Qua những phố nhỏ ngoằn ngoèo, mãi rồi họ cũng tới được bãi chợ ở trung tâm thành phố. Dọc đường họ trông thấy nhiều người bị chặt cụt một tay hoặc một chân. Đó là những tội phạm đã từng cất giấu các của cải cướp được, hoặc bọn ăn trộm. Những hình phạt mà các thống lĩnh hoặc êmia dành cho những kẻ không tuân lệnh hoặc những kẻ dám phạm vào những luật lệ mà Đấng tiên tri đã ban hành thật vô cùng thảm khốc, thậm chí chỉ vì một lỗi lầm nhỏ nhặt nào đó, thí dụ như hút thuốc lá chẳng hạn, người ta cũng sẽ bị đánh bằng roi ngựa đến bật máu tươi. Song chính các viên thống lĩnh lại chỉ chấp hành luật lệ một cách hình thức mà thôi, còn ở nhà thì họ tự cho phép mình được làm tất cả mọi thứ, nghĩa là hình phạt chỉ rơi xuống đầu người nghèo, những người bị cướp sạch sành sanh tài sản trong mỗi vụ ra tay của kẻ cầm quyền. Họ chẳng còn đường nào khác ngoài việc đi ăn mày, và vì rằng ở Omđuaman không có lương thực dự trữ, nên họ chết dần chết mòn vì đói.
Cạnh các quầy bán lương thực nhung nhúc người ăn mày.
Tuy nhiên, vật đầu tiên khiến bọn trẻ phải chú ý tới là một cái đầu người bị cắm vào một cọc tre cao, chôn chính giữa chợ. Mặt của cái đầu này đã khô quắt lại và gần như có màu đen, còn tóc và râu cằm thì lại trắng như cước. Một tên lính giải thích cho Iđrix rằng đó là đầu của tướng Goócđôn. Nghe thấy thế, Xtas thấy lòng tràn ngập một nỗi tiếc thương vô hạn, một sự phẫn nộ và ý muốn khao khát được báo thù, đồng thời một nỗi hãi hùng cũng khiến cho máu trong huyết quản của em dường như đông lại. Thế ra vị anh hùng ấy, người hiệp sĩ không hề biết sợ hãi và không một tí tì vết ấy, con người công minh và đôn hậu được yêu mến ngay ở Xuđan ấy, đã phải chết như vậy. Thế mà người Anh đã không kịp thời đến ứng cứu cho ông, rồi sau đó lại rút lui, để thi thể ông bị bêu nhục nhã, không được chôn cất theo nghi lễ Thiên Chúa giáo. Lúc này đây, Xtas mất hoàn toàn lòng tin vào người Anh. Cho tới nay, em vẫn tin tưởng một cách ngây thơ rằng, Anh quốc sẵn sàng đánh nhau với toàn thế giới nếu như bất kì một công dân nào của nước Anh bị xúc phạm, dù chỉ là điều xúc phạm nhỏ nhặt nhất. Tận đáy lòng em vẫn còn le lói chút hi vọng rằng sau cuộc truy đuổi không thành công để cứu con gái của ông Rôlixơn, hẳn là những đơn vị hùng hậu của người Anh sẽ lên đường, tiến đến tận Kháctum hoặc xa hơn nữa. Thế mà giờ đây em hiểu ra rằng, cả Kháctum cùng toàn bộ đất nước này đã lọt vào tay Mahơđi, trong khi chính phủ Ai Cập cũng như Anh quốc có lẽ chỉ nghĩ tới việc làm sao bảo vệ cho Ai Cập tránh khỏi những cuộc chia cắt tiếp tục, chứ chẳng nghĩ tới việc cứu các tù binh người Âu ra khỏi cảnh nô lệ.
Xtas hiểu được rằng em và Nen đã rơi vào một vực thẳ m không lối thoát. Những ý nghĩ đó cộng với những thực tế đầy kinh khủng mà em trông thấy trên các đường phố Omđuaman đã khiến em thất vọng đến cùng cực. Cái nghị lực mà em thường có giờ đây tạm thời nhường chỗ cho một sự cam chịu thuận theo số mệnh và sự hãi hùng khi nghĩ tới tương lai. Gần như vô vọng, em đưa mắt nhìn ngó khắp bãi chợ và các dẫy quầy hàng, nơi gã Iđrix đang mặc cả mua thực phẩm. Những kẻ buôn thúng bán bưng, chủ yếu là các phụ nữ Xuđan và đàn bà da đen, đang bày bán ở đây áo duba (tức là áo mộc làm bằng vải trắng có may thêm các mảnh vải nhiều mầu), nhự a gôm, những quả bầu đã khoét thủng, chuỗi hạt cườm thuỷ tinh, lưu hoàng và đủ mọi thảm chiếu khác nhau. Rất ít quầy bán thực phẩm và chung quanh mỗi quầy đều có đám đông vây chặt. Các tín đồ của Mahơđi mua mọi thứ, trước hết là những súc thịt trâu bò khô, thịt linh dương và hươu cao cổ, với giá cao kinh khủng. Hoàn toàn không thấy có chà là, vả, sắn và ngô. Chỉ thảng hoặc mới có người bán nước pha mật ong hoang và hạt kê ngâm trong nước cất quả tamarin1. Gã Iđrix hoàn toàn tuyệt vọng, vì hoá ra, cứ theo giá chợ hiện nay, thì chẳng mấy chốc gã sẽ tiêu sạch số tiền do mụ Phátma đưa cho để sinh sống, sau đó có lẽ chỉ còn có cách đi ăn mày mà thôi. Giờ thì gã chỉ còn hi vọng vào Xmainơ, và đó cũng là chuyện lạ, bởi vì chính Xtas cũng chỉ còn tính đến sự trợ giúp của Xmainơ mà thôi.
Một giờ sau, Nurơ En Tathin từ chỗ thống lĩnh Ápđulahi quay trở lại. Hẳn là ở đó hắn đã gặp chuyện gì đó không thật dễ chịu nên rất bực bội. Khi Iđrix hỏi xem hắn có tìm biết được thêm điều gì về Xmainơ chăng, hắn liền vặc lại ngay:
– Đồ ngốc, mày nghĩ rằng ngài thống lĩnh và tao không còn việc gì khác ngoài việc tìm Xmainơ cho mày hay sao?
– Thế bây giờ ông sẽ làm gì được cho tôi đây?
– Mày làm gì tuỳ ý mày. Tao đã cho mày ngủ đêm ở nhà tao, đã cho mày những lời khuyên quý báu, bây giờ tao không muốn thấy mặt mày nữa.
– Được thôi, nhưng tôi biết trú đêm vào đâu bây giờ?
– Tao không thèm biết.
Nói xong, hắn liền tập hợp bọn lính và bỏ đi. Iđrix chỉ còn kịp van hắn để hắn gửi số lạc đà và phần còn lại của cả đoàn, kể cả những người Ả Rậpđã nhập vào đoàn trong vùng giữa Átxuan và Vađi Hanpha, đến bãi chợ mà thôi. Mãi tới trưa những người này mới tới nơi và chẳng một ai biết là phải làm gì bây giờ. Hai tên Bêđuin bắt đầu vặc nhau với Iđrix và Ghebơrơ, bảo rằng hai tên này đã hứa với chúng một cuộc tiếp đón khác thế này, và rằng hai tên này đã đánh lừa bọn chúng. Sau một hồi lâu cãi cọ lời qua tiếng lại, bọn chúng quyết định dựng lều bằng cánh tay và cuộng kê ở cuối thành phố để có chỗ trú đêm đã, còn lại thì cứ trông cậy vào ý muốn của Đấng cứu thế và hãy chờ đợi.
Sau khi đã dựng xong lều – việc này chẳ ng mất mấy chút thì giờ đối với bọn Xuđan và da đen – tất cả bọn chúng – trừ Khamix phải ở nhà chuẩ n bị bữa ăn tối – kéo tới chỗ cầu nguyện công cộng.
Chẳng khó khăn gì không tìm ra chỗ đó, bởi hàng đoàn hàng đoàn người từ khắp thành Omđuaman cũ ng đang tấp nập kéo về ấy. Bãi đất rộng, chung quanh có hàng rào gai và một phần hàng rào bằng đất sét được đắp lên cách đấy không lâu. Giữa bãi là một bục gỗ.Đấng tiên tri sẽ bước lên bục khi muốn răn bảo mọi người điều gì. Ngay trước bục người ta đã trải những tấm da cừu ngay trên mặt đất làm chỗ dành cho Mahơđi, các vị thống lĩnh và tù trưởng danh tiếng. Hai bên cắm cờ hiệu của các viên êmia, những lá cờ phấp phới trong gió, lộng lẫy đủ màu sắc, loè loẹt như những bông hoa lớn. Bốn phía quảng trường là đội ngũ dày đặc các tín đồ.
Chung quanh là cả một rừng giáo không tính xuể, thứ vũ khí mà gần như tất cả mọi chiến sĩ đều mang bên mình.
May mắn cho Iđrix, Ghebơrơ và những người trong đoàn là họ được xem như tuỳ tùng của một vị êmia nào đó, nên có thể tiến lên hàng đầu của đám đông. Sự xuất hiện của Mahơđi được báo trước bằng những thanh âm trang trọng và trầm bổng thúc ầm ầm, tiếng lộc cộc của đá đựng trong các quả bầu khô bị lắc lên, và tiếng rú rít của còi ngà voi, tất cả trộn lẫn vào nhau thành một thứ tiếng ồn kinh khủng. Đám người bị chế ngự bởi một nỗi cuồng nhiệt khôn tả. Kẻ thì quỳ sụp xuống, kẻ thì cố hết sức hét lên: “Ôi!
Sứ giả của Thượng đế! Ôi, người chiến thắng! Ôi, người từ thiện!
Ôi, người rộng lượng!”. Cảnh đó kéo dài cho tới khi Mahơđi bước lên bụ c thuyết giáo. Khi đó chợt bao trùm một bầu không khí im lặng chết chóc, còn y đưa hai bàn tay to lớn lên ngang tai và bắt đầu cầu nguyện một hồi lâu.
Bọn trẻ đứng cách đó không xa và có thể trông thấy y rất rõ.
Đó là mộ t người vào độ trung tuần, nhưng béo kì lạ, dường như bị nứt trương ra vậy, người gần như da đen. Vốn có cặp mắt rất tinh tường, Xtas nhận thấy mặt y cũng xăm chàm. Một tai y đeo một cái vòng lớn làm bằng ngà voi. Y mặc một cái áo duba màu trắng, đầu đội mũ chỏm trắng, chân đi đất, vì khi bước lên bục y đã tụt đôi hài đỏ ra để cạnh tấm da cừu, chỗ mà sau đó y sẽ cầu nguyện.
Trong các thứ trang phục của y không có một chút nào phong lưu cả. Chỉ thỉnh thoảng gió mang lại mùi hương khuynh diệp bốc lên từ ngườ i y, thứ mùi được các tín đồ hít lấy hít để và hấp háy mắt ra chiều khoái trá. Nói chung Xtas tưởng tượng hoàn toàn khác về vị tiên tri khủng khiếp này, kẻ cướp bóc và giết chóc ngần ấy ngàn người, nên giờ đây, khi nhìn bộ mặt bự mỡ, với cái nhìn có vẻ hiền lành, với cặp mắt nhoà lệ và nụ cười như được gắn vào miệng của y, em không thể không ngạc nhiên. Em cứ nghĩ rằng một kẻ như thế phải mang trên hai vai một cái đầu linh cẩu hay đầu cá sấu, thế mà giờ đây, em lại thấy trước mắt mình một quả bí ngô béo phị, giống hệt những bức tranh vẽ hình trăng tròn.
Song vị tiên tri đã bắt đầu rao giảng. Cả hai đều nghe rõ tiếng nói sâu thẳm và lanh lả nh của y, mỗi lời đều vang đến tận tai các tín đồ. Đầu tiên y nói về những hình phạt mà Thượ ng đế dành cho những kẻ không chịu tuân theo các luật lệ của Mahơđi, mà cứ giấu giếm của cải cướp được, cứ uống rượu mêrixa, ăn cắp, hút thuốc, tha thứ cho kẻ thù trong khi chiến đấu. Vì tất cả những tội lỗi ấy, đức Ala đã gửi xuống cho những kẻ phạm tội nạn đói và thứ bệnh dịch khiến cho mặt mũi người trở thành một lát mật rỗ lỗ chỗ. Đời sống trần gian chỉ như một cái bao da thủng đựng nước mà thôi. Tài sản và lạc thú rồi cũng tan biến trong lớp cát sẽ chôn vùi người chết. Chỉ có lòng tin là giống như con bò sữa cấp cho ta dòng sữa ngọt ngào. Nhưng thiên đường chỉ mở cửa cho những người chiến thắng. Ai hi sinh vì lòng tin sẽ được phục sinh vĩnh hằng. Hạnh phúc thay, trăm lần hạnh phúc thay những người đã ngã xuống!
– Chúng con muốn được chết vì lòng tin! – Đámđông liền đáp lại bằng một tiếng kêu vang động.
Và tiếng huyên náo lại cồn lên khủng khiếp trong chốc lát.
Tiếng tù và umbai và tiếng trống lại gầm vang. Các chiến sĩ vung gươm đập vào gươm, giáo đập vào giáo. Nhiệt tình chinh chiến lan nhanh như lửa cháy. Một số kẻ thét lên: “Lòng tin sẽ chiến thắng!”, một số kẻ khác lại kêu: “Vượt qua cái chết đến với thiên đường!” Giờ đây Xtas hiểu được vì sao quân đội Ai Cập không thể chống cự nổi những bộ lạc hoang dã này.
Khi đã yên yên một chút, Đấng tiên tri lại cất lời. Y kể lại những điều y trông thấy và về sứ mạng mà y được Thượng đế giao phó. Chính đức Ala đã giao cho y phải làm cho đức tin trong sáng trở lại và truyền bá nó khắ p thế gian. Kẻ nào không công nhận y là Mahơđi, là người – chuộc – tội, kẻ đó sẽ bị tội trầ m luân. Ngày tận thế đã tới gần, nhưng trước đó, nghĩa vụ của những người kiên tín là phải đánh chiếm được Ai Cập, Mếchca và tất cả những đất nước bên kia biển lớn, nơi bọn ngoại đạo sinh sống.Đó là ý chí của Thượng đế và không gì có thể thay đổi được ý chí đó. Máu sẽ còn tuôn đổ nhiều nữa, nhiều chiến sĩ sẽ không được quay về với vợ con dưới mái lều của mình, song vinh hạnh của những người được ngã xuống thì không ngôn ngữ nào của loài người có thể tả xiết.
Rồi y vươn tay về phía những người đang tụ tập và kết thúc như sau:
– Thế nên ta, người – chuộc – tội và đầy tớ của Thượng đế, ta ban phước lành cho cuộ c chiến tranh thầ n thánh và ban phước lành cho các người, hỡi các chiến sĩ. Ta ban phước cho những nỗi nhọc nhằn của các người, nhữ ng vết thương, cái chết, ta ban phước cho chiến thắng và ta khóc cùng với các người như một người cha xiết bao yêu quý các con…
Y bật lên khóc. Tiếng kêu và tiếng ồn ào lại cồn lên khi y rời khỏi diễn đàn. Tiếng khóc lan ra mọi nơi. Bên dưới đài, hai viên thống lĩnh Ápđulahi và Ali Uled Helu, đỡ lấy tay vị tiên tri dẫn tới tấm da cừu, nơi y quỳ xuống. Trong giây phút ngắn ngủi đó, Iđrix sốt ruột hỏi Xtas xem trong số các vị êmia có mặt Xmainơ hay không.
– Không! – Cậu bé đáp lại sau khi đã hoài công dõi mắt tìm khuôn mặt quen thuộc. – Tôi không trông thấy ông ta đâu cả. Có lẽ ông ta đã chết trong khi công phá Kháctum rồi cũng nên.
Lễ cầu nguyện kéo dài rất lâu. Trong khi cầu nguyện lúc thì Mahơđi vung tay vung chân như một con nhện, khi thì lại ngước mắt đầy thành kính nhìn lên trời và thốt lên: “Người đấy! Người đấy!” Mặt trời ngả về Tây khi y đứng dậy bước về nhà. Đến lúc này, bọn trẻ mới có thể thấy hết lòng ngưỡng mộ của các tín đồ dành cho vị tiên tri, hàng đám người cuộn theo gót y, cào cấu mặt đất ở những chỗ gót chân y đặt xuống. Họ cãi nhau và đánh nhau trong khi làm việc đó, vì tin rằng thứ đất đó khiến cho người khoẻ mạnh được an toàn và chữa lành bệnh cho người đau ốm.
Bãi cầu nguyện dần dần thưa người. Iđrix cũng không biết nên làm gì, y đã định cùng với bọn trẻ và cả đoàn quay về các lều nghỉ đêm với Khamix, thì đột nhiên trước mặt hiện ra ông lão người Hy Lạp, chính cái ông lão mà sáng ấy đã cho Xtas và Nen mỗi đứa một đồng tale và một nắm chà là.
– Ta đã thưa chuyện với đức Mahơđi về các người, – ông nói bằng tiếng Ả Rập, – và Đấng tiên tri muốn gặp các người.
– Tạ ơn đức Ala và ngài, thưa quý ngài. – Iđrixbật kêu lên. – Liệu chúng tôi có gặp được ngài Xmainơ bên cạnh đức Mahơđi hay chăng?
– Xmainơ hiện đang ở Phasôđa. – Ông lão người Hy Lạp đáp. Rồi ông nói với Xtas bằng tiếng Anh:
– Có thể là Đấng tiên tri muốn bảo trợ cho các cháu, vì ta đã cố gắng khuyên Người việc đó. Ta nói với Người là quang vinh của lòng từ thiện của Người sẽ lan ra khắp các dân tộc da trắng nếu Người làm việc đó. Nơi đây đang xảy ra những chuyện khủng khiếp, thiếu sự bảo trợ của Người thì chắc chắn các cháu sẽ chết đói, chết khổ, chết bệnh hoặc chết vì tay bọn điên khùng này mất thôi. Nhưng các cháu phải chiếm cho được cảm tình của Người, điều đó tuỳ thuộc vào chính cháu đấy.
– Nhưng cháu sẽ phải làm gì, thưa ngài?
– Trước hết, khi đứng trước mặt Người, cháu phải quỳ ngay xuống, nếu Người đưa tay cho cháu, thì hãy thành kính hôn tay Người và hãy cầu xin Người cứu mạng các cháu dưới đôi cánh của Người.
Nói đến đây ông lão người Hy Lạp dừng lại và hỏi:
– Có ai trong những người này biết tiếng Anhkhông?
– Không ạ. Khamix ở lại trông lều, Iđrix và Ghebơrơ chỉ hiểu được đôi ba tiếng, còn nhữ ng kẻ khác thì không biết chút gì hết.
– Thế thì hay lắm. Cháu hãy nghe tiếp đây, vì cần phải dự liệu tất cả mọi chuyện. Mahơđi chắc sẽ hỏi cháu xem cháu có sẵn sàng chấp thuận tín ngưỡng của ông ta hay không. Cháu hãy trả lời ngay lập tức rằng có, và rằng chỉ thoáng gặp Người lần đầu thôi mà đã có một thứ ánh sáng ân phước nào đó rọi chiếu xuống cháu.
Hãy nhớ lấy: “Một thứ ánh sáng ân phước nào đó…” Câu đó sẽ khiến cho ông ta khoái chí và có thể ông ta sẽ lấy cháu vào chân muladem, tức là vào hàng những kẻ thân cận phụ c vụ ông ta. Khi đó chắc chắn các cháu sẽ sống sung túc và đầy đủ mọi thứ tiện nghi, những thứ sẽ tránh cho các cháu khỏi mắc bệnh tật… Nếu như cháu làm khác đi, sẽ nguy hiểm cho bản thân cháu, cho cô bé đáng thương này và có thể cả cho ta, người chỉ muốn điều tốt lành cho các cháu mà thôi. Cháu hiểu chưa?
Xtas nghiến chặt răng không trả lời gì hết, riêng nét mặt của em chợt sầm lại và đôi mắt tối đi. Nhìn thấy thế ông lão Hy Lạp nói tiếp:
– Ta biết, cháu bé ạ, đó là một chuyện phiền lòng, nhưng chẳng có cách nào khác đâu. Những người còn sống sót sau cuộc thảm sát ở Kháctum đều phải nhận tôn giáo của Mahơđi. Chỉ có mấy vị cố đạo Thiên Chúa đi truyền giáo và mấy nữ tu sĩ là không thuận, nhưng đó lại là chuyện khác. Kinh Coran ngăn cấm việc giết các tu sĩ, nên mặc dù số phận của họ thật là khủng khiếp, nhưng ít ra họ cũng không bị cá i chết đe doạ. Ngược lại, đối với người thường thì không có cách nào thoát chết cả. Ta nhắc lại cho cháu rõ là tất cả mọi người đều cải đạo sang đạo Hồi, cả ngườ i Đức, người Italia, người Coptơ, người Anh, người Hy Lạp, cả ta cũng…
Nói đến đây, dù Xtas đã nói chắc với ông ta rằng trong đám người không có ai biết tiếng Anh, song ông ta cũng tự nhiên hạ thấp giọng:
– Có lẽ ta không cần phải nói với cháu rằng đó không phải là một sự cải đạo, một sự phản bội, hay một tội lỗi nào cả. Trong tâm hồn của mỗi người, họ vẫn là người cũ, Chúa thấy hết… Cần phải nhẫn nhục trước bạo lực, dù chỉ là sự nhẫn nhục hình thứ c… Bổn phận của con người là phải bảo vệ cuộc sống, và sẽ là điều điên rồ, thậm chí sẽ là tội ác, nếu làm cho nó bị đe doạ. Mà để làm gì kia chứ?Để làm một chuyện hình thứ c, vì có mấy lời mà cháu có thể chửi thầm trong bụng ngay khi ấy? Cháu hãy nhớ rằng, cháu đang nắm trong tay không phải chỉ sinh mạng của bản thân cháu mà thôi, mà còn cả mạng sống của cô bạn bé bỏng của cháu đây nữa, mạng sống mà cháu không có quyền tự do định đoạt. Dĩ nhiên là thế!… Ta có thể nói chắc chắn với cháu rằng, nếu như có khi nào đó Chúa giải thoát cho cháu ra khỏi bàn tay những kẻ này, thì cháu sẽ không có điều gì phải hối hận đối với mình, mà cũng không một ai chúng ta trách cứ gì cháu, cũng như trách cứ tất cả chúng ta.
Nói thế, ông lão người Hy Lạp có thể là đang tự lừa dối lương tâm mình, nhưng sự im lặng của Xtas cũng đánh lừ a ông lão, vì ông lại ngỡ rằng em đang hoảng sợ. Ông lão bèn quyết định cổ vũ cho cậu bé thêm vững lòng. – Nhà của Mahơđi đây rồi. – ông nói. – Người thà sống trong những túp nhà gỗ như thế này ở Omđuaman còn hơn là sống ở Kháctum, mặc dù tại đó Người có thể chiếm toà lâu đài của Goócđôn. Nào, can đảm lên cháu! Chớ có sợ. Hãytrả lời các câu hỏi thật cặn kẽ. Ở đây, người ta rất trọng sự can trường.
Cũng chớ nghĩ rằng Mahơđi sẽ gầm lên như sư tử đối với cháu.
Không đâu. Người luôn luôn mỉm cười, thậm chí ngay cả khi Người đang nghĩ đến chuyện chẳng tốt lành chút nào.
Nói xong, ông bắt đầu bảo đám người đứng tụ tập trước nhà hãy tránh ra nhường đường cho”khách” của Đấng tiên tri.
——————–.
1 Cây mọc ở vùng nhiệt đới châu Phi, hiện được trồng chủ yếuở Ấn Độ, làm nguyên liệu sản xuất gia vị và làm nước ngọt, đồng thời cho gỗ tốt.
Khi họ bước vào nhà, Mahơđi đang nằm trên một chiếc đi văng mềm giữa đám vợ của y, trong số đó hai người đang phe phẩy những chiếc quạt lông đà điểu to tướng để quạt cho y, còn hai người khác đang khe khẽ gãi gãi gan bàn chân y. Ngoài đám vợ y, chỉ có mặt thêm hai viên thống lĩnh là Ápđulahi và Sêrip, vì vị thống lĩnh thứ ba là Ali Uled Helu đang dẫn quân lên phía Bắc, đến xứ Bécberơ và Abu Hammét, những xứ sở trước đó đã bị quân khởi nghĩa chiếm được. Nhìn thấy những người vào, tiên tri đẩy đám vợ ra, ngồi dậy trên đi văng. Iđrix, Ghebơrơ và hai tên Bêđuin rạp mặt xuống đất, rồi tiếp đó cứ quỳ mọp, hai tay bắt chéo trước ngực. Ông lão Hy Lạp gật đầu với Xtas ra hiệu cho em cũng làm như thế, nhưng cậ u bé giả vờ không thấy, chỉ hơi khom mình và rồi vẫn đứng thẳng người. Mặt em tái đi, nhưng mắt sáng long lanh, từ toàn bộ dáng người, từ cái ngẩng cao kiên nghị và từ đôi môi mím chặt dễ dàng nhận thấy rằng trong người em đã có một cái gì đó vượt cao lên, rằng sự do dự và lo sợ đã qua đi rồi, rằng em đã có một quyết định không khoan nhượng, không gì trên đời này có thể khiến em thay đổi quyết định đó nữa. Rõ ràng ông lão người Hy Lạp cũng nhận thấy điều đó, vì trên nét mặt ông hiện ra một nỗi lo lắng rõ rệt. Mahơđi nhìn lướt qua hai đứa bé, khuôn mặt béo nứt ánh lên nét cười thường có, rồi quay sang phía Iđrix và Ghebơrơ.
– Các người từ phương Bắc xa xôi tới đây? – Y nói.Iđrix đập trán xuống đất.
– Bẩm vâng, thưa Mahơđi. Chúng con thuộc về bộ tộc Dangan, nên chúng con đã rời bỏ nhà cửa ở Phaium để được đến quỳ dưới gót chân đầy ân phước của Người.
– Ta đã trông thấy các người đi trong sa mạc. Con đường ấy thật là khủng khiếp, nhưng ta đã phái một thiên sứ tới để cảnh giới cho các người và bảo vệ cho các người tránh khỏi cái chết từ tay những kẻ vô đạo. Các người không nhìn thấy thiên sứ đâu, nhưng chính thiên sứ đã che chở cho các người đó.
– Xin đa tạ Người, thưa Người – chuộc – tội.
– Và các người đã mang tới cho Xmainơ những đứa trẻ này để ông ta đổi lấy bọn trẻ con của ông ta, những đứa trẻ mà bọn Thổ đang giam giữ cùng cô Phátma ở Port Xaiđơ?
– Chúng con chỉ muốn được phụng sự Người thôi.
– Ai phụ ng sự ta cũng là phụ ng sự cho sự cứu rỗi của chính mình, nghĩa là các ngươi đã tự mở đường lên thiên đường đấy.
Phátma là người có họ với ta… Nhưng ta bảo thật cho các ngươi rõ, khi nào ta chiếm được toàn bộ Ai Cập, thì khi đó cô ta cùng với con cái của cô ta cũng sẽ được tự do thôi mà.
– Vậy xin Người hãy xử với bọn trẻ này theo ý người, thưa Đấng được ban phước thánh…
Mahơđi khép hai mi mắt lại, sau đó lại mở ra, mỉm cười thân thiện và gật đầu ra hiệu cho Xtas.
– Hãy lại gần đây, cháu bé.
Xtas tiến lên vài bước đầy cương nghị, như nhữ ng bước đi đều của một người lính, cúi chào lần thứ hai, rồi bật thẳng dậy như một sợi dây đàn và nhìn thẳng vào mắt Mahơđi chờ đợi.
– Các cháu có sung sướng là đã được đến với ta chăng? – Mahơđi hỏi.
– Không, thưa tiên tri. Chúng tôi đã bị bắt cóc khỏi tay cha chúng tôi, dù hoàn toàn không muốn chút nào.
Lời đáp thẳng thắn này đã gây ấn tượng, cả cho viên thủ lĩnh vốn quen với sự nịnh nọt, lẫn cho những người có mặt tại đấy.
Thống lĩnh Ápđulahinhíu mày. Ông lão Hy Lạp nhay nhay ria mép và bắt đầu bẻ đốt ngón tay, riêng Mahơđi vẫn không thôi cười mỉm.
– Thế nhưng, – y nói, – các cháu đang được ở nơi ngọn nguồn chân lí. Cháu có muốn uống nước từ ngọn nguồn ấy chăng?
Một giây im lặng, Mahơđi cho rằng cậu bé không hiểu câu hỏi bèn lặp lại rõ ràng hơn:
– Cháu có muốn tiếp thu khoa học của ta chăng?
Nghe thấy thế, cánh tay Xtas đang đặt trước ngực chợt phác lên một dấu thánh như một người từ trên một con tầu đắm sắp sửa nhảy xuống nước vậy.
– Thưa tiên tri, – em đáp, – tôi không biết thứ khoa học của Người, nên nếu tôi có thừa nhận nó thì chẳng qua cũng chỉ là sợ hãi, như một thằng hèn, như một người tồi tệ mà thôi. Liệu Người có muốn những kẻ hèn nhát và đểu cáng thu nhận học thuyết của Người?
Trong khi nó i thế, em vẫn nhìn thẳng vào mắt Mahơđi. Im lặng đến nỗi nghe rõ tiếng vo ve của đàn ruồi. Đồng thời cũng diễn ra một việc khác thường. Đó là việc Mahơđi bối rối và không tìm được ngay câu trả lời. Nụ cười biến mất trên khuôn mặt đang lộ rõ vẻ lúng túng và khó chịu. Y đưa tay với lấy quả bầu đựng nước pha mật để uống nhưng rõ ràng chỉ là để có thêm thời gian và che giấu bớt sự bối rối của mình.
Còn cậu bé dũng cảm thuộc dòng dõi những người từng bảo vệ đạo Thiên chúa, giọt máu trung thành của nhữ ng người chiến thắng ở Khôchim và thành Viên1 thì cứ đứng nguyên đấy với cái đầu ngẩng cao chờ lời tuyên án. Gò má gầy gò bị rám bởi những cơn lốc cát sa mạc dậy lên màu hồng, mắt sáng long lanh, toàn thân run lên những cơn rùng mình nhiệt thành. “Đó – em nhủ thầm – dù những ngườ i khác có thừa nhận học thuyết của y, nhưng ta, ta sẽ không chịu từ bỏ lòng tin và linh hồn”. Và nỗi lo sợ vì những điều có thể và sẽ phải nổ ra giờ đây ẩn sâu vào tim em, chỉ có niềm sung sướng và tự hào tràn ngập trong lòng.
Mahơđi đặt quả bầu xuống và hỏi:
– Nghĩa là người từ chối học thuyết của ta?
– Tôi là tín đồ Thiên Chúa như cha tôi… – Kẻ nào bịt tai không nghe tiếng nói của Thượng đế, – Mahơđi nói thong thả bằng giọng nói khác hẳn đi, – kẻ đó chỉ là củi đốt mà thôi.
Nghe thấy thế, thống lĩnh Ápđulahi, kẻ nổi tiếng vì sự dã man và hà khắc, liền nhe bộ răng trắng nhởn như một con thú dữ, cất tiếng:
– Lời nói của thằng bé này thật là ngỗ ngược, xin Người hãy trừng phạt nó, hoặc hãy cho phép tôi được trị tội.
“Bắt đầu rồi đây!” – Xtas nghĩ thầm.
Song Mahơđi vốn lúc nào cũng muốn cho niềm vinh quang về lòng từ tâm của y được truyền tụng không những chỉ trong số các tín đồ đạo Hồi mà lan ra toàn thế giới, nên y nghĩ rằng, một hình phạt quá hà khắc đối với một đứa trẻ có thể sẽ làm tổn hại đến thanh danh y.
Y lần tràng hạt một hồi lâu và suy nghĩ, rồi nói:
– Không! Những đứa trẻ này bị bắt để mang tới cho Xmainơ, nên mặc dù ta không bao giờ thương lượng gì với bọn vô đạo, cần phải gửi chúng tới chỗ Xmainơ. Đó là ý muốn của ta.
– Sẽ làm theo ý muốn của Người! – Viên thống lĩnh đáp.
Mahơđi trở tay chỉ Iđrix, Ghebơrơ và bọn Bêđuin.
– Hỡi Ápđulahi, ngươi hãy nhân danh ta thưởng cho những người này vì họ đã vượt qua một quãng đường dài và nguy hiểm để phụng sự ta và Thượng đế.
Rồi y gật đầu ra hiệu rằng buổi tiếp đã kết thúc, đồng thời ra lệnh cho ông lão Hy Lạp cũng ra về luôn. Khi đã ra đến chỗ tối trên bãi cầu nguyện, ông lão liền túm lấy tay Xtas lắc lấy lắc để vì tức giận và tuyệt vọng.
– Đồ khốn nạn! Mày đã giết chết đứa trẻ vô tội này rồi! – Ông vừa nói vừa chỉ Nen. – Mày đã giết cả mày và có thể cả tao nữa đấy!
– Cháu không thể làm khác được. – Xtas đáp.
– Mày không thể! Mày hãy nhớ rằng hai đứa chúng mày sẽ bị đày ải tiếp trên một chặng đường thứ hai còn trăm lần tồi tệ hơn chặng đường vừa rồi. Đó là chết – mày hiểu chưa? Ở Phasôđa, chỉ trong vòng một tuần, bệnh sốt rét sẽ giết chúng mày. Mahơđi biết rõ điều đó, vì thế ông ta gửi chúng mày tới chỗ Xmainơ.
– Ở Omđuaman thì rồi chúng cháu cũng chết.
– Không đúng! Chúng mày sẽ không chết trong nhà Mahơđi, trong no đủ và tiện nghi đâu! Ông ta đã sẵn sàng đón nhận chúng mày vào che chở dưới cánh. Tao biết là ông ta đã sẵn sàng. Thế là mày đã trả ơn tao hậu hĩ vì chính tao đã bệnh vực chúng mày.
Thôi, chúng mày muốn làm thế nào thì làm. Một tuần nữa Ápđulahi sẽ gửi một chuyến bưu điện bằng lạ c đà đến Phasôđa, trong tuần tới chúng mày muốn làm gì tuỳ thích. Chúng mà y sẽ không thấy mặt ta nữa đâu!…
Nói xong ông bỏ đi ngay, nhưng chỉ lát sau ông đã quay trở lại. Như mọi người Hy Lạp khác, ông vốn lắm lời, và phải nói cho thoả. Ông lão muốn trút hết cơn giận đang bừng bừng trong ngườ i lên đầu Xtas. Ông không phải là người tàn bạo và không có một tim hung dữ, tuy vậy ông muốn cậu bé phải thấm thía hơn nữa cái trách nhiệm kinh khủng mà cậu bé buộc vào cho mình khi không chịu nghe lời khuyên cùng những lời ngăn đe của ông.
– Ai cấm mày là người Thiên Chúa trong lòng, hả?
– Ông nói. – Mày nghĩ là tao không theo đạo chăng? Nhưng tao không phải là thằng ngốc. Còn mày, mày muốn phô phang cái anh hùng rơm củ a mày kia. Từ trước tới nay tao đã giúp được cho tù binh da trắng bao nhiêu việc, còn từ giờ tao không còn có thể giúp họ được nữa, vì Mahơđi đã giận tao rồi. Tất cả sẽ chết hết! Cả cô bạn tù nhỏ bé của mày cũng vậy thôi.Chính mày đã giết chết con bé. Ở Phasôđa cả đến người lớn cũng chết vì sốt rét như ruồi nữa là trẻ con. Còn nếu như chúng nó bắt bọn mày phải đi bộ theo sau ngựa và lạc đà, thì con bé sẽ gụ c ngay trong ngày đầu tiên.
Chính mày gây ra chuyện đó. Mày hãy vui sướng đi, cái đồ… Thiên Chúa giáo này!
Rồi ông bỏ đi, còn họ thì rẽ khỏi bãi cầu nguyện, qua những phố tối tăm, trở về lều. Họ đi rất lâu, vì thành phố trải dài trên một phạm vi khổng lồ. Mệt mỏi vì cố sức, vì đói, vì sợ và vì những ấn tượng kinh khủng suốt cả một ngày trời, chốc chốc Nen lại phải dừng chân. Iđrix và Ghebơrơ thúc cô bé đi nhanh hơn. Song chỉ một lát sau, chân cô bé hoàn toàn mềm nhũn. Xtas bèn bồng cô bé lên tay không chút ngần ngừ và mang đi. Dọc đường, em muốn nói với Nen, muốn thanh minh trước cô bé rằng em không thể hành động khác đi, nhưng những ý nghĩ cứ chết cứng lại trong đầu óc em, khiến em chỉ lặp đi lặp lại: “Nen! Nen! Nen!”, và siết chặt cô bé vào mình, không thể nói được gì hơn nữa. Sau vài chục bước chân, Nen đã ngủ thiếp đi vì kiệt sức trên tay em, thế là em im lặng bước đi trong sự tĩnh mịch của những phố hẻm đang ngủ yên, sự tĩnh mịch chỉ bị gián đoạn bởi câu chuyện giữa Iđrix và Ghebơrơ.
Trong tim bọn chúng tràn ngập niềm sung sướng, đó là điều may mắn cho cả Xtas, vì nếu không bọn chúng có thể sẽ trị em về tội dám đối đáp ngỗ ngược với Mahơđi. Song chúng đang bận tâm về những điều vừa được hưởng nên không thể nghĩ chuyện gì khác.
– Trước, anh cảm thấy ốm đến nơi rồi, – Iđrix nói,-nhưng được nhìn thấy Đức tiên tri anh đã khỏi bệnh hoàn toàn.
– Người giống như cây cọ trên sa mạc, như dòng nước mát lành giữa ngày nóng nực, lời của Người giống như những quả chà là chín mọng vậy. -Ghebơrơ đáp.
– Gã Nurơ En Tathin nói dối khi bảo rằng Người không cho chúng mình vào gặp. Người đã cho vào,đã ban phước lại còn ra lệnh cho ngài Ápđulahi phải ban thưởng cho chúng ta nữa chứ.
– Ngài thống lĩnh sẽ thưởng cho chúng ta rất hậu, vì ý muốn của Mahơđi là thiêng liêng.
– Tuyệt quá! Mong sao được đúng như lời ông nói, – một trong hai tên Bêđuin lên tiếng.
Và Ghebơrơ bắt đầu mơ tưởng đến hàng đàn lạc đà, súc vật có sừng, hàng đàn ngựa và hàng túi hàng túi ních đầy những đồng piaxt.
Gã Iđrix chợt khiến hắn tỉnh cơn mơ màng ấy khi cất tiếng hỏi và chỉ Xtas đang bế Nen đang ngủ say:
– Ta làm gì với con ruồi trâu và ruồi nhóc này hả?
– Ha! Ngài Xmainơ sẽ phải thưởng riêng cho chúng ta về chúng nó đấy!
– Khi mà đấng tiên tri đã nói rằng ngườ i không cho phép bất cứ một cuộc thương thuyết đổi chác nào với bọn vô đạo, thì Xmainơ chẳng dính dáng gì với chúng nó nữa đâu.
– Thế thì tôi thật tiếc là chúng nó không rơi vào tay ngài thống lĩnh, hẳn ngài ấy sẽ dạy cho thằng chó con kia biết thế nào là cất tiếng sủa chống lại chân lí và con người mà Thượng đế đã lựa chọn.
– Mahơđi rất nhân từ. – Iđrix đáp.Hắn cân nhắc một lúc lâu rồi nói:
– Dù sao, khi có hai đứa trong tay, thì ngài Xmainơ sẽ có thể chắ c chắn rằng cả bọn Thổ lẫn bọn Anh đều không thể giết con ngài và bà Phátma.
– Thế nghĩa là có thể ông ta sẽ thưởng công cho chúng ta?
– Phải. Cứ để cho chuyến bưu điện của ngài Ápđulahi mang chúng nó đến Phasôđa. Chúng ta càng thêm nhẹ gánh. Khi nào ngài Xmainơ quay trở lại đây, ta sẽ nhắc ngài về chuyện tiền nong sau.
– Anh nói thế có nghĩa là chúng ta sẽ ở lại Omđuaman?
– Lạy đức Ala! Mày chưa ngán quãng đường từ Phaium tới Kháctum hay sao? Đến lúc chúng ta phải nghỉ ngơi rồi.
Đám lều trại không còn xa nữa. Tuy nhiên, Xtas cũng đã phải chậm bước chân, vì sức em cũng đã bắt đầu kiệt. Mặc dù Nen vốn nhẹ, nhưng mỗi lúc một thêm nặng trên tay em. Bọn Xuđan, muốn nhanh được ngủ, bèn quát mắng em và bắt đầu đấm vào đầu em. Thậm chí gã Ghebơrơ còn dùng dao thích vào bả vai em đau điếng. Cậu bé chịu đựng tất cả những cái đó trong im lặng, chỉ cố tìm cách che cho cô em bé bỏng của mình, mãi cho tới khi một trong hai tên Bêđuin đẩy em mạnh đến suýt ngã em mới thốt lên với bọn chúng qua hai hàm răng nghiến chặt:
– Chúng tôi còn phải sống đến được Phasôđa nữa đấy.
Nhữ ng lời ấy khiến bọn Ả Rập dừng tay, vì chúng e sẽ phạm lệnh Mahơđi. Song điều khiến chúng phải ngừng những hành động ấy lại là vì Iđrix bỗng nhiên bị chóng mặt dữ dội, đến nỗi hắn phải tựa vào vai Ghebơrơ. Lát sau, cơn chóng mặt qua đi, nhưng tên Xuđan hoảng hốt và nói:
– Lạy đức Ala! Có chuyện không hay xảy ra với tôi rồi. Có thể tôi bị nhiễm bệnh rồi chăng?
– Anh đã được gặp Mahơđi, anh không thể nào ốm được. – Ghebơrơ đáp.
Cuối cùng bọn chúng cũng về tới khu lều. Với chút sức cuối cùng, Xtas đưa Nen đang say ngủ vàotay bà Đina. Mặc dù cũng không được khoẻ lắm song bà cũng đã sửa soạn cho cô chủ của mình một chỗ nằm êm ái. Bọn Xuđan và Bêđuin nuốt vội mỗi tên vài rẻo thịt tươi rồi lăn ngay ra chỗ nằm như những súc gỗ. Chúng không cho Xtas chút gì để ăn cả, chỉ có bà Đina dúi vào tay em một vốc ngô ngâm mà bà đã lấy bớt của lũ lạc đà. Song cậu bé chẳng còn lòng nào nghĩ đến chuyện ăn và ngủ cả.
Bởi lẽ, gánh nặng đang đè trên vai em thật quá nặng nề. Em cảm thấy rằng, khi từ chối thẳng thừng ân huệ của Mahơđi, cái ân huệ phả i đánh đổi bằng việc từ bỏ tín ngưỡng và linh hồn, em đã hành động đúng đắn; em cảm thấy rằng giá cha em biết, ông sẽ có thể tự hào và sung sướng vì hành động của em, song đồng thời em nghĩ rằng chính em đã kết liễu đời Nen, người bạn trong cảnh nô lệ, người em gái nhỏ thân thương, người mà em sẵn sàng hiến dâng cho đến giọt máu cuối cùng.
Vậy nên, khi tất cả mọi người đã ngủ say, em oà lên khóc nức nở, và nằm lăn trên một tấm nệm, em khóc rất lâu như một đứa trẻ, mà quả thật em cũng hãy còn là một đứa trẻ kia mà.
———————.
1. Khôchim hiện nay là một thành phố ở Ucraina, trước đây thuộc Ba Lan. Tại đó, năm 1621 quân Côdắc và Ba Lan, dưới sự chỉ huy của J. K.Khốtkiêvich đã mấy lần thắng quân Thổ đông hơn gấp bội, cũng tại đó, năm 1673, vua Ba Lan J.Xêbiexki cũng đã đánh tan quân Thổ. Năm 1683, quân đội liên minh của Ba Lan và các nước đồng minh đã giải vây cho thành Viên, đánh tan quân Thổ (N.D).