Ban ngày họ trú trong những chỗ kín, đường đi lối lại khó khăn, giữa các tảng đá và các khe đá, còn ban đêm, họ phóng đi không kịp thở, cho tới lúc vượt qua cái thác sông thứ nhất. Mãi cho tới khi, dựa trên vị trí và hình thế của các khe núi, bọn Bêđuin mới nhận thấy rằng Átxuan đã nằm lại phía sau lưng chúng, thì Iđrix mới trút được một gánh nặng. Và vì chúng đang bị thiếu nước, nên chúng bèn tiến lại gần sông ở khoảng cách nửa ngày đường. Tại đó, đêm hôm sau, sau khi cho cả đoàn ẩn kín, hắn đã phái bọn Bêđuin dẫn toàn bộ lũ lạc đà tới sông Nin cho chúng uống no nước, chuẩn bị cho một thời gian dài. Kể từ sau Átxuan trở đi, dải đất trồng trọt dọc sông Nin càng ngày càng thu hẹp lại.
Tại một đôi chỗ, sa mạc tiến đến tận bờ sông. Làng xóm nằm cách nhau xa hơn nhiều. Vì thế, bọn Bêđuin quay trở lại một cách may mắn, không bị ai trông thấy, mang theo một lượng nước dự trữ đáng kể. Chỉ còn phải nghĩ đến lương ăn, vì bọn súc vật, do bị nuôi ăn kém, nên từ một tuần nay gầy đi trông thấy. Cổ chúng dài ngoẵng ra, bướu thu nhỏ lại, chân trở nên yế u ớt. Còn ngô và lương thự c cho người có tiết kiệm lắm cũng chỉ đủ dùng được hai ngày nữa là cùng. Tuy nhiên gã Iđrix vẫn hi vọng, sau hai ngày nữa, bọn chúng sẽ có thể – nếu không ban ngày thì ban đêm – tiến đến gần một cánh đồng chăn nuôi gia súc gần sông và có thể kiếm ít lương khô và chà là trong một cái làng nào đó.
Chúng hoàn toàn không cho Xaba ăn uống, chỉ riêng bọn trẻ cố dành cho nó chút thức ăn thừa, song nó cũng tự lo được cho bản thân mình, và tại những chỗ nghỉ chân, nó thường chạy tới với cái mõm dính máu, cùng những vết cào cấu trên ức và trên cổ. Chẳng ai biết được chiến lợi phẩm của những cuộc chiến đấu ấy là chó núi, linh cẩu, cáo sa mạc hay hoẵng, song chỉ biết rằng, trông nó hoàn toàn không có vẻ quá đói khát. Thỉnh thoảng cái môi màu đen của nó lại ẩm ướt, dường như nó vừa uống nước vậy. Bọn Bêđuin đoán rằng, chắc chắn nó đã đào những cái hốc sâu dưới đáy các khe cạn, đến tận mạch nước, mà bằng khứu giác nó ngửi thấy dưới đất. Những khách bộ hành bị lạc đường cũng thường đào bới theo cách đó, và nếu như họ không đào tới được nước, thì gần như bao giờ họ cũng đào tới được lớp cát ẩm để mút lấy nó, và bằng cách đó đánh lừa cơn khát giày vò.
Ngay cả Xaba cũng có nhiều thay đổi. Ức và gáy lú c nào cũng đồ sộ, nhưng hai bên sườn thì hõm vào, nên trông nó lại càng cao hơn. Trong cặp mắt với tròng trắng đo đỏ của nó giờ đây có một vẻ gì hoang dã và dữ tợn. Đối với Nen và Xtas nó vẫn gắn bó như cũ, cho phép bọn trẻ muốn làm gì nó cũng được. Đối với Khamix, thi thoảng nó còn ve vẩy đuôi, nhưng đối với bọn Xuđan và Bêđuin khác thì nó hoặc là gầm gừ hoặc là nhe nanh, những chiếc nanh khi ấy va vào nhau như những chiếc kim thép. Iđrix và Ghebơrơ bắt đầu sợ hãi nó, và mặc công lao của con chó, chúng căm thù nó đến mức sẵn sàng giết chết nó bằng khẩu súng kíp cướp được, nếu như chúng không có ý đồ muốn đem tặng gã Xmainơ một con vật đặc biệt, và giá như không phải là chú ng đã vượt qua Átxuan.
Chúng đã qua Átxuan! Xtas cứ nghĩ mãi về chuyện đó, và dần dần một nỗi nghi ngờ, không hiểu những người đuổi theo có đuổi kịp hay không, bắt đầu len vào tâm hồn em. Thật tình em cũng biết rằng, tuy cả miền Ai Cập, đất nước kết thúc phía bên kia Vađi Hanpha, tức là sau cái thá c thứ hai, lẫn cả Nubia, cho đến nay vẫn nằm trong tay chính phủ Ai Cập, song sau Átxuan, nhất là sau thác Vađi Hanpha, cuộc đuổi bắt sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, còn những mệnh lệnh của chính phủ chỉ được thi hành một cách trễ nải. Em chỉ còn hi vọng rằng, cha em và ông Rôlixơn, sau khi tiến hành cuộ c săn đuổi từ Phaium, sẽ đáp tàu thuỷ tới Vađi Hanpha và tại đó, sau khi được chính phủ cung cấp cho những binh sĩ cưỡi lạc đà, họ sẽ cố gắng cắt ngang đường chạy về phía Nam của bọn chạy trốn. Cậu bé nghĩ rằng giá mình ở cương vị hai ông bố, cậu sẽ làm như thế, nên cậu cho những suy nghĩ của cậu là rất gần sự thật.
Tuy nhiên, em vẫn không bỏ ý nghĩ phải tự cứu lấy mình.
Muốn có thuốc súng cho khẩu súng cướp được, bọn Xuđan đã quyết định tháo mười mấy viên đạn súng săn, nên Xtas bèn bảo bọn chúng rằng chỉ có em mới biết làm việc đó, nếu như có tên nào không biết mà cứ làm liều thì đạn sẽ nổ ngay trên tay, khiến cho mất tay như bỡn. Vốn sợ những thứ không quen dùng và sợ các phát minh của người Anh, nên Iđrix bèn quyết định giao cho cậu bé làm việc đó. Xtas rất vui lòng làm việc ấy, với hi vọng thuốc súng của Anh vốn mạnh hơn, sẽ phá vỡ ngay khẩu súng kíp Ai Cập cũ kĩ trong lần bắn đầu tiên, và sau nữa em hi vọng rằng sẽ giấu được một ít đạn. Quả thực chuyện đó dễ hơn là em tưởng.
Tiếngrằng theo dõi em làm, nhưng lát sau bọn Ả Rập đã bắt đầu gẫu chuyện với nhau, và tập trung vào câu chuyện của chúng hơn là việc theo dõi. Tính lắ m lời cù ng thói cẩu thả bẩm sinh của bọn chúng đã khiến Xtas giấu được vào túi của mình bảy viên đạn cả thảy. Bây giờ chỉ cần làm sao vớ được khẩu súng nữa là đủ.
Cậu bé nghĩ rằng, sau Vađi Hanpha, nghĩa là sau cái thác thứ hai, việc đó sẽ không khó khăn lắm, vì cậu dự đoán rằng, càng gần đích thì tính cảnh giác của bọn Ả Rập sẽ càng giảm bớt đi.
Thỉnh thoảng, cái ý nghĩ phải giết bọn Xuđan và Bêđuin, thậm chí cả Khamix nữa, khiến cho cậu rùng mình, song sau khi bọn Bêđuin giết người, cậu không còn băn khoăn gì nữa. Cậu tự nhủ rằng cậu đang phải bảo vệ Nen, giành lại tự do và mạng sống cho Nen, do vậy, không cần phải đắn đo gì về tính mạng của kẻ thù, nhất là khi chúng không chịu đầu hàng, buộc em phải chiến đấu.
Song phải có khẩu súng. Xtas nghĩ cách cố đoạt lấy súng bằng mưu mẹo, và nếu như có cơ hội, em sẽ không chờ đế n tận Vađi Hanpha mà sẽ ra tay thực hiện càng sớm càng hay.
Em không phải chờ lâu.
Đã hai ngày trôi qua kể từ khi bọn họ vượt qua Átxuan, và đến sáng ngày thứ ba, Iđrix buộc phải cho bọn Bêđuin đi kiếm lương thực vì đã cạn nhẵn. Thấy số kẻ thù giảm đi, Xtas nhủ thầm: “Bây giờ hoặc là chẳng bao giờ nữa!”, và lập tức em quay lại hỏi tên Xuđan:
– Ông Iđrix, ông có biết vùng đất bắt đầu từ sau Vađi Hanpha là Nubia hay không?
– Biết chứ. Khi tao mười lăm tuổi, còn Ghebơrơlên tám, cha tao đưa chúng tao từ Xuđan tới Phaium, tao còn nhớ rằng, khi ấy, chúng tao phải đi lạc đà qua suốt miền Nubia. Nhưng vùng này khi ấy đang còn thuộc về tay bọn Thổ (Ai Cập).
– Phải, Mahơđi đang còn ở tận dưới Kháctum, và ông thấy không, gã Khamix thật là ngu ngốc khi nói với các ông rằng quân đội của những người theo đạo Hồi đã tiến tới tận Átxuan. Nhưng tôi muốn hỏi chuyện khác kia. Tôi đọc sách thấy nói là ở Nubia có rất nhiều dã thú và lắm bọn cướp không theo ai cả, chúng cướp cả người Ai Cập lẫn các tín đồ của Mahơđi. Các ông sẽ tự vệ bằng gì nếu như bọn thú dữ hoặc lũ cướp tấn công các ông?
Xtas cố tình phóng đại khi nói tới thú dữ, còn chuyện cướp bóc thì từ lúc bắt đầu chiến tranh là chuyện thường xuyên xảy ra ở Nubia, đặc biệt là ở phía Nam, tại vùng giáp giới giữa miền này với Xuđan.
Iđrix phả i suy nghĩ một lú c vì bị câu hỏi bất ngờ, quả tình từ trước tới nay y chưa nghĩ gì tới nỗi nguy hiểm mới này. Rồi y đáp:
– Chúng tao đã có dao và khẩu súng này rồi.
– Khẩu súng này chẳng được tích sự gì đâu.
– Tao biết. Khẩu súng của mày tốt hơn, nhưng chúng tao không biết bắn, còn mày thì không thể giao súng vào tay mày được.
– Ngay cả khi súng không nạp đạn à?
– Phải, vì nó có thể đã bị phù phép. Xtas nhún vai.
– Ông Iđrix này, nếu như Ghebơrơ nói chuyện đó thì tôi không lạ, còn ông, tôi cứ nghĩ ông có đầu óc hơn cơ đấy. Ngay cả Mahơđi của các ông cũng không thể bắn từ một khẩu súng không nạp đạn đâu!
– Câm ngay! – Iđrix cắt ngang một cách thô lỗ. Đức Mahơđi có thể bắn ngay cả bằng ngón tay.
– Thế thì ông thử bắn đi.
Tên Xuđan nhìn thẳng vào mắt cậu bé vẻ chăm chú.
– Tại sao mày lại muốn tao đưa súng cho mày?
– Tôi muốn dạy ông bắn khẩu súng đó.
– Thế thì mày được gì?
– Được nhiều chứ, vì nếu như bọn cướp tấn công chúng ta thì bọn chúng có thể giết không sót một ai cả. Nhưng nếu ông sợ cả khẩu súng lẫn tôi thì thôi, nói làm gì.
Iđrix im lặng. Quả thực hắn sợ, nhưng không muốn công nhận điều đó. Tuy nhiên, hắn lại rất thèm được làm quen với thứ vũ khí Anh này, vì việc sử dụng thành thạo khẩu súng sẽ nâng cao một cách đáng kể địa vị của hắn trong trại quân của bọn Mahơđi, đó là chưa kể tới chuyện, nếu có bị tấn công hắn sẽ dễ bề tự vệ hơn.
Vì vậy, sau một chút suy nghĩ, hắn nói:
– Thôi được. Khamix hãy đưa súng đây, còn mày thì lấy nó ra đi.
Khamix thi hành lệnh với vẻ vô tình, còn tên Ghebơrơ thì không thể chống lại lệnh này được vì hắn đang bận việc cách đấy một quãng, bên cạnh bọn lạc đà. Tay run run, Xtas lấy báng súng rồi nòng súng ra khỏi bao, đưa cho Iđrix.
– Ông thấy không, nòng súng trống rỗng nhé. – Cậu bé nói.
Iđrix cầm lấy hai nòng súng và nhìn xuyên suốt qua lỗ nòng hướng lên trời.
– Phải, trong này không có gì cả.
– Bây giờ ông chú ý nhé, – Xtas nói, – lắp súng như thế này này (vừa nói em vừa lắp hai nòng vào báng), còn tháo như thế này.
Ông hiểu chưa? Tôi tháo ra một lần nữa, bây giờ ông hãy tự lắp đi…
Chăm chú hết sức theo dõi động tác của Xtas, tên Xuđan bắt đầu tập làm quen. Ban đầu hắn không thể dễ dàng làm được ngay, nhưng vì người Ả Rập nói chung thường rất khéo léo, nên chỉ lát sau khẩu súng đã được lắp hoàn chỉnh.
– Tháo ra! – Xtas ra lệnh.
Iđrix dễ dàng tháo khẩu súng.
– Lắp lại! Việc này còn dễ hơn. – Bây giờ ông hãy đưa cho tôi hai cái các tút rỗng.Tôi sẽ bảo ông cách lắp đạn.
Bọn Ả Rập giữ rất cẩn thận các vỏ đạn đã tháo ra, vì đối với chúng đồng đỏ có giá trị. Iđrix đưa cho Xtas hai cái vỏ đạn và bài học lại tiếp tục.
Thoạt đầu, tên Xuđan cũng hoảng hồn vì tiếng va đập của những chiếc vỏ đạn nhưng hắn nhanh chóng hiểu ra rằng, không một ai có thể bắn được đạn ra từ một cái nòng rỗng cũng như từ một vỏ đạn rỗng cả. Lòng tin của hắn đối với Xtas lại trở lại còn bởi vì cứ chốc chốc cậu bé lại đưa súng vào tay hắn.
– Được rồi. – Xtas nói. – Ông đã biết lắp, biết mở, biết đóng và biết áp má cũng như bóp cò. Nhưng cần phải học ngắm nữa. Đó là việc khó nhất. Ông hãy cầm lấy cái bầu nước rỗng kia, đặt cách xa một trăm bước chân.. kia, lên trên những tảng đá kia, rồi quay lại đây, tôi sẽ bảo ông cách ngắm ra sao.
Iđrix cầm lấy cái bầu và không một chút ngần ngại bước đi để đặt bầu nước lên những tảng đá đã được chỉ. Nhưng trước khi hắn kịp bước một trăm bước đầu tiên. Xtas đã tháo những cái vỏ đạn rỗng và thay những viên đạn đầy thuốc vào chỗ của chúng.
Không chỉ trái tim mà mạch máu trên thái dương em cũng đập mạnh đễn nỗi em ngỡ như sắp bung vỡ ra đến nơi. Giây phút quyết định đã điểm – giây phút tự do cho Nen và cho bản thân em – giây phút chiến thắng – giây phút vừa kinh khủng vừa mong mỏi biết bao nhiêu!
Mạng sống của tên Iđrix đã nằm trong tay em. Chỉ một cái kéo nhẹ cò súng là tên bội phản kia, kẻ đã bắt cóc Nen sẽ ngã vật xuống chết. Nhưng Xtas, người mang trong mình dòng máu Ba Lan và dòng máu Pháp, bỗng cảm thấy rằng không một thứ gì trên đời có thể khiến em bắn được vào cái con người đang quay lưng lại. Ít nhất cũng hãy để hắn quay mặt lại để hắn nhìn thẳng vào cái chết. Còn sau đó thì sao? Sau đó gã Ghebơrơ sẽ lao tới, nhưng trước khi hắn kịp chạy tới mười bước chân, thì răng hắn cũng ngập bụi đất rồi. Chỉ còn lại mỗi mình Khamix thôi. Nhưng Khamix cũng sẽ sợ mất hồn, mà dù cho hắn không mất hồn đi nữa, Xtas cũng kịp đẩy thêm những viên đạn mới vào nòng súng.
Khi bọn Bêđuin quay trở lại, chúng sẽ gặp ba cái xác chết và chính chúng cũng sẽ được hưởng cái mà chúng đang được hưởng. Rồi sau đó, chỉ cần hướng lạc đà ra tới bờ sông là đủ.
Tất cả những ý nghĩ cùng những hình ảnh này như một cơn lốc vụt qua đầu óc Xtas. Em cảm thấy cái điều mà vài phút nữa sẽ xảy ra vừa kinh khủng lại vừa cần thiết. Trong ngực em, niềm hãnh diện của người chiến thắng trộn lẫn với cảm giác ghê tởm đối với sự chiến thắng. Có lúc, em đã do dự, song nhớ lại những nỗi đau khổ mà các tù binh da trắng phải chịu đựng, nghĩ đến cha, đến ông Rôlixơn, đến Nen, đến tên Ghebơrơ, kẻ đã dùng roi quật vào cô bé, thì lòng căm thù lại bùng lên trong lòng em với một sức mạnh mới. “Cần phải thế! Cần phải thế!”. – Em nghiến răng tự nhủ và lòng quyết tâm không gì lay chuyển nổi thể hiện trên mặt em, khiến cho nét mặt em như được tạc bằng đá. Trong khi đó, Iđrix đã đặt được cái bầu lên trên một tảng đá cách đó trăm bước và quay trở lại. Xtas nhìn rõ nét mặt hớn hở của hắn và toàn bộ thân hình cao lênh khênh trên mặt bằng bằng phẳng đầy cát. Lần cuối cùng, em vụt nghĩ rằng chính cái con người đang sống này chỉ lát nữa thôi sẽ gục xuống mặt đất và những ngón tay sẽ cào cấu mặt cát trong cơn giãy chết cuối cùng. Nhưng cậu bé không còn do dự nữa và khi Iđrix bước được năm mươi bướ c, em từ từ nâng súng lên ngang mắt.
Song trước khi ngón tay em chạm vào cò súng, từ phía bên kia đống lở tích cách đó chừng vài trăm bước chân, chợt nghe thấy tiếng hò reo vang dậy, và ngay lúc đó, chừng hai mươi kị sĩ cưỡi ngựa và lạc đà xuất hiện. Nhìn thấy chúng, Iđrix sững ra như hoá đá. Xtas cũng ngạc nhiên không kém, nhưng sự kinh ngạc của em nhanh chóng nhường chỗ cho niềm vui sướng như điên. Đây rồi, những người đuổi theo mà em ngóng trông bấy lâu nay! Phải!
Không thể khác! Rõ ràng là trong làng người ta đã tóm cổ được bọn Bêđuin và bọn chúng đã chỉ nơi ẩn náu của những tên còn lại. Bản thân Iđrix cũng nghĩ như vậy, tên này, sau khi hơi định thần, liền chạy tới Xtas với bộ mặt nhợt nhạt vì kinh hoàng và quỳ sụp xuống chân em bắt đầu lặp đi lặp lại bằng giọng hổn hển:
– Ông chủ ơi, tôi vẫn đối xử tốt với ông mà! Tôi vẫn đối xử tốt với cô bé mà, ông chủ hãy nhớ cho điều ấy!…
Xtas tự nhiên tháo đạn ra khỏi nòng súng. Em nhìn. Đám kị sĩ phóng hết sức trên những con ngựa và lạc đà, vui sướng thét lên và tung bổng lên không trung những khẩu súng hoả mai Ả Rập dài ngoẵng rồi lại tóm bắt lấy chúng trong đà phi với một sự khéo léo phi thường. Trong bầu không khí trong suốt, sáng rõ có thể nhìn thấy họ hết sức rõ ràng. Ở giữa, dẫn đầu đoàn là hai tên Bêđuin đang vừa phóng như bay vừa huơ tay và áo choàng như những thằng rồ.
Chỉ mấy phút sau cả bọn đã xông tới phía toán người. Một số kị sĩ nhảy xuố ng khỏi ngựa và lạc đà, một số vẫn ngồi nguyên trên yên và vẫn không ngừng kêu thét. Trong những tiếng kêu thét đó chỉ có thể phân biệt được hai tiếng:
– Kháctum! Goócđôn! Goócđôn! Kháctum!…
Mãi sau, một trong hai tên Bêđuin – chính là tên được thằng đồng bọn gọi là Abu Anga lao đến chỗ Iđrix đang rúm người dưới chân Xtas và kêu lên:
– Kháctum chiếm được rồi! Goócđôn bị giết rồi!
Mahơđi chiến thắng! Iđrix bật dậy, nhưng vẫn chưa tin vào tai mình.
– Thế còn những người này? – Y hỏi bằng đôi môi run run.
– Những người này lẽ ra phải bắt chúng ta thì bây giờ sẽ đi cùng chúng ta tới chỗ Đấng tiên tri. Xtas tối sầm mắt lại…
Quả thực, tia hi vọng cuối cùng về việc trốn thoát trong khi đi đường thế là đã bị tắt ngấm. Giờ đây, Xtas hiểu rằng, các mưu của em chẳng thể mang lại điều gì nữa, rằng cuộc đuổi theo sẽ không bao giờ đuổi kịp, và dù các em có chịu đựng nổi những khó nhọc trên đường thì cũng sẽ phải đi tới tận chỗ Mahơđi và sẽ bị nộp vào tay Xmainơ. Em chỉ còn một điều an ủi, đó là ý nghĩ rằng các em bị bắt cóc chẳng qua là để đánh đổi lấy những đứa con của gã Xmainơ. Nhưng liệu bao giờ chuyện đó sẽ xảy ra và trước đó các em sẽ phải gặp những chuyện gì? Tai ương khủng khiếp nào đang chờ các em giữa các bộ tộc hoang dã đang say máu người? Liệu Nen có chịu đựng nổi tất cả khó nhọc và thiếu thốn ấy? – Điều này không một ai có thể trả lời. Ngược lại, chỉ biết rằng, Mahơđi và những tín đồ của hắn rất căm thù những người Thiên Chúa giáo nói riêng và người Âu nói chung. Vì vậy, trong lòng cậu bé dậy lên nỗi lo sợ, không hiểu thế lực của gã Xmainơ có đủ để bảo vệ cho cả hai tránh khỏi những điều nhục mạ, sự tàn ác và điên dại của các tín đồ của Mahơđi, những kẻ đã giết hại ngay các tín đồ Hồi giáo trung thành với chính phủ? Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt cóc, Xtas chìm trong một nỗi tuyệt vọng sâu thẳm, đồng thời em ngả theo một suy nghĩ mê tín, cho rằng em bị một thứ hung mệnh nào đó dõi theo ám ảnh. Vì nói cho cùng, ngay cả cái ý đồ bắt cóc các em từ Phaium rồi mang đến tận Kháctum cũng đã là một sự điên rồ hoàn toàn, sự điên rồ mà chỉ những kẻ hoang dại và ngu xuẩn như Iđrix và Ghebơrơ mới dám làm, bởi bọn chúng không hiểu rằng chúng sẽ phải vượt qua hàng nghìn cây số trên chính vùng đất thuộc về chính phủ Ai Cập, hay nói cho đúng hơn là thuộc về người Anh. Nhẽ ra chúng đã bị bắt ngay ngày hôm sau, ấy thế mà mọi sự lại sắp xếp thế nào để đến nỗ i giờ đây chúng đã đến rất gần cá i thác thứ hai mà chẳng có cuộc săn đuổi nào tóm được, còn những kẻ săn đuổi này thì lại nhập bọn với chúng và sẽ là lực lượng hỗ trợ chúng. Cộng thêm vào sự tuyệt vọng và nỗi lo sợ cho số phận của cô bé Nen, là cảm giác nhục nhã, bởi Xtas nghĩ rằng em không thể làm một việc gì để cứu vãn tình thế, và hơn thế nữa, em không còn có thể nghĩ ra được cách gì khác, bởi giá như bây giờ bọn kia có đưa cho em khẩu súng săn và đạn thì em đâu có thể khống chế nổi toàn bộ bọn Ả Rập đang hợp thành đoàn này.
Những ý nghĩ ấy giày vò em nhiề u hơn nữa còn bởi lẽ sự giải thoát tưởng đã gần đến thế kia mà! Giá như Kháctum không bị chiếm, hoặc bị chiếm chậm đi vài ngày, thì chính những người giờ đây chạy sang phía Mahơđi chắc chắn sẽ tóm bọn kia và nộp chúng vào tay chính phủ rồi. Ngồi trên lưng lạc đà sau lưng Iđrix và lắng nghe những lời trò chuyện của bọn chúng, Xtas tin rằng mọi chuyện đã có thể diễn ra đúng như thế. Bởi vì, ngay sau khi tiếp tục lên đường, viên chỉ huy toán săn đuổi bắt đầu kể cho Iđrix nghe nguyên do nào đã khiến bọn chúng phản bội lại phó vương.
Trước đó, chúng được biết rằng, đại quân không phải là quân Ai Cập nữa mà là quân Anh – đã lên đường xuống miền Nam chống lại bọn phiến loạn, dưới sự thống lĩnh của tướng Vônxơlây. Bọn chúng trông thấy nhiều tàu thuỷ chở lính Anh hùng hổ từ Átxuan tới Vađi Hanpha. Tại đó, người ta đã xây dựng riêng cho họ một con đường sắt đi tới Abu Hammét. Suốt một thời gian dài, các tù trưởng ven bờ sông – cả những người hãy còn trung thành với chính phủ lẫn những kẻ trong thâm tâm đã ủng hộ Mahơđi – vẫn tin rằng sự thất bại của những kẻ theo đạo Hồi và đấng tiên tri của chúng là không thể tránh khỏi, bởi chưa hề có kẻ nào chiến thắng nổi người Anh.
– Lạy đức Ala! – Iđrix ngắt lời, đưa hai tay lên trời. – Ấy thế mà bọn chúng đã bị đánh bại.
– Không, – viên toán trưởng đáp lại, – Mahơđi phái các bộ lạc Zanô, Bacbara và Đazim đi chống lại người Anh, tổng cộng chừng ba mươi nghìn người lính thiện chiến nhất, do Muxa, con trai của Heluthống lĩnh. Ở gần Abu Klêa đã diễn ra một trận đánh khủng khiếp, trong đó Thượng đế cho bọn vô thần chiến thắng.
– Chính vậy, Muxa, con trai của Helu, tử trận, chỉ có một nhúm binh lính của ông ta quay lại với Mahơđi. Linh hồn của những người khác đã ở trên thiên đàng, còn xác họ nằm trong cát chờ ngày phục sinh. Tin tức về chuyện đó nhanh chóng lan ra khắp vùng sông Nin. Khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng người Anh chắc sẽ tiến xa hơn nữa về phía Nam và giải vây cho Kháctum. Ai ai cũng nói: “Kết cục! Kết cục rồi!” Trong khi đó, Thượng đế đã an bài cách khác.
– Hả? Sao vậy? – Iđrix hỏi một cách nóng ruột.
– Sao vậy? – Viên chỉ huy nói, mặt rạng ngời. Vì trong lúc đó đức Mahơđi đã lấy được thành Kháctum, Goócđôn bị chặt đầu trong cuộc tiến công thành. Mà người Anh lại chỉ lo cho Goócđôn là chính, nên sau khi biết tin ông ta bị chết, họ bèn quay trở về phương Bắc. Lạy đức Ala! Thế là chúng tôi lại thấy bao nhiêu tàu thuỷ chở những người lính to lớn xuôi dòng sông, song chúng tôi không hiểu điều đó có nghĩa thế nào. Người Anh chỉ loan tin tốt, còn tin xấu thì họ giấu đi. Một số trong chúng tôi bảo rằng đức Mahơđi đã bị qua đời. Nhưng cuối cùng sự thật cũng ra ánh sáng.
Vùng đất này hiện hãy còn đang thuộc về chính phủ. Tại Vađi Hanpha và xa hơn nữa, cho tới cái thác thứ ba, mà cũ ng có thể cho tới tận thác thứ tư, cũng hãy còn binh lính của phó vương, nhưng giờ đây, khi người Anh đã tháo lui, chúng tôi tin rằng, đức Mahơđi sẽ đánh chiếm không những chỉ toàn bộ Nubia và Ai Cập, không những chỉ Mếchca và Mêđinét, mà còn đánh chiếm toàn thế giới.
Vì vậy, thay việc bắt các anh và nộp vào tay chính phủ,chúng tôi cùng đi với các anh tới gặp Đấng tiên tri.
– Thế nghĩa là đã có lệnh bắt chú ng tôi?
– Lệnh được gửi tới mọi làng, mọi tộc trưởng, mọi đơn vị quân đội. Nơi nào không có sợi dây đồng mang lệnh từ Cairô chạy tới thì đã có các cảnh sát tới thông báo rằng hễ ai bắt được các anh sẽ được thưởng ngay một nghìn đồng bảng. Trời ơi! Đó thật là một tài sản lớn!… Lớn lắm!…
Iđrix nghi ngờ nhìn người đang nói.
– Thế nhưng các anh lại lựa chọn ân phước của Đức Mahơđi?
– Chính thế. Thêm nữa, Người đã thu được biết bao nhiêu tiền bạc và của cải ở Kháctum, đến nỗi Người phải dùng bao đựng cỏ để đong tiền Ai Cập và chia chúng cho những kẻ trung thành với Người…
– Song nếu như binh lính Ai Cập đang còn có mặt ở Vađi Hanpha và xa hơn nữa, thì dọc đường họ có thể bắt chúng tôi.
– Không. Chỉ cần nhanh chân lên một chút, trước khi bọn chúng kịp hoàn hồn. Giờ đây, sau khi người Anh rút đi rồi, đầu óc bọn chúng hoàn toàn bị đảo lộn, cả những tộc trưởng trung thành với chính phủ, lẫn binh lính và cảnh sát. Tất cả đều đang nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa Mahơđi sẽ tới, nên những người trong số chúng tôi, mà trong thâm tâm vẫn ủng hộ Người, bây giờ công khai chạy đến với Ngườ i, chẳng bị ai đuổi theo, vì trong những giây phút ban đầu này chẳng còn ai ra lệnh và cũng chẳng ai biết nghe ai nữa.
– Đúng thế. – Iđrix đáp. – Nhưng ông đã nói đúng rằng phải mau chân lên trước khi bọn chúng kịp định thần, vì từ đây tới Kháctum hãy còn xa lắm…
Nghe trọn câu chuyện này, trong đầu Xtas lại bừng lên một tia hi vọng mỏng manh. Nếu như binh lính Ai Cập cho đến nay vẫn còn đang chiếm giữ nhiều địa điểm khác nhau dọc sông Nin ở Nubia, thì họ phải rút theo đường bộ trước sự tấn công của các bộ lạc của Mahơđi, vì tất cả các tàu thuỷ đã bị người Anh sử dụng hết. Như vậy, biết đâu đoàn này chẳng chạm trán với một trong số các đơn vị đang rút lui đó, và có thể sẽ bị bao vây. Xtas cũng tính rằng, trước khi tin tức về việc chiếm Kháctum lan ra khắp các bộ lạc Ả Rập cư trú ở vùng phía Bắc Vađi Hanpha, thì chắc hẳn phải có mất nhiều thời gian, nhất là khi chính phủ Ai Cập và ngườ i Anh giấu tin này. Do vậy, Xtas cho rằng, sự rệu rã chế ngự những người Ai Cập trong phút đầu đã qua. Cậu bé ít kinh nghiệm còn chưa hiểu rằng, dù sao đi nữa, việc mọi người phải quên đi tất cả mọi chuyện, và các vị tù trưởng trung thành với chính phủ – đồng thời cũng là chính quyền địa phương hiện tại của Ai Cập – hẳn là đang có bao nhiêu việc khác phải làm hơn là nghĩ đến việc cứu hai đứa bé da trắng.
Quả thực, những người Ai Cập nhập vào đoàn rất ít lo sợ bị đuổi theo. Họ có đi vội thật và không tiếc sức lạc đà, song họ đi ở khoảng cách rất gần sông Nin và đêm đêm thường rẽ ra sông để cho súc vật uống nước và lấy nước vào cái túi da. Đôi khi,ngay cả ban ngày, họ dám đi vào các làng mạc. Để bảo đảm an toàn, bao giờ họ cũng phái vài người đi thám thính trước, dưới dạng những người đi mua lương thực, xem xét tình hình trong vùng lân cận và nghe ngóng xem ở đấy có binh lính Ai Cập hay không, cũng như liệu các cư dân trong vùng có thuộc về những kẻ trung thành với bọn “Thổ” hay không. Nếu như tìm được đúng những người dân bí mật ủng hộ Mahơđi, thì cả đoàn sẽ vào làng, và thường thường, khi ra đi, đoàn người lại được tặng thêm vài hay mươi người Ả Rập trẻ tuổi muốn trốn đến với Mahơđi.
Iđrix cũng được biết rằng, gần như tất cả các đơn vị Ai Cập đều ở bên bờ phía sa mạc Nubianghĩa là phía tả ngạn, phía bờ sông Nin. Để tránh đụng độ với họ, chỉ cần đi theo bờ hữu ngạn và tránh những thị trấn cùng những điểm cư dân tương đối lớn.
Tuy chuyện đó có khiến cho đường đi xa hơn nhiề u, vì từ Vađi Hanpha trở đi, dòng sông tạo thành một vòng cung quành rất xa xuống phía nam, rồi sau đó lại ngoằn về hướng Đông Bắc cho tới tận Abu Hammét, nơi nó chảy thẳng về hướng Nam, nhưng bờ hữu ngạn, nhất là từ ốc đảo Xêlim trở đi, gần như hoàn toàn không bị cảnh giới, mà đối với những người Xuđan, đường đi giữa đám đông bè bạn, nước nhiều, lương ăn sẵn, trở nên vui vẻ hơn nhiều.
Sau khi vượt qua cái thác thứ ba, bọn chúng thôi không còn phải vội vã nữa, chúng đêm đi, ngày nghỉ, ẩn náu giữa các gò cát và khe núi chia cắt sa mạc. Lúc này, trên đầu chúng là bầu trời không một gợn mây, ở đường chân trời ngả màu xám, còn ở giữa cong lên như một cái vòm khổng lồ, tĩnh mịch và thanh bình. Tuy nhiên, càng ngày cái nóng nực càng gay gắt hơn, khi chúng đi dần về phía Nam, thậm chí trong các khe núi, trong bóng râm, cái nóng vẫn hành hạ người và vật. Trái lại, đêm thường rất lạnh, đầy những vì sao lấp lánh, được phân chia thành những chòm lớn chòm nhỏ.
Xtas để ý thấy rằng đó đã không còn là những chòm sao đêm đêm vẫn soi sáng ở Port Xaiđơ nữa. Nhiều khi em từng mơ tưởng rằng, một khi nào đó trong đời sẽ được trông thấy chòm sao Thập Tự Nam. Và thế là em đã được thấy chòm sao này sau khi vượt qua En Oócđe. Nhưng giờ đây, ánh sáng của chòm sao này chỉ báo trước cho em những tai ương bất hạnh mà thôi. Và từ vài ngày nay, cứ đêm đêm, đoàn người lại thấy cái ánh sáng bà ng bạc, tản mạn và buồn tẻ của hoàng đạo, kéo dài từ khi mặt trời lặn cho đến những giờ khuya, dát bạc vùng trời phía Đông.