Quái Vật Ở Berlin - Chương 13: Người phụ nữ vận áo đen

Trời chiều muộn khi người phụ nữ quay trở lại căn phòng mà bà sắp xếp cho vị khách của mình, ngạc nhiên vô cùng khi ông ấy bây giờ đã có thể đứng lên, và ông đang tựa người vào chiếc bàn nhỏ cạnh giường mà ngắm nghía những chiếc đèn lồng hình quả bí. Ông ấy chìm đắm trong suy nghĩ của mình sâu đến mức không để ý đến sự hiện diện của bà, mãi cho đến khi bà đằng hắng một cái và đóng cửa phòng lại.

“Chào buổi chiều.” Ông cất tiếng, giọng trầm và khàn.

“Chào buổi chiều.” Người phụ nữ đáp lại. “Cậu dường như có vẻ rất thích thú với mấy chiếc đèn ma [1].”

“Phải. Chúng trông rất thích hợp cho lễ Halloween.” Johannes chậc lưỡi. “Nhưng tôi tin mùa lễ đó đã qua lâu rồi nhỉ?”

“Ồ, vâng, nhưng ta luôn cố gắng giữ căn nhà mình trong tinh thần Halloween, quý ông ạ.” Người phụ nữ ngâm nga, ra chiều tự hào, vừa nói vừa khoanh tay trước ngực và ưỡn thẳng lưng, làm dáng người bà càng được tôn lên dưới bộ đầm dài bó sát mà bà vẫn thích mặc. Johannes phải bật cười:

“Đúng thật là như vậy.”

“Mấy chiếc đèn này đẹp hơn nhiều khi đêm xuống.” Người phụ nữ nhấc lấy một quả bí và xoay phần mặt được đẽo khắc ngộ nghĩnh của nó ra, nhoẻn miệng cười rộng, “Càng lộng lẫy hơn khi được thắp sáng. Chiếc này trông hệt như con trai ta.”

“Ồ. Hay thật…”

Johannes bình phẩm, và ông nhướn một chân mày lên. Người phụ nữ này có chút lập dị, lập dị theo cách nền văn hóa đại chúng thường vẽ nên những câu chuyện ma, ông e là vậy, thể hiện qua khiếu hài hước của bà ấy và nội thất của căn nhà, nhưng rồi, chẳng phải ông cũng khác người như thế đó sao, và dù gì đi nữa thì ông là ai để mà phán xét? Ít nhất thì bà ấy là một người thân thiện, quá thân thiện so với vẻ ma mị của chính bản thân mình. Tinh thần này phần nào cũng khiến Johannes yên tâm, và ông cảm thấy đủ thoải mái để mà vừa nói vừa chầm chậm đi lại quanh chiếc bàn tròn. Ông chỉ thắc mắc một điều rằng dù người phụ nữ khẳng định mình là thầy thuốc, thì nơi này chẳng có lấy một vết tích của công nghệ mà những bác sỹ ngày nay thường dùng. Mặt khác, bà ấy lại sưu tầm rất nhiều cây cỏ và thảo dược, khiến cho bà ấy giống như y sỹ của một bộ lạc nào đó hơn.

Nhưng quanh đi quẩn lại, có thuộc bộ lạc nào hay không, thì vẫn thật không bình thường khi một con người đơn thuần lại có khả năng cứu sống ông ấy khỏi vết cắn chí mạng của một tên ma cà rồng lai được. Bên cạnh đó, đêm qua bà ấy cũng để lại một gợi ý khá rõ ràng.

“Nếu tôi được phép hỏi, thì bà đã bỏ gì vào thứ trà chữa thương của mình vậy?”

“Và vì sao, thưa quý ông, cậu tò mò sao?” Người phụ nữ nhướn mày lên.

“Một bệnh nhân có quyền được biết có những gì trong thuốc của mình.” Johannes nhún vai. “Thật lạ khi chẳng thấy tủ đựng thuốc hay thậm chí một hộp sơ cấp cứu nào trong nhà của một bác sỹ.”

Người phụ nữ cười điệu:

“Là trà đen, hoa khô nghiền thành bột, và một ít thảo dược. Liệu pháp thiên nhiên. Cậu trông chờ điều gì?”

“Tôi nhớ rõ loại cây mà bà nghiền pha vào trà đêm qua.” Johannes đáp lại. “Tôi đã đọc về nó. Nở về đêm, độc tính cực cao, một cánh hoa cũng đủ khả năng giết chết một con ngựa nếu ăn phải. Nó chỉ có thể biến thành thuốc giải nếu một câu thần chú nhất định được thực hiện. Một con người bình thường không thể tạo ra loại thuốc giải như vậy được, trừ phi…”

“Trừ phi?” Người phụ nữ dần thích thú.

“Trừ phi người đó được ban cho năng lực đặc biệt. Một phù thủy, có lẽ, hoặc một pháp sư.”

“Và cậu có đang cố sỉ nhục ta với mấy danh xưng đó không?” Người phụ nữ ngâm nga. “Ta biết kha khá đàn ông buộc tội phụ nữ là phù thủy chỉ để hỏa thiêu họ thôi đấy.”

Johannes phủi tay:

“Tôi không bao giờ làm chuyện như thế với một phụ nữ đáng kính cả. Tôi chỉ muốn tìm hiểu cho rõ ngọn ngành thôi.”

“Ta hiểu rồi. Và cậu cho rằng ta nắm giữ năng lượng… phép thuật?”

“Bà có thể nói như vậy.” Johannes nở một cười lười nhác có phần ngông nghênh. Người phụ nữ bật cười thành tiếng:

“Ta không nghĩ cậu lại là người tin vào phép thuật.”

“Nhớ lại thì rùng mình, nhưng tôi phải nói, rằng tôi có trải nghiệm không mấy tốt đẹp với phù thủy vào vài năm trước đây. Bản thân bà tin vào quái vật. Chẳng lẽ tôi tin vào những thứ phi thường khác lại kỳ lạ lắm sao?”

“Cuộc trò chuyện dần trở nên thú vị rồi nhỉ?” Người phụ nữ cong khóe môi, và bà rảo bước đến bên bàn. Johannes gắng sức đứng thẳng khi cả hai đối mặt, cố tiếp chuyện theo cách vui vẻ nhất có thể, nhưng cơn đau trong lồng ngực ông hẵng còn âm ỉ khiến thân ông chỉ muốn chùng xuống, và ông phải vin vào cạnh bàn để đỡ cơ thể mình lên. Vẫn đứng thẳng và tay khoanh trước ngực, người phụ nữ cười rộng, “Cậu đã luôn biết loài cây đó có độc. Vậy vì sao lại tin tưởng ta vào đêm qua, khi cậu cũng đã có thể chắc mẩm rằng ta dính líu đến tà thuật?”

“Bà đã kéo tôi khỏi trận bão tuyết đó. Nếu vận số tôi đến lúc tàn thì tôi bây giờ đã thành tro rồi.”

“Ta tin rằng không có gì qua mặt được cậu, có phải không?”

“Nói như vậy có hơi quá.” Johannes chậc lưỡi.

“Ta thấy rằng cậu cũng có suy nghĩ như ta.” Người phụ nữ nói. “Và phải, ta là phù thủy, nếu ‘phù thủy’ là từ mà cậu có thể hiểu được nhất. Năng lực này… Ta sẽ gọi nó là một ân huệ, một món quà mà ta nhận được vào ngày mình bị biến đổi, và ta đã nuôi dưỡng nó hết mình cho đến ngày nay. Dẫu vậy, ta cũng phải nói, rằng mục đích lẫn cách triển khai của ta có hơi khác so với những người đồng đạo.”

“Được diện kiến một phù thủy đã cứu giúp mình quả thực là một vinh hạnh. Thế giới bên ngoài vào ban ngày chẳng khác gì tử địa đối với chúng tôi, nếu không nhờ bà, thì tôi có lẽ đã chẳng toàn mạng.” Johannes đáp lại với một cái cúi đầu. “Tuy nhiên, vẫn còn một điều mà tôi thắc mắc.”

“Vậy mau nói ra xem nào.” Người phụ nữ nói.

“Bà kể rằng mình từng bị biến đổi, và đêm qua, bà cũng khẳng định chúng ta là đồng loại của nhau. Ấy nhưng bà lại tìm thấy tôi vào giữa ban ngày ban mặt, và việc đấy khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Liệu có khả năng nào bà là người của vùng núi Carpathia [2] không?”

“Ái chà, chà, một người hiểu biết.” Người phụ nữ chậc lưỡi. “Cậu hẳn là một học giả. Không nhiều người biết đến chủng tộc của chúng ta, ta khá hài lòng khi cậu là một người xuất chúng đấy, quý ông ạ.”

“À thì…” Johannes ngâm trong cổ họng. “Tôi có một… người bạn. Ông ấy cũng thuộc chủng tộc này, người mà nhờ đó tôi biết được mẩu thông tin quý giá kia. Một ông bạn già mà ai cũng có thể kết thân được, và thực chất, bà ít nhiều khiến tôi nhớ đến ông ấy.”

“Ta đoán đấy là một lời khen.”

“Phải.” Johannes đáp.

“Và làm thế nào mà ta lại khiến cậu nghĩ đến bạn mình?”

“Ông ấy có một lòng mến khách giống như bà, một người luôn sẵn lòng khoan dung với người khác, tuy thi thoảng có hơi nóng tính và bồng bột, nhưng trong bất kỳ hoàn cảnh túng quẫn cùng cực nào cũng thường có khuynh hướng giúp đỡ hơn là trách cứ. Và bằng một sự trùng hợp đến xuất sắc, mắt ông ấy mang một màu nhợt nhạt lạnh lẽo hệt như màu da, mà tôi có thể thấy được, rằng mắt bà cũng vậy.”

Đáy mắt người phụ nữ ánh lên khi bà nhìn vào ngọn lửa lò sưởi, soi chiếu lại bản thân mình. “Ta rất mong có dịp làm quen với người bạn này của cậu.”

“Và tôi phải cảnh báo rằng thi thoảng rất khó để chịu đựng tính trẻ con của ông ấy.” Johannes khẽ bật cười, nhưng lập tức tự dứt tiếng bởi một tràng ho khan. Người phụ nữ vội vã đến bên cạnh, vừa kịp lúc để trừng mắt trước cảnh người đàn ông kia ho ra máu thẫm vào chiếc khăn tay trắng.

“Ôi không.” Bà nói thầm.

Trời dần tối khi Johannes bị ép phải ngồi nghỉ lại trên giường. Vị thầy thuốc đun thêm một ấm trà mới, lẩm bẩm những từ ngữ kỳ lạ khi bà khuấy trà với hoa khô và lá đen, trên gương mặt bà là sự lo lắng rõ rệt. Mùi thuốc lần này nồng hơn lần trước, trên bề mặt nước nổi lên những bọt trắng cuộn tròn như mây trôi trên trời, và người phụ nữ liền rót trà ra tách.

“Cậu cảm thấy thế nào rồi?” Bà hỏi, khi Johannes đã chật vật uống xong liều trà thuốc của mình. Ông thở gấp khó nhọc và tái nhợt đi. Trông thấy một sinh vật tựa cương thi bị dày vò đến trắng bệch thật sự gây hoảng sợ vô cùng.

“Ngạt.” Johannes bật ra, giọng nói khàn, thều thào và nhiều phần vụn vỡ. “Do nọc độc gây ra, đúng không?”

“Ta e là vậy.” Người phụ nữ nói khẽ, đặt một tay lên lưng ông. Một luồng ánh sáng nhàn nhạt ánh lên từ trong lòng bàn tay bà, đem lại cho Johannes hơi ấm giữa cơn lạnh sống lưng bất chợt khiến ông run lẩy bẩy. “Nhưng đừng lo, mọi chuyện ổn cả rồi. Cơ thể cậu chỉ đang chống chọi với vài giọt cuối cùng thôi.”

“Biết vậy thật tốt.” Johannes lầm bầm.

“Cuối cùng thì thứ gì đã tấn công cậu vậy?” Người phụ nữ hỏi.

“Một con trăn… Một con trăn lớn.”

“Không thể nào.” là những gì bà ấy thốt lên. “Trăn không có nọc độc.”

“Nhưng con này thì có.” Johannes nghiến răng, nhiều phần ghê tởm. “Hắn là một tên con lai, một thứ lai căng quái đản giữa ma cà rồng và một con naga [3] nào đó.”

“Ta có đọc về bọn hỗn huyết [4], nhưng không nghĩ rằng sẽ tìm thấy chúng gần đây.”

“Hắn không phải người vùng này.” Johannes lại ho. “Có chút chuyện riêng giữa hắn và tôi cần được giải quyết.”

“Ta đoán mọi chuyện xảy ra chẳng thuận lợi.”

“Rõ ràng là vậy, nhỉ?” Johannes lại bật cười, tiếng cười buồn chứa nhiều phần vụn vỡ. Sự ủ dột, trong tích tắc, phủ lên gương mặt ông như một tấm rèm. “Chúng tôi chẳng bao giờ cùng đồng ý được chuyện gì cả. Giờ thì tôi mắc kẹt ở đây, vô dụng, trong khi hắn…”

Người phụ nữ vẫn dõi theo từng lời, chờ đợi Johannes kể nốt câu chuyện. Johannes thở một hơi dài não nề, “Hắn bắt con trai tôi đi rồi.”

“Trời ạ, không…” Người phụ nữ thầm cảm thán. “Ta rất tiếc.”

“Có cách nào để đẩy nhanh tiến trình không?” Johannes lại hỏi. Ông bắt đầu sụt sùi, mắt ông van nài xin được đi, nhưng người phụ nữ, với tất cả trách nhiệm của mình, không thể cho phép điều đó xảy ra được.

“Cậu đang hồi phục với tốc độ đáng kể rồi.” Bà ấy trấn an. “Ta không thể làm gì hơn, điều trị chớp nhoáng có thể biến thành con dao hai lưỡi mà hại ngược lại cậu vào lúc cậu ít ngờ đến nhất. Ta sẽ không bao giờ có thể tha thứ cho bản thân nếu cậu lại ho ra máu và ngã gục ngoài tuyết đâu. Sẽ tốt hơn, quý ông ạ, nếu cậu kiên nhẫn thêm một chút nữa.”

_____________________________________

[1]: Đèn ma – jack-o’-lantern, loại đèn trang trí làm từ bí ngô moi ruột và khắc hình mặt người.

[2]: Theo nhiều dị bản của truyền thuyết dân gian, ma cà rồng của vùng núi Carpathia không bị tác động dưới ánh sáng mặt trời.

[3]: Naga, hay nagini, là sinh vật truyền thuyết dạng rắn hổ mang có nguồn gốc từ Ấn Độ giáo, và cũng có thể nói là rắn lai người trong truyền thuyết nhiều nước châu Á nói chung.

[4]: Máu lai.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ