gian ông ấy trải qua một sự thay đổi bản thân kỳ diệu.”

“Trong giả thuyết của ông,” tôi nói, “không có mối quan hệ nhân quả nào giữa khối u và sự thay đổi bản thân; thay vào đó hai thứ chịu sự quản lý song song của một nhân tố có quyền lực cao hơn bí ẩn nào đó.”

“Cậu nắm bắt nhanh đấy,” người đàn ông nói. “Chính xác và đi thẳng vào vấn đề.”

“Vậy thì khi nào con cừu xuất hiện trong chuyện của ông?”

Người đàn ông lấy điếu thuốc thứ hai từ chiếc hộp trên bàn và dùng móng tay búng nhẹ trước khi đưa nó lên môi. Ông ta không châm thuốc. “Chúng ta hãy xem xét mọi thứ tuần tự,” ông ta nói.

Một sự yên lặng nặng nề bao trùm.

“Chúng tôi đã xây dựng một vương quốc,” người đàn ông lại bắt đầu. “một vương quốc ngầm hùng mạnh. Chúng tôi lôi kéo mọi thứ vào trong vương quốc đó. Chính trị, tài chính, truyền thông đại chúng, bộ máy quan liêu, văn hóa, tất cả những thứ cậu chưa bao giờ dám mơ tới. Chúng tôi thậm chí còn kiểm soát cả các bên thù địch với chúng tôi. Từ tổ chức đến phi tổ chức, tất thảy mọi thứ. Thậm chí ít người, nếu không muốn nói là không có ai, nhận ra điều đó. Nói cách khác, chúng tôi tự mình nắm trong tay một tổ chức cực kỳ tinh vi. Tất cả những thứ đó đều được một tay Ông Chủ tạo dựng nên sau chiến tranh. Tóm lại, ông nắm toàn quyền thống trị trong khoang ngầm của chiếc tàu khổng lồ mà người ta gọi là Nhà nước. Nếu ông tháo nút ra, cả con tàu sẽ chìm. Hành khách và tất cả, sẽ mất tích trong đại dương, và chắc chắn trước khi bất cứ ai nhận thức được sự thật đó.”

Đến đó người đàn ông châm thuốc.

“Tuy nhiên, tổ chức này có giới hạn của nó. Đó là, cái chết của ông vua. Khi vua chết, vương quốc sụp đổ. Cậu thấy đấy, vương quốc được xây dựng và duy trì trên sự tài trí của một người đàn ông này. Theo đánh giá của tôi, chính để nói rằng nó được xây dựng và giữ vững bởi cái nhân tố kỳ bí ấy. Nếu Ông Chủ chết, điều đó có nghĩa kết thúc mọi thứ, vì tổ chức của chúng tôi không phải bộ máy quan liêu, mà là một cỗ máy được vận hành hoàn hảo với một trí tuệ tột đỉnh. Đây chính là sức mạnh và cũng là điểm yếu của tổ chức chúng tôi. Hoặc đúng ra, đã là. Cái chết của Ông Chủ không chóng thì chày sẽ làm tổ chức vỡ ra từng mảnh, và giống như một lâu đài Valhalla[1] bị lửa thiêu rụi, nó sẽ rơi vào biển tầm thường. Không ai có thể thay thế Ông Chủ. Tổ chức sẽ tan rã – một cung điện huy hoàng bị phá trụi để lấy chỗ ột khu chung cư. Một thế giới của sự đơn điệu và chắc chắn. Mặc dù có lẽ người ta sẽ nghĩ đó là phù hợp và đứng đắn. Phân chia công bằng và mọi thứ. Nhưng hãy nghĩ mà xem. Cả nước Nhật bị san bằng núi non, bờ biển hay hồ, ngổn ngang những dãy nhà chung cư giống hệt nhau. Liệu như thế có đúng không?”

“Tôi không biết,” tôi nói. “Tôi thậm chí còn không biết là bản thân câu hỏi có nghĩa không nữa?”.

“Một câu trả lời thông minh,” người đàn ông nói, gập những ngón tay trên lòng. Đầu ngón tay gõ nhẹ một nhịp điệu chậm rãi. “Cậu biết đấy, tất cả câu chuyện về chung cư này, chỉ để tranh luận mà thôi. Chính xác hơn, tổ chức chúng tôi có thể được chia làm hai yếu tố. Bộ phận dịch chuyển lên phía trước và bộ phận chèo lái nó lên phía trước. Theo tự nhiên, có các bộ phận khác quản lý các chức năng khác. Tuy nhiên, nếu tạm chia, tổ chức chúng tôi được tạo thành bởi hai bộ phận này. Các bộ phận khác hầu như không đáng kể. Phần ở phía trước là Ý chí, và phần hỗ trợ cho phần ở phía trước là Lợi ích. Khi người ta nói về Ông Chủ, họ chỉ chăm chăm nói về phần Lợi ích của ông. Và sau khi Ông Chủ chết, chính là phần Lợi ích này sẽ khiến mọi người ầm ĩ lên tranh nhau chiếm phần. Không ai muốn phần Ý chí, vì không ai hiểu được nó. Ở đây chúng ta thấy được ý nghĩa thật sự của những gì có thể và không thể sẻ chia. Ý chí không thể sẻ chia. Nó hoặc sẽ được chuyển giao hoàn toàn, hoặc mất đi hoàn toàn.”

Ngón tay người đàn ông tiếp tục gõ nhẹ nhịp điệu chậm rãi ấy trên lòng. Ngoài điều đó ra, mọi thứ ở ông ta vẫn giữ nguyên không thay đổi từ đầu. Vẫn cái nhìn chằm chằm ấy, vẫn đôi con ngươi lạnh băng, vẫn bộ mặt nhẵn nhụi, vô cảm ấy. Bộ mặt quay về phía tôi với cùng góc độ trong suốt quãng thời gian.

“Cái ý chí này là như thế nào?”, tôi hỏi

“Một khái niệm điều khiển thời gian, điều khiển không gian, và điều khiển khả năng.”

“Tôi không hiểu.”

“Tất nhiên, chỉ vài người hiểu. Chỉ có Ông Chủ là hiểu nó một cách gần như bản năng. Người ta thậm chí có thể nói ông ấy phủ nhận sự tự nhận thức, do đó ông nhận ra ở cùng một sự việc một điều gì đó hoàn toàn mang tính cách mạng. Nói đơn giản cho cậu hiểu, cuộc cách mạng của ông ấy là một cuộc cách mạng lao động sáp nhập tư bản và tư bản sáp nhập lao động.”

“Một ảo tưởng.”

“Hoàn toàn ngược lại. Chính sự nhận thức mới là ảo tưởng,” người đàn ông cắt ngang. “Cứ cho là như vậy, mọi điều tôi nói với cậu bây giờ chỉ đơn thuần là lời nói. Cho dù tôi có sắp xếp và bố trí lại chúng, tôi sẽ không bao giờ có thể giải thích cho cậu hình thức của Ý chí mà Ông Chủ sở hữu. Lời giải thích của tôi sẽ chỉ cho thấy mối liên hệ giữa bản thân tôi và cái ý chí đó thông qua liên hệ trên bình diện ngôn từ. Sự phủ nhận nhận thức vì thế tỷ lệ với sự phủ nhận ngôn ngữ. Và khi hai cột trụ của chủ nghĩa nhân văn phương Tây, nhận thức cá nhân và tính liên tục biến hóa, mất đi ý nghĩa, thì ngôn ngữ mất đi ý nghĩa. Cá thể như chúng ta vẫn biết sẽ không còn tồn tại, và tất cả trở nên hỗn độn. Con người ta thôi không còn là một thực thể độc đáo không thể lặp lại nữa, mà tồn tại đơn thuần như một hỗn độn. Và không chỉ bản thân mình là sự hỗn độn; sự hỗn độn của người này cũng chính là sự hỗn độn của người kia. Tóm lại, tồn tại là giao tiếp, và giao tiếp là tồn tại.”

Bỗng nhiên căn phòng trở nên lạnh, và tôi có cảm giác không thể diễn tả nổi là một cái giường ấm áp dễ chịu đã được chuẩn bị sẵn ở một bên cho tôi. Ai đó đang vẫy tay ra hiệu cho tôi dưới tấm chăn.

Một ảo ảnh, tất nhiên rồi. Giờ vẫn còn là tháng chín. Bên ngoài, hàng ngàn con ve sầu không đếm xuể đang kêu ra rả.

“Việc mở rộng nhận thức mà thế hệ cậu trải qua hoặc ít nhất mong muốn trải qua vào cuối thập kỷ sáu mươi kết thúc thất bại một cách trọn vẹn và hoàn toàn bởi vì nó vẫn còn bắt rễ chặt ở cá nhân. Nghĩa là, nếu chỉ cố gắng mở rộng riêng nhận thức mà thôi, không tính đến bất kỳ thay đổi nào về lượng cũng như về chất ở cá nhân, rốt cuộc tất phải thất bại. Tôi nói tầm thường là muốn nói về cái đấy. Làm sao tôi có thể khiến cậu hiểu được điều này? Không phải là tôi đặc biệt mong cậu hiểu. Chỉ là tôi đang cố gắng nói chuyện một cách thành thật…

“Về bức tranh tôi đưa cậu xem lúc trước,” người đàn ông nói. “Đó là bản một bức tranh từ hồ sơ bệnh án bệnh viện quân y Mỹ. Nó đề ngày 27 tháng Bảy, năm 1946. Bức tranh do Ông Chủ chính tay vẽ theo yêu cầu của bác sĩ. Như một mắt xích trong quá trình chứng minh bằng tư liệu các trải nghiệm ảo giác. Trên thực tế theo hồ sơ bệnh án, con cừu này xuất hiện với tần suất cao đáng kể trong ảo giác của Ông Chủ. Nói về mặt con số, con cừu xuất hiện xấp xỉ khoảng tám mươi phần trăm trong ảo giác của ông ấy, hay bốn lần trong số năm ảo giác. Mà không phải bất kỳ con cừu nào. Chính là con cừu có màu hạt dẻ với hình ngôi sao trên lưng.

“Vậy là Ông Chủ bắt đầu sử dụng con cừu này, nó được khắc trên bật lửa, như gia huy cá nhân từ năm 1936 trở đi. Tôi tin là cậu để ý thấy con cừu này giống hệt con cừu trong hồ sơ bệnh án. Mà cũng lại chính là con cừu trong bức ảnh của cậu. Kỳ lạ vô cùng, cậu có nghĩ thế không?”

“Trùng lặp đơn thuần thôi,” tôi nói vội. Tôi cố ý làm ình nghe có vẻ ngầu, nhưng không hoàn toàn thành công.

“Còn nữa,” người đàn ông tiếp tục. “Ông Chủ là một nhà sưu tập nhiệt thành tất cả các tư liệu tra cứu có thể liên quan đến cừu, trong nước hay nước ngoài. Mỗi tuần một lần, ông xem xét kỹ các bài báo cắt ra liên quan đến cừu được thu nhặt từ mọi tờ báo và tạp chí xuất bản tuần đó ở Nhật. Tôi luôn giúp ông một tay trong chuyện này. Ông Chủ nhấn mạnh tầm quan trọng của các bài báo ấy. Cứ như thể ông đang tìm kiếm một điều gì đó. Và kể từ khi Ông Chủ lâm bệnh, tôi tiếp tục cố gắng này trên bình diện cá nhân. Tôi thực tế đã rất quan tâm đến việc này. Ai biết được điều gì sẽ được làm sáng tỏ? Đó là cách cậu liên quan đến sự việc. Cậu và con cừu của cậu. Dù có nhìn nhận vấn đề dưới góc độ nào thì đây cũng không phải là một sự tình cờ.”

Tôi giữ bật lửa thằng bằng trong tay. Cảm giác ấy thật tuyệt vời. Không quá nặng; không quá nhẹ. Thử nghĩ mà xem trên đời lại có một trọng lượng hoàn hảo như vậy.

“Cậu nghĩ tại sao Ông Chủ cứ kiên quyết đi tìm con cừu đó? Co ý kiến gì không?”

“Không có ý kiến gì hết,” tôi nói. “Hỏi Ông Chủ sẽ nhanh hơn.”

“Nếu tôi có thể hỏi ông, tôi đã hỏi rồi. Ông Chủ đang trong trạng thái hôn mê đã hai tuần qua. Rất có thể ông sẽ không bao giờ tỉnh lại. Và nếu Ông Chủ chết, bí ẩn về con cừu với ngôi sao trên lưng sẽ bị chôn vùi cùng ông mãi mãi. Chắc chắn tôi sẽ không đứng nhìn và để diều đó xảy ra. Không phải vì lý do mất mát cá nhân, mà là cho lợi ích lớn hơn của mọi người.”

Tôi nghiêng mở nắp bật lửa, đánh lửa, rồi đóng nắp lại.

“Tôi chắc chắn cậu nghĩ rằng tất cả những điều tôi đang nói là một mớ vô nghĩa. Và có lẽ đúng thế. Có thể chúng đúng là hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng hãy thử nghĩ coi, đây có thể là toàn bộ những gì còn sót lại cho chúng tôi. Ông Chủ sẽ chết. Cái ý chí ấy sẽ chết. Rồi mọi thứ quanh cái ý chí ấy sẽ tàn lụi. Tất cả những gì còn lại sẽ là những gì có thể cân đo đong đếm. Không còn sót lại gì nữa. Đó là lý do tại sao tôi muốn tìm con cừu đó.”

Lần đầu tiên ông ta nhắm mắt lại vài giây, không nói gì trong chốc lát. Rồi: “Nếu tôi có thể đưa ra giả thuyết của mình – một giả thuyết và không có gì hơn, hãy quên là tôi từng nói nó nếu nó không có ý nghĩa gì với cậu – tôi không thể không cảm thấy rằng con cừu của chúng ta ở đây đã tạo nên cái khung cơ bản của Ý chí của Ông Chủ.”

“Nghe cứ như là bánh quy hình thú vật,” tôi nói.

Người đàn ông không thèm để ý đến lời bình luận của tôi.

“Rất có thể con cừu đã tìm được cách nhập vào người Ông Chủ. Đó hẳn là năm 1936. Và trong khoảng 40 năm sau đó, con cừu vẫn tiếp tục trú bên trong Ông Chủ. Bên trong đó, nó chắc đã tìm được một đồng cỏ, một rừng cây bu lô. Giống như trong bức ảnh. Cậu nghĩ sao?”

“Nột giả thuyết cực kỳ thú vị,” tôi đáp.

“Nó là một con cừu đặc biệt. Một con cừu rất đặc biệt. Tôi muốn tìm nó và vì thế cần sự giúp đỡ của cậu.”

“Vậy ông định làm gì với nó một khi ông đã tìm được nó?”

“Không làm gì cả. Có lẽ tôi không thể làm gì. Quy mô mọi chuyện quá lớn lao để tôi có thể làm bất cứ điều gì. Mong ước duy nhất của tôi là cuối cùng được tận mắt nhìn thấy nó. Và nếu con cừu đó mong muốn bất cứ thứ gì, tôi sẽ làm cho nó trong tất cả quyền hạn của mình để tuân theo ý nó. Dù thế nào đi nữa, một khi Ông Chủ qua đời, đời tôi sẽ mất đi hầu hết mọi ý nghĩa.”

Đến đó ông ta lặng thinh. Tôi cũng im lặng. Chỉ có lũ ve sầu là vẫn tiếp tục kêu. Ve sầu và lá cây trong vườn xào xạc trong làm gió lúc chạng vạng. Bản thân ngôi nhà yên lặng một cách đau đớn. Như thể mầm chết đang lơ lửng đâu đây trong sự lây lan không thể ngăn chặn nổi. Tôi cố hình dung cánh đồng cỏ trong đầu Ông Chủ. Một đồng cỏ hoang vắng và bị bỏ bê, cỏ héo úa, tất cả cừu đều bỏ đi mất.

“Tôi sẽ hỏi cậu một lần nữa: nói cho tôi nghe bằng cách nào cậu có được bức ảnh,” người đàn ông nói.

“Tôi không thể nói được,” tôi nói.

Người đàn ông thốt ra một tiếng thở dài. “Tôi đã cố nói chuyện với cậu một cách thành thật. Vì thế tôi cứ hy vọng cậu cũng sẽ nói chuyện với tôi một cách thành thật.”

“Tôi không ở vào vị thế có thể nói được. Nếu tôi nói ra có thể gây rắc rối cho người cung cấp ảnh.”

“Điều đó có nghĩa là,” người đàn ông ngắt lời, “cậu có cơ sở hợp lý để tin rằng một số rắc rối có thể sẽ đến với cái người có liên hệ với con cừu.”

“Không có cơ sở nào hết. Tôi chỉ linh cảm thôi. Nhất định phải có một cái bẫy. Tôi cảm thấy điều đó trong suốt thời gian nói chuyện với ông. Giống như có một cái cạm bẫy ở đâu đó. Gọi đó là giác quan thứ sáu.”

“Và vì thế cậu không thể nói.”

“Đúng thế,” tôi nói. Suy nghĩ thêm về tình thế, tôi tiếp tục. “Tôi thuộc loại chuyên gia gây rắc rối. Có thể nói tôi không kém cạnh ai trong cung cách và cách thức tạo nên rắc rối cho người khác. Tôi sống cả đời cố gắng hết sức tránh mọi thứ xảy đến như thế. Vậy mà rốt cuộc chỉ tạo thêm nhiều rắc rối hơn. Kết quả giống nhau cả thôi. Mọi thứ cứ đi xuống theo cách ấy. Tuy thế, dù tôi biết rồi sẽ giống nhau cả thôi thì vẫn không có gì thay đổi. Không gì trở thành như thế ngay từ đầu. Nó chỉ là cái cớ thoái thác.”

“Tôi không chắc tôi hiểu ý cậu.”

“Ý tôi là sự tầm thường có nhiều khuôn dạng.”

Tôi ột điếu thuốc lên môi, châm thuốc bằng chiếc bật lửa trên tay và nhả một hơi ngắn. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn chút ít.

“Cậu không phải nói nếu cậu không muốn,” người đàn ông nói. “Thay vào đó, tôi sẽ cử cậu đi tìm con cừu. Đây là điều khoản cuối cùng giữa chúng ta. Nếu trong vòng hai tháng kể từ bây giờ cậu tìm được con cừu, chúng tôi sẵn sàng thưởng công cậu bất cứ thứ gì cậu muốn. Nhưng nếu cậu không tìm được nó, sẽ là chấm hết cho cậu và công ty của cậu. Đồng ý chứ?”

“Tôi có lựa chọn nào khác không?” tôi hỏi. “Và điều gì sẽ xảy ra nếu ngay từ đầu con cừu với ngôi sao trên lưng chưa bao giờ tồn tại?”

“Vẫn thế thôi. Đối với cậu và tôi, chỉ có một câu hỏi: liệu cậu có tìm ra con cừu hay không. Không có khoản nửa nọ nửa kia. Xin lỗi phải nói như thế này, nhưng như tôi nói chúng tôi sẽ chấp nhận đề xuất của cậu. Cậu có bóng, cậu nên cố ghi bàn vào khung thành. Thậm chí ngay cả khi hóa ra không có khung thành nào.”

“Vậy quan điểm hiện tại là thế?”

Người đàn ông lôi từ trong túi ra một chiếc phong bì dày cộp đặt trước mặt tôi. “Hãy dùng số tiền này mà chi tiêu. Nếu hết tiền, gọi cho chúng tôi. Còn nhiều hơn từ nguồn tiền này. Cậu hỏi gì không?”

“Không hỏi gì, chỉ nhận xét thôi.”

“Gì vậy?”

“Toàn bộ câu chuyện này chắc là chuyện nực cười nhất, khó tin nhất mà tôi từng nghe. Khi thốt ra từ miệng ông, nó có vẻ thật, nhưng tôi ngờ rằng chẳng ai tin tôi nếu tôi nói cho họ biết những gì xảy ra hôm nay.”

Người đàn ông nhếch mép rất nhẹ, hầu như không thể nhận thấy. Có thể hiểu là ông ta đang mỉm cười. “Kể từ ngày mai, cậu bắt đầu vào việc. Như tôi đã nói, cậu có hai tháng kể từ hôm nay.”

“Công việc hóc búa đấy. Hai tháng có thể không đủ. Tôi muốn nói là ông đang đòi hỏi tôi tìm một con cừu từ khắp các vùng thôn quê kia đấy.”

Người đàn ông nhìn chằm chằm vào mặt tôi mà không nói gì. Khiến tôi cảm thấy như mình là một hồ bơi trống vắng. Một hồ bơi bẩn thỉu, vỡ rạn, trống vắng mà có lẽ sẽ không được sử dụng thêm một năm nào nữa. Ông ta nhìn tôi không chớp mắt suốt ba mươi giây đồng hồ. Rồi ông ta chậm rãi mở miệng.

“Đã đến lúc cậu phải lên đường,” ông ta nói.

Quả có vẻ như thế thật.

Chú thích

[1] Lâu đài trong thần thoại Bắc Âu, nơi vị thần tối cao Odin tiếp đãi linh hồn của những anh hùng tử trận.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ