XIV.
“Ai?” Keating há hốc miệng kinh ngạc.
“Cô Dominique Francon.” – người hầu nhắc lại.
“Cô say rồi, đồ ngốc.”
“Ông Keating!…”
Anh đã nhổm dậy. Anh đẩy cô hầu sang một bên. Anh chạy vào phòng khách và thấy Dominique Francon đang đứng đó, trong căn hộ của anh.
“Hello Peter.”
“Dominique! Dominique, làm sao?” Trong sự giận dữ, sợ hãi, tò mò trộn lẫn với sự thoả mãn, ý nghĩ đầu tiên của anh là ơn Chúa vì mẹ anh không có nhà.
“Tôi gọi đến văn phòng anh. Họ nói anh đã về nhà.”
“Anh rất vui, thật là một sự ngạc nhiên thú vị… Ôi, quỷ tha ma bắt, Dominique, để làm gì chứ? Anh đã luôn cố gắng lịch sự với em và em luôn luôn nhìn thấu mọi việc, đến mức lịch sự với em chẳng được tích sự gì cả. Thế nên anh sẽ không làm ra vẻ một chủ nhà ân cần nữa. Em biết là anh đang ngạc nhiên về việc em đến đây không bình thường và bất cứ thứ gì anh nói có thể sẽ sai.”
“Phải, như thế tốt hơn, Peter.”
Anh nhận ra anh đang cầm một chiếc chìa khoá trong tay và anh tuồn nó vào túi áo. Anh đang đóng gói va-li để đi xa làm đám cưới với Katie. Anh liếc nhìn căn phòng và cảm thấy giận dữ vì những đồ đạc kiểu Victoria của anh trông thật thô kệch cạnh sự thanh lịch của Dominique. Cô mặc áo vest và váy màu xám, khoác ngoài một chiếc jacket lông, cổ dựng lên tới cằm. Cô đội một chiếc mũ có vành rủ. Trông cô không giống như lúc cô đứng trên bục nhân chứng, cũng không giống như anh nhớ về cô ở các bữa tiệc. Anh chợt nghĩ tới một khoảnh khắc cách đây nhiều năm, khi anh đứng trên chiếu nghỉ cầu thang bên ngoài văn phòng của Guy Francon và ước không bao giờ gặp lại Dominique. Cô đúng như lúc đó: một người xa lạ làm anh sợ hãi bởi sự trống rỗng trong suốt trên mặt cô.
“Nào, ngồi đi, Dominique. Em bỏ áo khoác ra.”
“Không, tôi sẽ không ở lâu đâu. Bởi vì hôm nay chúng ta đều không muốn giả vờ nên tôi sẽ nói cho anh biết tôi đến đây làm gì – hay là anh muốn có một cuộc nói chuyện lịch sự đã?”
“Không. Anh không muốn nói chuyện lịch sự.”
“Được rồi. Anh sẽ cưới tôi chứ, Peter?”
Anh đứng bất động. Rồi anh nặng nề ngồi xuống – bởi vì anh biết là cô hoàn toàn nghiêm túc.
“Nếu anh muốn cưới tôi” – cô nói tiếp với giọng nói chính xác và lạnh lùng – “anh phải làm ngay bây giờ. Xe ô-tô của tôi đậu bên ngoài. Chúng ta sẽ đi Connecticut rồi trở lại. Sẽ mất khoảng ba tiếng.”
“Dominique…” Anh không muốn thốt ra gì thêm ngoài tên cô. Anh muốn nghĩ rằng anh bị bại liệt. Anh biết rằng anh đang sống hoàn toàn khoẻ mạnh, rằng anh đang cố làm cho cơ bắp và đầu óc mình mụ mẫm, bởi vì anh ước gì anh không phải nghĩ.
“Peter, chúng ta không giả vờ với nhau. Thông thường, người ta sẽ bàn tới lý do và những cảm giác trước, rồi sau đó người ta sẽ sắp xếp mọi thứ. Với chúng ta, đây là cách duy nhất. Nếu tôi đề nghị với anh theo cách khác, tôi sẽ lừa dối anh. Mọi việc phải diễn ra như thế này. Không câu hỏi, không điều kiện, không giải thích. Những gì chúng ta không nói ra đã tự trả lời tất cả. Trả lời bằng cách không nói gì. Anh không phải phân vân gì cả – chỉ là anh có muốn hay không thôi.”
“Dominique” – an nói với sự tập trung mà anh có khi anh phải bước đi trên một giàn giáo trần trụi ở một công trường dang dở. “Anh chỉ hiểu mỗi thế này. Anh hiểu là anh phải cố gắng bắt chước em, không bàn luận, không nói chuyện, chỉ trả lời.”
“Đúng thế.”
“Có điều – anh không thể – không thực sự có thể.”
“Peter, đây là lúc anh không có sự bảo vệ nào đâu. Không có cái gì để trốn vào cả. Thậm chí cả ngôn từ cũng không.”
“Giá mà em có thể nói chỉ một điều…”
“Không.”
“Giá mà em cho anh thời gian…”
“Không. Hoặc là chúng ta cùng đi xuống cầu thang ngay bây giờ, hoặc là quên đi.”
“Em không được giận nếu như anh… Em chưa bao giờ cho phép anh được hy vọng là em có thể… rằng em… không, không, anh sẽ không nói… nhưng em muốn anh nghĩ gì nào? Anh chỉ ở đây một mình, và…”
“Và tôi là người duy nhất có mặt để cho anh lời khuyên. Lời khuyên của tôi là từ chối đi. Tôi đang thành thực với anh, Peter. Nhưng tôi sẽ không giúp anh bằng cách rút lại đề nghị của tôi. Anh hẳn không muốn có cơ hội được cưới tôi. Nhưng giờ anh đang có cơ hội. Ngay bây giờ. Lựa chọn là của anh.”
Đến đây, anh không thể nào giữ sự lịch thiệp được nữa; anh để đầu gục xuống, anh ấn nắm tay vào trán.
“Dominique, tại sao?”
“Anh biết lý do tại sao. Tôi đã nói với anh một lần, cách đây lâu rồi. Nếu anh không có can đảm để nghĩ đến chúng, thì cũng đừng hy vọng tôi sẽ nhắc lại.”
Anh ngồi bất động, đầu gục xuống. Rồi anh nói:
“Dominique, hai người như anh và em mà lấy nhau, nó có thể lên trang nhất các báo.”
“Phải.”
“Thế thì không tốt hơn nếu chúng ta thực hiện mọi thứ một cách tử tế, có thông báo và một lễ cưới đàng hoàng sao?”
“Tôi mạnh, Peter, nhưng tôi không mạnh mẽ đến mức ấy. Anh có thể có những cuộc tiếp tân và quảng cáo sau.”
“Em không muốn anh nói gì bây giờ, ngoài có hay không sao?”
“Phải.”
Anh ngồi nhìn cô rất lâu. Cô nhìn anh nhưng cái nhìn đó giống như cái nhìn của một bức tượng. Anh cảm thấy chỉ có một mình trong phòng. Cô đứng kiên nhẫn chờ đợi anh. Cô thậm chí còn không tử tế với anh bằng cách giục giã anh.
“Được rồi, Dominique. Có,” cuối cùng anh nói.
Cô nghiêng đầu một cách lạnh lẽo ra ý đồng tình.
Anh đứng lên.
“Anh sẽ lấy áo khoác,” anh nói. “Em có muốn đi bằng xe của em không?”
“Có.”
“Xe mui trần, đúng không? Anh có nên mặc áo lông?”
“Không. Nhưng mang theo một cái khăn quàng cổ. Trời hơi gió”
“Không hành lý gì sao? Chúng ta sẽ quay lại thành phố ngay lập tức?”
“Chúng ta sẽ quay lại ngay lập tức.”
Anh để ngỏ cửa ra hành lang và cô thấy anh mặc áo khoác, quấn khăn quanh cổ với điệu bộ của người ném một hòn đất qua vai. Anh bước khỏi cửa phòng khách, mũ cầm tay, và ra dấu bảo cô đi bằng cách lặng lẽ nghiêng đầu. Trong hành lang bên ngoài, anh ấn chuông thang máy và anh bước lùi lại để cô vào thang máy trước. Cử chỉ của anh chính xác, tự chủ, không vui mừng, hoàn toàn vô cảm. Anh có vẻ nam tính lạnh lùng hơn bao giờ hết.
Anh nắm chặt khuỷu tay cô với vẻ chiếm hữu khi họ băng qua đường tới phố cô đậu xe. Anh mở cửa xe, để cô trường vào sau tay lái và im lặng bước vào xe cô. Cô nghiêng người sang phía anh và chỉnh kính chắn gió phía bênanh. Cô nói: “Nếu anh không thích, cứ chỉnh theo ý anh, làm thế nào cho anh khỏi lạnh.” Anh nói: “Ra đường Grand Concourse, ở đấy ít đèn đỏ hơn.” Cô đặt túi xách vào lòng anh khi cô cầm tay lái và khởi động ô-tô. Bất chợt giữa họ không còn cảm giác đối đầu mà chỉ còn một cảm giác lặng lề, vô vọng của những chiến hữu, như thế họ cùng là nạn nhân của một thảm hoạ vô hình nào đó và họ phải giúp đỡ lẫn nhau.
Cô lái xe nhanh, như thói quen của cô vẫn thế. Cô giữ tốc độ đều đặn và không có vẻ vội vã. Họ ngồi yên lặng trong tiếng động cơ đều đều của xe và họ ngồi kiên nhẫn, không cử động người khi chiếc xe dừng lại ở đèn đỏ. Dường như họ bị kẹt lại trong một chuyển động đơn nhất, dưới một mệnh lệnh khẩn, giống như một viên đạn bị bắn khỏi nòng súng không thể nào dừng lại giữa chừng. Trên những đường phố của thành phố, hoàng hôn bắt đầu buông. Những vỉa hè có màu vàng. Những cửa hàng vẫn còn mở. Một rạp chiếu phim đã thắp đèn và những bóng đèn đỏ lúc lắc, cố thu nốt ánh sáng cuối cùng của ban ngày, khiến cho đường phố trông tối hơn.
Peter Keating cảm thấy không cần phải nói chuyện. Anh có vẻ không còn là Peter Keating nữa. Anh không yêu cầu sự thân mật và anh cũng không đòi hỏi sự thương hại. Anh chẳng đòi hỏi gì cả. Cô nhận ra điều đó, và cô liếc nhìn anh, cái liếc nhìn mang sự tôn trọng và gần như dịu dàng. Anh nhìn thẳng vào mắt cô; cô nhìn thấy sự thấu hiểu trong đó nhưng anh không nói gì. Cứ như thể ánh mắt anh đã nói “Tất nhiên” và chỉ thế thôi.
Họ ra khỉ thành phố. Một con đường lạnh lẽo màu vàng trải ra trước mắt họ. Anh nói:
“Cảnh sát giao thông khu này rất tệ. Em có mang thẻ nhà báo không, chỉ để phòng thôi?”
“Tôi không còn là nhà báo nữa.”
“Em không còn là cái gì?”
“Không còn là nhà báo.”
“Em bỏ việc à?”
“Không, tôi bị đuổi việc.”
“Em đang nói gì thế?”
“Mấy ngày qua anh ở đâu? Tôi tưởng mọi người đều biết.”
“Xin lỗi. Mấy ngày vừa rồi anh không theo dõi tin tức mấy.”
Một lúc sau, cô nói:
“Đưa cho tôi một điếu thuốc. Trong túi.”
Anh mở túi cô và anh nhìn thấy hộp thuốc lá, hộp phấn, son môi, lược, một chiếc khăn được gấp tư và quá trắng đến mức người ta không dám động vào. Anh ngửi thoáng thấy mùi nước hoa của cô. Từ một điểm nào đó trong người, anh nghĩ rằng điều này cũng giống như mở khuy áo của cô. Nhưng hầu hết phần còn lại của con người anh không nhận thức được ý nghĩa này cũng như quyền chiếm hữu mà anh đang dùng nó để mở túi của cô. Anh lấy một điếu thuốc khỏi hộp, châm lửa và đưa từ môi anh sang môi cô.
“Cảm ơn” – cô nói. Anh châm một điếu cho mình và đóng túi lại.
Khi họ đến Greenwich, anh là người ra lệnh. Anh bảo cô lái vào đâu, rẽ ở chỗ nào và nói “Đây rồi” khi họ đến trước cửa nhà một thẩm phán. Anh ra khỏi xe trước và giúp cô ra khỏi xe. Anh ấn chuông cửa.
Họ cưới nhau trong một phòng khách bày những chiếc ghế bành lót thảm màu xanh da trời và tím đã cũ, với một cái đèn có đính những hột thuỷ tinh quanh chụp đèn. Nhân chứng là vợ ngài thẩm phán và một người hàng xóm có tên Chuck. Anh ta bị lôi ra khỏi một công việc gì đó anh ta đang dở tay làm; người anh ta thoang thoảng mùi Clorox.[94]
Khi họ quay lại xe, Keating hỏi: “Nếu em mệt thì để anh lái xe?” Cô nói: “Không, tôi sẽ lái.”
Đường về thành phố xuyên qua những cánh đồng màu nâu; những thứ mọc trên đó đều cso một màu đỏ bợt bạt ở về phía Tây. Một vòng tròn nhập nhoạng màu tím đang ăn dần vào những bờ ruộng và bầu trời đỏ rực với một vệt mây đỏ bất động. Những chiếc xe đi ngược chiều họ trông như những khối màu nâu xỉn, vẫn còn có thể nhận ra; một số khác đã bật đèn và chỉ còn là hai đốm sáng vàng nhức nhối.
Keating nhìn con đường. Trông nó có vẻ chật hẹp; chỉ là một vệt thẳng ngay giữa kính chắn gió của xe ô-tô, hai bên là đất và đồi; tất cả đều gói gọn vào trong khung kính hình chữ nhật trước mặt anh. Nhưng con đường nở rộng ra khi khung kính chắn gió tiến về phía trước. Con đường choán lấy tấm kính, tràn ra khỏi khung kính; nó xé làm đôi để họ vượt qua và trôi về phía sau như hai dải lụa màu xám ở hai bên thành xe. Anh nghĩ đây là một cuộc đua và anh chờ chiếc kính chắn gió thắng cuộc; anh chờ thấy chiếc xe đâm vào cái vệt nhỏ trước mặt trước khi nó kịp mở rộng ra.
“Lúc đầu, chúng ta sẽ sống ở đâu?” – anh hỏi – “Nhà em hay nhà anh?”
“Nhà anh, dĩ nhiên.”
“Anh muốn chuyển đến nhà em hơn.”
“Không. Tôi sẽ chuyển khỏi nhà.”
“Em sẽ không thích nhà anh.”
“Tại sao lại không?”
Trời tối hơn và cô bật đèn pha lên. Anh nhìn những biển hiệu giao thông ở thấp hai bên đường; chúng đột ngột hiện ra dưới ánh đèn khi họ tới gần. Những tấm biển báo Rẽ trái, Chỗ người đi bộ qua đường ở phía trước. Chúng như những đốm sáng biết nghĩ, ác ý và đang nháy mắt với anh.
Họ lái xe lặng lẽ nhưng bây giờ không còn sự gắn kết trong sự yên lặng chung giữa họ. Họ không còn cùng nhau bước tới một thảm hoạ nữa; cái thảm hoạ đã qua rồi; sự dũng cảm của họ chẳng còn cần thiết nữa.
Anh cảm thấy hoang mang và bồn chồn như anh luôn cảm thấy khi có mặt Dominique Francon.
Anh quay mặt để nhìn cô. Cô nhìn đường. Khuôn mặt nhìn nghiêng của cô trong gió lạnh trông thật thanh thản, xa lạ, và đáng yêu đến mức khó chịu đựng. Anh nhìn những bàn tay đeo găng của cô đang nắm chặt lấy hai bên vô-lăng. Anh nhìn xuống bàn chân mảnh dẻ của cô ở trên bàn đạp ga, rồi mắt anh lượt lên phía đùi cô. Mắt anh dán vào cái tam giác nhỏ trên chiếc váy bó màu xám của cô. Anh chợt nghĩ rằng anh có quyền được nghĩ những gì anh đang nghĩ.
Lần đầu tiên, anh nhận thức đầy đủ và tỉnh táo về ý nghĩa của cuộc hôn nhân này. Rồi anh biết rằng anh đã luôn luôn thèm muốn người đàn bà này; rằng đấy là cảm giác mà anh dành cho một con điếm, có điều nó dai dẳng, vô vọng và hằn học. Vợ ta – anh nghĩ lần đầu tiên, và không hề cảm thấy một chút trân trọng với từ này. Anh cảm thấy một ham muốn mạnh mẽ đến mức giá là mùa hè, hẳn anh đã ra lệnh cho cô rẽ vào một con đường ngách đầu tiên và anh sẽ chiếm đoạt cô ở đó.
Anh luồn tay anh qua thành sau của ghế ngồi và ôm lấy bả vai cô. Những ngón tay hầu như không chạm vào cô. Cô không cử động, không chống cự, cũng không quay đầu nhìn anh. Anh bỏ tay ra. Anh ngồi nhìn chằm chằm về phía trước.
“Bà Keating.” Anh nói lạnh lẽo, không phải để gọi cô mà chỉ để tuyên bố một sự việc.
“Bà Peter Keating,” cô nói.
Khi họ dừng lại trước căn hộ của anh, anh bước ra và mở cửa xe cho cô; nhưng cô vẫn ngồi sau tay lái.
“Chúc ngủ ngon, Peter,”cô nói. “Tôi sẽ gặp anh ngày mai”
Cô nói thêm trước khi khuôn mặt anh biến thành một câu chửi thề tục tĩu.
chuyển mọi thứ đến và ngày mai và chúng ta sẽ bàn mọi việc. Mọi thứ sẽ bắt đầu từ mai, Peter.”
“Em đi đâu?”
“Tôi có việc cần giải quyết.”
“Nhưng tối nay anh biết nói gì với mọi người.”
“Nói gì cũng được, nếu anh muốn nói.”
Cô ngoặt xe vào dòng xe cộ và lái vụt đi.
* * *
Khi cô bước vào phòng Roark buổi tối đó, anh mỉm cười, không phải nụ cười nhẹ mang hàm ý điều anh biết sẽ xảy ra. Đấy là nụ cười hàm chứa sự chờ đợi và đau đớn.
Anh không gặp cô kể từ sau phiên toà. Cô đã rời phòng xử án sau khi làm chứng và anh đã không nghe tin gì từ cô kể từ đó. Anh đã đến nhà cô nhưng người hầu của cô nói với anh rằng Francon không thể gặp anh.
Bây giờ, cô nhìn anh và cô mỉm cười. Lần đầu tiên, đấy là dấu hiệu của sự chấp nhận hoàn toàn, như thể nhìn thấy anh đã giải quyết mọi vấn đề, đã trả lời mọi câu hỏi, và ý nghĩa của cô chỉ là ở chỗ đứng nhìn anh.
Họ đứng lặng lẽ trước mặt nhau trong một giây; và cô nghĩ những lời đẹp đẽ nhất là những lời không cần nói ra.
Khi anh cử động, cô nói: “Đừng nói gì về phiên toà. Để sau.”
Khi anh ôm cô trong tay, cô quay người để đối mặt với anh, để cảm thấy bộ ngực rộng của anh áp vào ngực cô, chân anh áp dọc chân cô, như thể cô đang nằm trên người anh; và cô thấy chân mình nhẹ bỗng; cô thấy mình đang được giữ thẳng đứng bằng cách áp vào người anh.
Họ nằm trên giường đêm đó và họ không biết họ ngủ lúc nào. Những quãng dừng của sự yên nghỉ rã rời cũng căng thẳng y như cơ thể họ quấn lấy nhau.
Buổi sáng, khi họ mặc quần áo, cô ngắm anh đi lại trong phòng. Cô nhận thấy sự buông lỏng kiệt quệ trong những cử chỉ của anh; cô nghĩ đến những gì cô đang lấy khỏi anh và sức nặng ở cổ tay cô nói với cô rằng sức mạnh của cô lúc này nằm ở trong óc anh. Như thể họ đã trao đổi năng lượng.
Anh đang ở đầu kia của căn phòng, quay lưng lại phía cô, khi cô nói:
“Roark.”
Giọng cô khẽ và thấp.
Anh quay lại nhìn cô, như thể anh đã chờ đợi điều này và có lẽ đã đoán ra tất cả.
Cô đứng giữa phòng, giống như cô đã đứng đây vào đêm đầu tiên cô đến. Người cô nghiêm trang như đang thực hiện một nghi lễ.
“Em yêu anh, Roark.”
Đây là lần đầu tiên cô nói điều này.
Cô nhìn thấy tác động của những lời cô nói lên khuôn mặt anh trước khi cô kịp nói ra.
“Em đã lấy chồng ngày hôm qua. Lấy Peter Keating.”
Sẽ dễ dàng hơn nếu như cô nhìn thấy anh cố nên một tiếng kêu, nắm chặt bàn tay và vặn vẹo nắm đấm để kiềm chế bản thân. Nhưng mọi sự không dễ dàng bởi vì cô không thấy anh làm những điều này và cô biết những việc ấy đã được thực hiện mà không có những biểu hiện cơ bắp bên ngoài.
“Roark” – cô thì thầm nhẹ nhàng, hoảng sợ.
Anh nói:
“Anh không sao đâu.” Rồi anh thêm: “Chờ một chút … Được rồi, em nói đi.”
“Roark, trước khi em gặp anh, em đã luôn sợ sẽ gặp phải một ai đó như anh, bởi vì em biết là em sẽ phải nhìn thấy những gì em đã thấy ở bục nhân chứng và em sẽ phải làm những gì em đã làm ở phòng xử án. Em đã căm ghét việc đó bởi vì việc bào chữa cho anh sẽ là một sự lăng mạ đối với anh – và đó là một sự lăng mạ đối với em khi người như anh lại cần bào chữa. Roark, em có thể chấp nhận bất cứ thứ gì, trừ một thứ mà với mọi người thì nó có vẻ thật dễ dàng: em không thể chấp nhận cái nửa vời, cái gần như, cái gần gần, cái ở giữa. Họ có thể có lý do bào chữa. Em không biết. Em không muốn tìm hiểu. Em biết đấy là thứ mà em không có khả năng hiểu. Khi em nghĩ về con người anh, em không thể chấp nhận bất cứ thực tại nào ngoại trừ một thế giới như của anh. Hoặc ít nhất là một thế giới mà ở đó anh có cơ hội chiến đấu và phải chiến đấu theo những luật lệ của anh. Nhưng điều đó không tồn tại. Và em không thể sống một cuộc sống bị giằng xé bởi những gì đang tồn tại và anh. Như thế sẽ là đấu tranh chống lại những người và những thứ không xứng đáng làm đối thủ của anh. Cuộc chiến của anh, theo luật chơi của họ – đấy sẽ là một sự báng bổ quá đáng. Làm như thế với anh cũng giống như là những gì em đã làm với Peter Keating: nói dối, tăng bốc, lảng tránh, thoả hiệp, mở đường cho sự vô lý – để có thể cầu xin họ cho anh một cơ hội, cầu xin họ để cho anh sống, để cho anh hoạt động, để cầu xin họ, Roark, chứ không phải cười nhạo họ, mà là run lên trước họ bởi vì họ có khả năng làm tổn thương anh. Có phải em quá yếu đuối khi em không thể làm điều này? Em không biết cái gì là mạnh mẽ hơn: chấp nhận những thứ này vì anh – hay là yêu anh đến mức không thể chấp nhận tất cả những thứ đó. Em không biết em yêu anh quá nhiều…”
Anh nhìn cô chờ đợi. Cô biết rằng anh đã hiểu điều này từ lâu, nhưng cô vẫn cần phải nói ra.
“Anh không hề biết đến chúng. Em thì có. Em không thể làm gì được. Em yêu anh. Sự đối nghịch này quá lớn. Roark, anh sẽ không thể thắng, họ sẽ huy diệt anh, nhưng em sẽ không ở đó để thấy điều đó xảy ra. Em sẽ huỷ diệt bản thân em trước. Đấy là hành động phản kháng duy nhất còn lại cho em. Em còn có thể làm gì cho anh? Những thứ mà người ta hy sinh thật là nhỏ bé. Em có thể cho anh cuộc hôn nhân của em với Peter Keating. Em sẽ từ chối quyền để mình hạnh phúc trong thế giới của họ. Em sẽ giành lấy đau khổ. Đấy sẽ là câu trả lời của em cho bọn họ, và là món quà của em cho anh. Có thể em sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa. Em sẽ không cố gắng gặp anh. Nhưng em sẽ sống vì anh, trong mỗi phút giây và mỗi hành động nhục nhã mà em sẽ làm, em sẽ sống vì anh theo cách của em, theo cách duy nhất mà em có thể.
Anh định cất lời nhưng cô nói:
“Khoan đã. Để em nói nốt. Anh có thể hỏi, tại sao em không tự tử đi. Bởi vì em yêu anh. Bởi vì anh tồn tại. Bản thân điều đó đã là quá nhiều, đến mức em không thể cho phép em chết. Và bởi vì em phải sống để biết rằng anh tồn tại, em sẽ sống trong cái thế giới như nó đang là, theo cách mà thế giới ấy đòi hỏi em. Nhưng không nửa vời mà hoàn hảo. Em sẽ không cầu xin hay chạy trốn khỏi nó, mà em sẽ đón đầu nó, em sẽ thắng nó ở sự khổ đau và sự suy đồi, em sẽ là người làm những thứ tồi tệ nhất với bản thân mình trước khi nó có thể làm với em. Em sẽ không làm một bà vợ của một người tử tế nửa vời nào đó mà là vợ của Peter Keating. Và chỉ có ở trong đầu óc em, ở chỗ mà không gì có thể chạm tới, sẽ là ý nghĩ về anh, về việc anh tồn tại và thỉnh thoảng em sẽ nói với mình ‘Howard Roark’, và em sẽ cảm thấy rằng em xứng đáng được nói những từ ấy.
Cô đứng trước mặt anh; mặt cô ngẩng lên; môi cô không mím chặt nhưng khép lại nhẹ nhàng; tuy thế khuôn miệng cô quá rõ nét trên mặt cô. Đấy là một khuôn miệng hàm chứa sự đau khổ, sự dịu dàng và cả sự cam chịu.
Trên mặt anh cô thấy sự chịu đựng đã trở nên già nua, như thể nó đã là một phần của anh từ lâu rồi, bởi vì anh đã chấp nhận nó, và trông nó không giống như một vết thương mới mà như một vết sẹo cũ.
“Dominique, nếu anh bảo em hãy huỷ cuộc hôn nhân đó ngay lập tức, hãy quên thế giới và cuộc chiến của anh đi – hãy đừng tức giận, đừng lo lắng, đừng hy vọng gì cả, mà chỉ tồn tại vì anh, vì anh cần em, để làm vợ anh, như tài sản của anh…?”
Anh nhìn thấy trên mặt cô những gì cô đã thấy trên mặt anh khi cô báo với anh về đám cưới của cô; nhưng anh không sợ và anh bình thản quan sát nó. Một lát sau, cô trả lời và những lời của cô không thoát ra từ môi cô, mà chúng thoát ra như thể môi cô đã thu những âm thanh đó từ bên ngoài:
“Em sẽ nghe theo lời anh.”
“Giờ thì em hiểu tại sao anh sẽ không làm thế. Anh sẽ không cố gắng ngăn em. Anh yêu em, Dominique…”
Cô nhắm mắt lại và anh nói:
“Bây giờ em hẳn không muốn nghe anh nói điều đó? Nhưng anh muốn em nghe điều đó. Chúng ta chưa bao giờ cần nói gì với nhau khi chúng ta ở bên nhau. Nhưng cái này là để cho khoảng thời gian chúng ta sẽ không ở bên nhau. Anh yêu em, Dominique. Yêu là cách ích kỷ như việc anh tồn tại. Yêu một cách ích kỷ như việc phổi của anh hít thở khí trời. Anh thở vì nhu cầu của chính anh, vì năng lượng của cơ thể anh, vì sự sống còn của anh. Anh vừa trao cho em không phải sự hy sinh hay sự thương hại, mà là cái tôi và nhu cầu trần trụi của anh. Đây là cách duy nhất mà em nên mong muốn được yêu. Đây là cách duy nhất mà anh có thể muốn em yêu anh. Nếu em cưới anh vào lúc này, anh sẽ trở thành tòan bộ sự tồn tại của em. Nhưng khi đó, anh sẽ không muốn em. Anh sẽ mong muốn bản thân anh – và như thế em sẽ không yêu anh được lâu. ‘Anh yêu em’ thì người ta phải nói từ ‘Anh’ trước đã. Sự đầu hàng mà anh có thể có được từ em sẽ chẳng mang lại cho anh cái gì ngoài một cơ thể trống rỗng. Nếu anh đòi hỏi nó, anh sẽ hủy diệt em. Đó là lý do vì sao anh không ngăn cản em đi với chồng em. Anh không biết anh sẽ sống qua buổi tối này như thế nào, nhưng anh sẽ sống. Anh muốn em trọn vẹn, giống như anh cũng trọn vẹn, khi em chiến đấu trong cuộc chiến mà em đã lựa chọn. Một cuộc chiến không bao giờ có thể thiếu cái tôi.”
Cô nghe thấy sự căng thẳng trong giọng nói của anh và cô hiểu rằng việc anh nói ra còn khó hơn việc cô phải nghe. Vì thế, cô nghe.
“Em phải học cách không sợ hãi thế giới này. Không để nó nắm giữ em như bây giờ nó đang nắm giữ em. Không để nó làm em tổn thương như nó đã làm em tổn thương ở phiên tòa. Anh phải để em tự học lấy điều đó. Anh không thể giúp em. Em phải tự tìm lấy cách của mình. Khi em đã tìm được cách, em sẽ quay lại với anh. Họ sẽ không hủy diệt được anh, Dominique. Và họ sẽ không hủy diệt được em. Em sẽ thắng, bởi vì em đã chọn con đường khó nhất để chiến đấu cho tự do của em trước thế giới này. Anh sẽ đợi em. Anh yêu em. Anh nói điều này cho tất cả những năm mà chúng ta sẽ phải chờ đợi. Anh yêu em, Dominique.”
Rồi anh hôn cô và để cô đi.