Đêm hôm ấy quang tạnh khi Johannes dần lấy lại được nhận thức. Không gian sương giá, cánh cửa sổ nơi căn phòng lạ mà ông được đặt vào, không bị gió thổi lay lắt, vẽ nên những mảng sáng tối đều đặn từ ánh trăng ngoài kia. Cơn bão tuyết đã qua. Căn phòng ấm áp với lò sưởi bằng đá và đèn lồng hình bí ngô, trang trí xinh đẹp với nội thất mộc mạc và một tấm thảm đơn điệu tối màu, trên tủ đầu giường là những chậu hoa bé xíu và những dàn cây treo trên tường có mùi như thảo mộc.
Các giác quan của ông từ từ trở về khi ông nằm bất động trên chiếc giường đơn duy nhất, chỉ có thể nhìn chằm chằm lên trần nhà gỗ phía trên. Không gian tĩnh lặng đến mức ù tai, chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ và tiếng lách tách của ngọn lửa có thể được nghe thấy. Ông cảm thấy nhẹ nhõm khi những cây thảo mộc kia xoa dịu ông phần nào với hương thơm nhẹ của chúng, giúp cho các cơ bắp giãn ra và việc nằm một chỗ quá lâu không còn khiến ông ê ẩm đến thế.
Lúc mười giờ, tức một giờ rưỡi đồng hồ sau, sự im lặng ngột ngạt bị phá vỡ bởi tiếng cọt kẹt khe khẽ của cánh cửa phòng được mở. Bước vào là một người phụ nữ, dáng dấp cao ráo và mảnh mai, sắc sảo và phảng phất vẻ ma mị, với một nụ cười nhẹ lúc nào cũng nở trên môi. Những nếp nhăn của tuổi trung niên cũng không thể khiến đôi mắt bà thôi lấp lánh, đôi nhãn cầu mang màu sắc của làn da tái nhợt kỳ lạ của bà khiến Johannes phải để tâm. Bà thừa biết vị khách của mình đã tỉnh, liền nhanh nhẹn bước đến để ngồi xuống bên cạnh ông. Bà nói với một giọng trầm nhưng lại vô cùng thân thiện:
“Ta thấy cậu cuối cùng cũng tỉnh rồi.”
“Tôi đang ở đâu đây?” Johannes cựa mình, nhưng sớm nhận ra mình không thể. Cơn đau trong lồng ngực ngăn cản ông, một tiếng rên rỉ bật ra từ dưới cổ họng, khi ông cố gắng xoay đầu để đối mặt với người kia. Đôi mắt sắc của bà nhìn ông chăm chú, bà là một người đẹp đã đến tuổi xế chiều với một vẻ khinh khỉnh độc nhất và ánh lửa cháy trong đôi mắt lạnh lẽo của mình. Bà có thể là trụ cột của cả gia đình, ấy là nếu bà đã yên bề gia thất, bởi đến nay dường như chỉ có một mình bà sống trong ngôi nhà này.
“Tất nhiên là Romania.” Bà nhún vai, từ tốn rót trà nóng hẵng còn tỏa hơi từ trong ấm ra tách. Johannes lầm bầm một mình, gượng cười, ông nói:
“Bà đúng thật có một khiếu hài hước dí dỏm.”
“Cậu đã an toàn, đó là tất cả những gì cậu cần biết.” Người phụ nữ đáp. Bà bỏ một ít thảo mộc kỳ lạ và bột vào tách và khuấy đều, liền tỏ vẻ hài lòng khi trà đã có mùi thơm của hoa cỏ mùa hạ. Khi tách trà đã nguội bớt, bà đưa nó cho người kia, khiến ông không khỏi ngước lên khó hiểu. “Uống đi.” Bà nói.
“Cái gì đây?” Johannes hỏi, dè chừng đưa thứ chất lỏng kia gần mũi mình.
“Thuốc.”
“Để làm gì?”
“Tất nhiên là để cậu hồi phục rồi.” Người phụ nữ là người kiên nhẫn. “Cậu bị xuất huyết trong rất nặng, và gãy ba xương sườn. Vết thương của cậu đã nhiễm trùng và sặc mùi độc tố khi ta đưa cậu về đây. Cậu bất tỉnh cũng được một ngày rồi.”
“Ra vậy.” là câu trả lời. “Tôi không cử động được. Bà là bác sỹ sao?”
“Thật ra ta thích cái danh của một thầy thuốc hơn. Nhưng nếu cậu muốn gọi ta theo cách mọi người thường gọi, thì ta cũng không lấy làm phiền. Cũng không có nhiều sự khác biệt lắm. Điều quan trọng là cậu vẫn còn sống. Uống tách trà này đi, nó sẽ giúp cậu rất nhiều trong việc hồi phục.”
Nước trà có vị dễ chịu, Johannes thầm cảm ơn, mùi vị nhẹ nhàng không vương vấn quá nhiều trên đầu lưỡi dù cho ông có khó khăn nhấp từng ngụm một. Nó xoa dịu cơn đau trong lồng ngực phần nào, và ông không còn cảm thấy quá nặng nhọc như trước. Ông thả người xuống gối sau khi uống xong, thở dài nặng nề và chau mày khi xoay đầu đối mặt bức tường bên cạnh.
“Cậu trông có vẻ ủ rũ quá.” Người phụ nữ bình phẩm, thu dọn ấm tách vào khay. “Một trái tim đau khổ có thể gây phiền lòng. Có chuyện gì mà cậu muốn chia sẻ, để vơi đi nỗi bực dọc trong đầu không? Ta tin mình có thể giúp đỡ đôi chút.”
Johannes vẫn nằm im khi ông hỏi:
“Và vì sao tôi phải trải lòng với bà, một người lạ?”
“Công việc của một thầy thuốc không chỉ có chữa lành thể xác, quý ông ạ. Chúng ta còn hướng đến xoa dịu tinh thần và cả linh hồn nữa.”
Johannes cố gắng bật ra, “Tôi phải ở lại đây trong bao lâu?”
“Ta e phải ít nhất vài ngày. Thật thứ lỗi nếu như ta không thể làm một chủ nhà lý tưởng được.”
“Có cách nào để đẩy nhanh tiến trình không?”
“Ta đang làm hết sức có thể, mọi cố gắng quá sức có thể khiến mọi chuyện tệ đi. Đã là một phép màu khi cậu vẫn… còn sống, và hồi phục nhanh hơn… những kẻ khác…”
Người phụ nữ bỗng nhiên ngập ngừng. Việc này đánh động Johannes, và ông xoay đầu để đối mặt bà một lần nữa. “Bà đang ấp úng, và tôi có thể nghe thấy tiếng tim bà đập rất nhanh. Thưa bà, bà đang lo lắng. Có chuyện gì tôi cần phải biết không?”
Không có một khả năng cỏn con nào cho việc người phụ nữ sẽ khiếp sợ trước Johannes, hay bất kỳ người đàn ông nào trong cuộc đời bà, huống hồ chi kẻ trước mắt còn đang bị thương nặng đến mức thậm chí còn không thể nhấc nổi cánh tay. Rồi như thể do một suy nghĩ bất chợt nào đó, hai người nhìn nhau trừng trừng vài giây, thoáng lộ vẻ thách thức, Johannes khẽ nghiêng đầu trông đợi. Người phụ nữ vẫn ngẩng cao đầu, cuối cùng, bà nói:
“Ta tin rằng thật không khôn ngoan mấy khi áp đặt suy luận của mình lên người khác trước khi biết rõ họ.”
“Tôi nghĩ vậy. Và như thế thì sao?”
Người phụ nữ tiếp tục, “Cậu đang bị vùi dưới tuyết khi ta tìm thấy cậu giữa cơn bão. Mặt cậu, nó… nó cháy khi ta lật cậu nằm ngửa dưới ánh mặt trời. Vết thương cho thấy cậu đã bị tấn công bởi loài bò sát, và chuyện này cũng thật bất thường, bởi bò sát ẩn mình suốt mùa đông. Một con người bình thường cũng không thể sống sót với vết cắn kịch độc như vậy được.”
“Vậy sao? Thế kết luận của bà là gì?”
“Ta đoán rằng cậu đã chạm mặt một con quái vật. Đại loại vậy.”
“Quái vật?” Johannes chậc lưỡi. “Bà tin vào chúng sao?”
“Ta đã sống đủ lâu để tin vào những sinh vật thần thoại rồi.” Người phụ nữ cười nói như thể đó là những lời tự nhiên nhất. Johannes ngâm nga:
“Thú vị đấy. Thế bà nghĩ gì về tôi, khi tôi vẫn sống sót sau khi bị tấn công bởi một con quái thú như thế?”
“Ta sẽ nói rằng cậu có một sức mạnh đáng ngạc nhiên.”
Đó là toàn bộ những thông tin mà Johannes cần biết, bởi ông cũng hiểu rằng người phụ nữ kia, nhiều phần cố ý, đang lảng tránh câu trả lời thật sự với mình. Tuy vậy, sự căng thẳng trên vai ông xuôi đi và ông nở một cười lười nhác. Ông thở dài:
“Cảm ơn vì đã giữ tôi khỏi ánh mặt trời.”
Một nụ cười đáp lại. “Đó là điều chúng ta nên làm với đồng loại mình mà, phải không?” Người phụ nữ đáp với một cái nháy mắt, rồi bà đứng lên, đưa cho vị khách mình một ánh nhìn thấu hiểu trước khi rời đi. Johannes toan hỏi thêm, nhưng bà đã ra đến cửa phòng. Ngoái nhìn lại, bà nói khẽ, “Còn bây giờ, mau nghỉ ngơi đi. Chúng ta đều đã biết những gì cần biết rồi.”