XII.
Trời sang tháng tư khi Roark và Wynand trở về New York.
Những tòa nhà chọc trời có màu hồng nhạt trên nền trời xanh, trông như người ta khảm sứ lên những vỉa đá lớn. Cây trên phố đã bắt đầu nảy mầm xanh.
Roark trở lại văn phòng của anh. Khi bắt tay với các nhân viên của mình, anh phát hiện ra họ đều cố nén một nụ cười, cho đến khi một anh chàng trẻ tuổi không kìm được đã buột miệng: “Khỉ thật! Tại sao chúng tôi không thể nói rằng chúng tôi vui như điên khi ông quay về hả sếp?” Roark phá lên cười. “Cứ nói đi. Tôi cũng vui như điên khi trở lại.” Sau đó anh ngồi lên một chiếc bàn ở trong phòng vẽ trong khi lần lượt từng người một báo cáo lại cho anh công việc trong vòng ba tháng qua. Tay anh mân mê một cái thước mà anh không hề ý thức được việc đó, giống như một người nông dân được chạm vào đất, được cảm thấy nó dưới những ngón tay của mình sau một thời gian dài vắng mặt.
Buổi chiều, khi còn một mình trong phòng, anh mở một tờ báo ra đọc. Anh đã không đọc báo trong suốt ba tháng qua. Anh để ý tới một bài viết về việc xây dựng khu chung cư Cortlandt. Anh nhìn thấy dòng chữ: “Peter Keating, kiến trúc sư. Gordon L. Prescott và Augustus Webb, trợ lý thiết kế.”
Anh ngồi hoàn toàn bất động.
Buổi tối hôm đó anh đi đến công trường Cortlandt.
Tòa nhà thứ nhất đã gần như hoàn thành. Nó đứng trơ trọi giữa một khu đất rộng. Công nhân đã về sau giờ làm việc, chỉ có một bóng đèn nhỏ ở trong lán của người trực đêm. Tòa nhà có bộ khung do Roark thiết kế, nhưng bên trên cái bộ khung xương đối xứng tuyệt vời đó đã mọc thêm mười loại biến thể của nó. Anh thấy tính tiết kiệm không gian trong cách thiết kế mặt bằng của anh được người ta giữ nguyên, nhưng bù lại người ta đã thêm vào đó những họa tiết và đường nét không thể hiểu nổi. Sự phong phú đa dạng của những khối nhà được mô hình hóa đã biến mất và thay vào đó là sự đơn điệu của những khối lập phương thô kệch. Người ta đã thêm vào một cánh nhà mới với mái vòm tròn nhô ra khỏi bức tường như một khối u, trong cánh nhà đó có một nhà thể dục thể thao. Một chuỗi những ban công được dựng lên, chúng được làm từ những dải thép xoắn được sơn màu xanh chói. Người ta thêm vào những cái cửa sổ chẳng có mục đích gì, những góc nhà bị vạt chéo để trổ thêm những cửa ra vào vô tác dụng, những mái hiên tròn bằng sắt có một cột đỡ cắm xuống đất – giống như một cửa hàng bán đồ lót cho đàn ông trong khu Broadway, ba dải tường bằng gạch nằm lơ lửng trong không khí, một phong cách chung chung mà dân trong nghề thường gọi là “Xóm liều hiện đại”[149], một tấm phù điêu lớn treo phía trên cửa ra vào chính – nó chạm một mớ cơ bắp thuộc về ba bốn cơ thể người, một trong số họ giơ một cánh tay lên, bàn tay đang cầm một cái tuốc-nơ-vít.
Có những dấu chữ thập trắng ở trên kính của những ô cửa sổ mới lắp, và trông chúng phù hợp với quang cảnh chung, như thể cả công trình là một sai lầm lớn và đã được đánh dấu để xóa sổ khỏi sự tồn tại[150]. Bầu trời đằng Tây ở phía trên Manhattan đỏ ối, và những tòa nhà của thành phố vươn lên, đen sì và thẳng đứng trên nền đỏ đó.
Roark đứng ở phía bên kia của con đường sẽ được xây dựng ngay trước khu nhà đầu tiên của chung cư Cortlandt. Anh đứng thẳng, những cơ bắp ở cổ họng anh căng ra, hai cổ tay buông thõng và không chạm vào cơ thể, cứ như thể anh đang đứng trước một hàng lính hành quyết tử tù.
* * *
Không ai biết mọi việc đã xảy ra như thế nào. Không hề có một ý định chủ động nào đằng sau nó. Nó chỉ cứ thể xảy ra.
Đầu tiên, vào một buổi sáng, Toohey đã bảo với Keating rằng Gordon L. Prescott và Gus Webb sẽ được đưa vào dự án với tư cách là trợ lý thiết kế. “Tại sao anh phải quan tâm đến chuyện này hả Peter? Tiền công của anh không hề bị cắt. Uy tín của anh cũng chẳng hề bị giảm, bởi vì anh vẫn là ông chủ. Họ sẽ chỉ như những thợ vẽ giúp việc cho anh. Tôi chẳng có mục đích nào khác ngoài việc giúp đỡ mấy anh bạn đó một chút. Họ sẽ có thêm chút tiếng tăm nếu được dính líu tới dự án này. Tôi rất quan tâm tới việc gây dựng danh tiếng cho họ.”
“Nhưng để làm gì? Làm gì có gì cho họ làm? Tất cả đều đã hoàn thành.”
“Ồ, thì bất cứ cái gì còn phải vẽ nốt cho xong. Điều đó sẽ giúp cho nhân viên của anh tiết kiệm được thời gian. Anh có thể chia sẻ chi phí với họ mà. Đừng có tham lam như vậy.”
Toohey đã nói thật, ông không có mục đích gì khác.
Keating không thể tìm ra Prescott và Webb có những mối quan hệ nào, với ai và ở cơ quan nào, với điều kiện gì – trong số hàng tá các quan chức có dính dáng đến dự án. Sự phân công trách nhiệm trong dự án lằng nhằng rắm rối đến mức không ai có thể chắc chắn được về vai trò của bất cứ ai khác. Chỉ có thể chắc chắn là Prescott và Webb có những người bạn, và Keating không thể từ chối họ được.
Sự thay đổi bắt đầu từ nhà thể dục thể thao. Quý bà chịu trách nhiệm lựa chọn người thuê nhà đòi hỏi phải có nhà thể dục thể thao. Bà là người làm công tác xã hội, và vai trò của bà sẽ chấm dứt khi dự án khánh thành. Bà đã kiếm được việc làm dài hạn như được bổ nhiệm làm giám đốc phụ trách các hoạt động giải trí xã hội cho Cortlandt. Trong bản thiết kế ban đầu không có nhà thể dục thể thao nào cả, chỉ có hai trường học và một trung tâm Y.M.C.A.[151] ở gần đó. Bà ta tuyên bố rằng điều này thể hiện sự kỳ thị đối với con cái các gia đình nghèo, do vậy, Prescott và Webb đã đứng ra thiết kế nhà thể dục thể thao đó. Rồi những thay đổi khác cứ theo nhau sinh ra, chủ yếu là về mặt trang trí. Những gì phát sinh mà làm tăng chi phí xây dựng đều được cẩn thận tính toán để tiết kiệm tiền. Bà giám đốc phụ trách giải trí xã hội này đã đến Washington để thảo luận về việc xây dựng thêm một nhà hát nhỏ và một phòng họp mà bà muốn xây ở hai tòa nhà tiếp theo của Cortlandt.
Những thay đổi trong bản vẽ xuất hiện từ từ, mỗi lần vài thay đổi. Những người khác đều đồng ý với những thay đổi mà ban chỉ đạo dự án đưa xuống. Chỉ có Keating là phản đối. “Nhưng chúng ta đã sẵn sàng khởi công!” – anh kêu lên. “Thì ảnh hưởng quái gì?”, Gus Webb lè nhè, “cứ tiết kiệm được cho họ vài nghìn là xong thôi.”
“Nào, về chuyện những cái ban công”, Gordon L. Prescott nói, “họ muốn có một phong cách hiện đại. Chả ai muốn nhìn cái của nợ ấy trơ trụi như thế cả. Trông phát ốm. Hơn nữa anh không hiểu tâm lý học. Những người sẽ sống ở đây đều quen với việc ngồi ở ngoài trời, ngay trên đường thoát hỏa[152]. Họ thích chúng. Họ sẽ nhớ chúng. Anh phải cho họ một chỗ để ngồi hưởng không khí trong lành chứ… Còn chi phí? Quỷ tha ma bắt, nếu anh quá lo lắng về chi phí thì tôi đã nghĩ ra một cách để cắt giảm đáng kể chi phí. Chúng ta sẽ bỏ các cửa closet[153] đi. Tại sao closet lại cần cửa chứ? Như thế là lạc hậu rồi.” Và thế là tất cả các cửa closet đều bị loại bỏ ra khỏi bản thiết kế.
Keating đã chiến đấu. Đó là một kiểu chiến trường mà anh chưa từng bước chân vào, nhưng anh cũng đã cố gắng bằng mọi cách có thể, bằng mọi giới hạn trong sức mạnh đã kiệt quệ của anh. Keating đi từ văn phòng này sang văn phòng kia, tranh luận, đe dọa và cầu xin. Nhưng anh chẳng có ảnh hưởng gì cả, trong khi những trợ lý thiết kế của anh lại có vẻ như đang kiểm soát một dòng nước ngầm với các mạch nước tỏa đi khắp nơi. Những người có trách nhiệm đều lắc đầu từ chối và chuyển anh đến người khác. Không ai quan tâm đến vấn đề thẩm mỹ. “Có khác gì cơ chứ?” “Anh không phải bỏ tiền túi của anh ra, phải không nào?” “Anh là cái gì mà cứ muốn mọi thứ theo ý mình? Hãy để cho những người kia đóng góp một cái gì đó chứ.”
Anh cầu cứu Ellsworth Toohey nhưng Toohey không để ý. Ông đang bận việc khác và không muốn gây ra một vụ cãi lộn trong giới quan chức văn phòng. Thực sự mà nói, ông đã không hề gợi ý những người được ông bảo trợ về chuyện thay đổi trang trí tòa nhà, nhưng ông cũng thấy không cần thiết phải ngăn cản họ. Toàn bộ sự việc khiến cho ông buồn cười. “Nhưng nó thật là kinh khủng Ellsworth! Ông biết là nó rất kinh khủng mà!” “Ồ, tôi đoán thế. Nhưng tại sao anh lại phải quan tâm hả Peter? Những kẻ khốn khổ sắp đến ở ngôi nhà này sẽ không đủ trình độ để thưởng thức được những chi tiết nhỏ của nghệ thuật kiến trúc. Chỉ cần đảm bảo đường thoát nước làm việc là được.”
“Nhưng để làm gì? Để làm gì? Để làm gì? Keating gào lên với những trợ lý thiết kế của mình. “Thì, tại sao chúng tôi lại không được can thiệp gì cả? Gordon L. Prescott hỏi. “Chúng tôi cũng muốn thể hiện dấu ấn cá nhân chứ.”
Khi Keating viện dẫn các điều khoản hợp đồng người ta nói với anh rằng: “Được thôi, xin mời, anh cứ thử kiện chính phủ xem. Cứ thử đi!”. Đôi lúc anh có khát khao muốn được giết ai đó. Nhưng không có ai để mà giết. Ngay cả nếu anh được quyền thì anh cũng không thể chọn được nạn nhân. Không ai chịu trách nhiệm cả. Không có mục đích và nguyên nhân. Tất cả chỉ cứ thế mà xảy ra.
Keating tìm đến nhà Roark vào buổi tối sau khi Roark trở về. Roark đã không hề gọi anh đến. Roark mở cửa và nói: “Chào anh, Peter,” nhưng Keating không thể trả lời. Họ im lặng đi vào phòng làm việc. Roark ngồi xuống nhưng Keating vẫn đứng ở giữa phòng và hỏi với giọng buồn bã:
“Cậu định làm gì?”
“Bây giờ anh phải để tôi giải quyết việc đó.”
“Tôi đã không thể làm gì được, Howard… Tôi đã không thể!”
“Tôi đoán là không.”
“Cậu có thể làm gì bây giờ? Cậu không thể kiện chính phủ được.”
“Không. Tôi không kiện.”
Keating nghĩ rằng anh nên ngồi xuống, nhưng chiếc ghế dường như ở quá xa. Anh cảm thấy nếu anh cử động, anh sẽ trở nên quá lộ liễu.
“Cậu định làm gì với tôi đây Howard?”
“Không làm gì cả.”
“Có muốn tôi phải thú nhận với họ sự thật không? Với tất cả mọi người?”
“Không.”
Một lát sau Keating nghĩ thầm:
“Vậy hãy để tôi trả tiền công cho cậu nhé… tất cả… và…”
Roark mỉm cười.
“Tôi xin lỗi…” Keating thì thầm và đưa mắt ra chỗ khác.
Anh đợi một lát, và sau đó cái lời biện hộ mà anh biết là anh không được nói đã bật ra thành:
“Tôi sợ, Howard…”
Roark lắc đầu.
“Dù tôi làm gì thì cũng không phải để hại anh, Peter. Tôi cũng có tội. Cả hai chúng ta cùng có tội.”
“Cậu có tội ư?”
“Chính tôi đã hủy hoại anh, Peter. Ngay từ đầu. Bằng cách giúp đỡ anh. Có những chuyện mà người ta không được phép nhờ vả hoặc giúp đỡ người khác. Lẽ ra tôi không nên làm giúp anh những đồ án ở Stanton. Lẽ ra tôi không nên thiết kế tòa nhà Cosmo-slotnick. Hay Cortlandt. Tôi đã bắt anh phải mang nhiều hơn sức anh có thể mang. Giống như khi một dòng điện quá mạnh chạy trong mạch điện, nó sẽ làm đứt cầu chì. Bây giờ thì cả hai chúng ta cùng phải trả giá. Việc đó sẽ khó đối với anh, nhưng nó còn khó hơn đối với tôi.”
“Cậu có muốn… tôi đi về bây giờ không, Howard?”
“Có.”
Ở cửa Keating nói:
“Howard! Họ không cố tình làm điều đó.”
“Chính vì thế nên nó còn tồi tệ hơn.”
* * *
Dominique nghe thấy tiếng xe chạy lên đồi. Cô nghĩ Wynand đã đi làm về. Suốt hai tuần qua, kể từ khi trở về thành phố, tối nào ông cũng làm việc muộn.
Tiếng động cơ nổi bật trong không khí mùa xuân tĩnh lặng của đồng quê. Không có âm thanh nào ở trong nhà, chỉ có tiếng lào xào khẽ của mái tóc khi cô ngả đầu vào cái nệm ghế. Trong một khoảnh khắc, cô không còn ý thức được việc đang nghe tiếng xe tiến lại gần nữa, nó quá quen thuộc vào giờ này trong ngày, nó là một phần của sự tĩnh lặng và tách biệt ở ngoài kia.
Cô nghe thấy tiếng xe dừng ở cửa. Cửa ra vào luôn mở, họ không bao giờ chờ hàng xóm hay khách đến thăm. Cô nghe tiếng cửa mở, và những bước chân đi trong phòng khách ở dưới gác. Những bước chân không dừng lại, mà đi thẳng lên gác với sự tự tin quen thuộc. Một bàn tay xoay cái núm cửa phòng cô.
Đó là Roark. Trong khi đứng lên, cô nghĩ thầm rằng trước đó anh chưa từng bước chân vào phòng cô, nhưng anh biết rõ từng phần của ngôi nhà này; cũng như là anh biết rõ từng chi tiết của cơ thể cô. Cô không hề cảm thấy sốc, cô chỉ nhớ đã từng sốc, một cú sốc trong quá khứ, cô nghĩ: Ta chắc chắn là đã sốc khi nhìn thấy anh ấy, nhưng không phải là bây giờ. Bây giờ, khi cô đứng trước anh, mọi thứ trở nên rất đơn giản.
Cô nghĩ: giữa hai chúng ta, những điều quan trọng nhất không bao giờ cần phải nói ra. Lúc nào chúng cũng được nói bằng cách như thế này. Anh ấy đã không muốn gặp riêng ta. Nhưng bây giờ thì anh ấy đang ở đây. Ta đã đợi và bây giờ ta sẵn sàng.
“Chào em, Dominique.”
Cô nghe thấy tên cô được gọi lên, và nó lấp đầy khoảng cách năm năm. Cô nói nhẹ nhàng:
“Chào anh, Roark.”
“Anh muốn em giúp anh.”
Cô đang đứng ở sân ga Clayton, Ohio; cô đang đứng ở bục nhân chứng trong phiên tòa Stoddard; cô đang đứng ở rìa của mỏ đá, để có thể cho phép bản thân – như cô đã cho phép bản thân mình vào những lúc đó – được chia sẻ câu nói mà cô vừa mới nghe.
“Vâng, Roark.”
Anh bước ngang qua căn phòng mà anh đã thiết kế cho cô, anh ngồi xuống, đối diện với cô, giữa họ là cả chiều rộng của căn phòng. Cô đã ngồi xuống từ khi nào không biết, cô chỉ chú ý đến chuyển động của anh, cứ như cơ thể của anh chứa hai bộ dây thần kinh, một của anh và một của cô.
“Tối thứ Hai tới, Dominique, chính xác vào lúc 11:30, anh muốn em lái xe đến công trường Cortlandt.”
Cô chợt để ý là cô đang cảm nhận khá rõ về mí mắt của mình, không phải là sự đau đớn, mà chỉ là cảm thấy, như thể hai mí mắt của cô đã tê cứng lại và không chớp được nữa. cô đã nhìn thấy tòa nhà đầu tiên của Cortlandt. Cô đã biết trước những điều cô sắp được nghe.
“Em phải ở một mình trong xe và em phải trên đường về nhà từ một nơi nào đó, một nơi em đã có hẹn, và cuộc hẹn phải được lên kế hoạch từ trước. Đó phải là một địa điểm mà từ đây chỉ có thể đi đến đó bằng cách đi qua Cortlandt. Em phải có khả năng chứng minh được điều đó về sau này. Anh muốn xe của em phải hết xăng ở ngay trước công trường Cortlandt, vào lúc 11:30. Em bấm còi. Sẽ có một người trực đêm ở gần đó. Anh ta sẽ đi ra ngoài. Em sẽ nhờ anh ta giúp đỡ và bảo anh ta đi đến cái gara ô-tô gần nhất, cách đấy khoảng một dặm.”
Cô trả lời đều đều, “Vâng, Roark.”
“Khi anh ta đi khỏi, em hãy ra khỏi xe. Có một khu đất bỏ hoang khá rộng ở cạnh đường, phía bên kia tòa nhà, và cạnh đó là một cái mương. Em cần phải đi đến cái mương đó càng nhanh càng tốt, chui xuống mương và nằm sát mặt đất. nằm dán mình xuống đất. một lúc sau thì em có thể trở về ô-tô. Em sẽ biết khi nào cần trở về. hãy làm thế nào để mọi người có thể thấy em ở trong xe và cơ thể em ở tình trạng phù hợp với cái xe – gần gần thôi.”
“Vâng, Roark.”
“Em hiểu chứ?”
“Vâng.”
“Hiểu tất cả?”
“Vâng. Tất cả.”
Họ cùng đứng lên. Cô chỉ nhìn thấy cặp mắt của anh và biết anh đang mỉm cười.
Cô nghe anh nói: “Chúc em ngủ ngon, Dominique,” anh đi ra ngoài và cô nghe tiếng xe của anh đi xa dần. Cô nghĩ về nụ cười của anh.
Cô biết là anh không cần sự giúp đỡ của cô cho cái việc anh sắp làm, anh có thể tìm cách khác để thoát khỏi người trực đêm, cô biết là anh đã để cho cô tham gia, bởi vì nếu không như thế thì có thể cô sẽ không sống được với những gì sẽ xảy ra sau đó, cô cũng biết đây chính là bài kiểm tra cuối cùng.
Anh đã không muốn gọi tên nó, anh đã muốn cô hiểu và không tỏ ra sợ hãi. Cô đã không đủ sức chịu đựng trong vụ xử Stoddard, cô đã chạy trốn khỏi nỗi khiếp sợ khi nhìn anh bị cả thế giới này làm tổn thương, nhưng cô đã đồng ý để giúp anh trong vụ này. Cô đã đồng ý trong cảm giác bình yên tuyệt đối. Cô đã tự do, và anh biết điều đó.
* * *
Con đường bằng phẳng chạy dọc qua những dải đất tối của Long Island, nhưng Dominique lại cảm thấy như là cô đang lái xe lên dốc. Đó là một cảm giác bất thường duy nhất, cảm giác bay lên, như thể chiếc xe của cô đang tăng tốc theo chiều thẳng đứng. Cô vẫn để mắt đến mặt đường, nhưng bảng đồng hồ xe ở dưới tầm mắt cô trông như bảng điều khiển một chiếc máy bay. Đồng hồ trên bảng chỉ 11 giờ 10 phút.
Cô cảm thấy thích thú, và nghĩ: Mình chưa từng học lái máy bay và bây giờ mình biết cảm giác đó như thế nào, nó đúng như thế này, chỉ có không gian thông suốt và không cần nỗ lực gì cả. Và không có cả trọng lượng nữa. Điều đó xảy ra ở tầng bình lưu – hay là ở khoảng không giữa các hành tinh nhỉ? – cái chỗ mà người ta bắt đầu trôi nổi lơ lửng và chỗ không còn định luật hấp dẫn ấy.
Không có bất cứ định luật nào về bất cứ định luật hấp dẫn nào cả. Cô nghe thấy mình đang cười thành tiếng.
Chỉ là cảm giác bay lên… Ngoài ra mọi thứ đều bình thường. Cô chưa bao giờ lái xe thuần thục như bây giờ. Cô nghĩ: lái xe là một việc khô khan và máy móc, như vậy mình biết là mình đang tỉnh táo, bởi vì mình đang lái xe rất dễ dàng, như thở hoặc nuốt vậy – những việc không cần đến sự chú ý. Cô dừng lại trước những đèn giao thông màu đỏ treo lơ lửng ở trên những ngã tư đường dọc theo những con phố không tên, trong những khu ngoại ô không tên, có rẽ và vượt những xe khác, và cô biết chắc rằng tối nay không thể có tai nạn nào có thể xảy ra đối với cô. Cô biết xe của cô được lái bởi một cái điều khiển từ xa – một loại tia sáng tự động nào đó mà cô đã từng đọc – đó là sóng vô tuyến hay là ánh sáng một ngọn hải đăng nhỉ? – và cô chỉ việc ngồi sau tay lái.
Cô nghĩ: việc này khiến ta được tự do cảm nhận tất cả những gì nhỏ nhặt nhất, và được cảm thấy vô lo và… Thoải mái – hoàn toàn thoải mái. Nó là một trạng thái nhận biết rõ ràng, bình thường hơn cả bình thường, giống như thủy tinh còn trong hơn cả không khí rỗng. Chỉ những thứ vặt vãnh thôi: lớp lụa mỏng của chiếc váy ngắn màu đen và cái cách mà nó phủ hờ hững qua những đầu gối cô, sự uyển chuyển của những ngón chân bên trong chiếc giày mềm đế bằng khi cô di chuyển bàn chân, dòng chữ vàng “Tiện ăn Danny” ở trên ô cửa sổ tối tăm mà cô vừa vượt qua.
Cô đã rất vui vẻ tại bữa tối do vợ của một ông chủ nhà băng nào đó tổ chức. Họ là những người bạn quan trọng của Gail mà bây giờ cô chẳng thể nhớ nổi tên. Đó là một bữa tối tuyệt vời ở trong một lâu đài lớn ở Long Island. Bọn họ đều đã rất vui khi được đón tiếp cô và đã tỏ ra tiếc rẻ vì Gail không thể đến được. Cô đã ăn hết mọi đĩa thức ăn được đặt ra trước mặt cô. Cô đã ăn rất ngon miệng – giống như một vài dịp hiếm hoi hồi bé khi cô trở về nhà sau một ngày chạy nhảy ở trong rừng, và mẹ cô đã rất hài lòng bởi bà luôn lo ngại rằng sau này lớn lên cô có thể bị mắc bệnh thiếu máu.
Cô đã mua vui cho các vị khách bên bàn ăn tối bằng cách kể với họ những câu chuyện về tuổi thơ của cô, cô đã khiến họ phá lên cười, và đó là bữa tối vui vẻ nhất mà các chủ nhà của cô có thể nhớ được. Sau đó, ở trong phòng vẽ có những ô cửa sổ mở rộng, hướng ra ngoài bầu trời tối – một bầu trời không trăng, trải dài phía trên những ngọn cây, trên những khu phố, cho tới tận bờ sông Đông – cô đã cười phá ra và nói chuyện, cô đã mỉm cười với mọi người ở xung quanh với cảm giác ấm áp đến mức tất cả bọn họ đều tự động thổ lộ những chuyện thân thiết nhất đối với họ, cô đã yêu quý những người đó biết chừng nào, và họ cũng biết điều đó, cô đã yêu bất cứ cá thể người nào, ở bất cứ đâu trên mặt đất này, và một quý bà nào đó đã nói: “Dominique, tôi không biết là em có thể tuyệt vời đến thế!” Và cô đã trả lời: “Em chẳng có gì để lo lắng trong thế giới này.”
Nhưng cô đã thực sự chẳng chú ý đến cái gì khác ngoài cái đồng hồ ở cổ tay mình, và rằng cô phải ra khỏi nhà đó vào lúc 10 giờ 50. Cô đã không biết sẽ nói thế nào để có thể rời bữa tiệc nhưng đến 10 giờ 45 cô đã nói điều đó, chuẩn xác và thuyết phục, và đến 10 giờ 50 bàn chân cô đã đặt vào chân ga của ô-tô.
Đó là chiếc xe hai chỗ màu đen, mui khép kín và ghế được bọc da màu đỏ. Cô nghĩ, John, người lái xe, đã giữ cho lớp da đỏ bóng loáng một cách rất đẹp mắt. Cái xe rồi sẽ chẳng còn lại gì và nó xứng đáng được trông đỏm dáng nhất vào lần lăn bánh cuối cùng. Giống như người đàn bà trong đêm ân ái đầu tiên của mình. Ta chưa bao giờ ăn mặc đẹp cho cái đêm đầu tiên của mình – ta không có đêm đầu tiên – chỉ có cái gì đó xé toạc cơ thể và vị những hạt bụi của mỏ đá ở trong miệng.
Khi cô nhìn thấy những dải màu đen dài với những đốm sáng ở trên cửa kính hai bên thân xe, cô tự hỏi điều gì đã xảy ra đối với mặt kính. Để rồi cô nhận ra rằng cô đang lái xe dọc theo sông Đông và rằng đó chính là New York, ở bờ bên kia. Cô cười và nghĩ: Không, đó không phải là New York, đó chỉ là một bức tranh riêng được dán lên cửa sổ ô-tô của ta, toàn bộ bức tranh, ở đây, trên một tấm kính nhỏ, ở dưới bàn tay của ta, ta sở hữu nó, bây giờ nó là của ta – cô di bàn tay dọc theo những tòa nhà từ Battery cho đến cầu Queenboro – Roark, nó là của em và em đang dâng nó cho anh.
* * *
Bây giờ bóng người gác đêm có chiều cao khoảng 20 xăng-ti-mét ở phía xa. Dominique nghĩ: khi cái bóng đó giảm xuống còn 13 xăng-ti-mét ta sẽ bắt đầu hành động. Cô đứng cạnh xe và mong người gác đêm bước nhanh hơn.
Tòa nhà là một khối đen xuyên thẳng vào bầu trời tại một điểm. Phần còn lại của bầu trời võng xuống, sà thấp phía trên một dải đất phẳng. Những khu phố và những ngôi nhà gần nhất đều ở rất xa, ở rìa của khoảng không gian đó, chúng là những vết nứt nhỏ không đều đặn, như những chiếc răng của một chiếc cưa bị gãy lưỡi.
Cô cảm thấy có một hòn sỏi lớn ở bên dưới đế của chiếc giày mềm, nó thật khó chịu, nhưng cô không di chuyển bàn chân vì nó sẽ gây ra tiếng động. Cô không ở đây một mình. Cô biết là anh đang ở đâu đó trong tòa nhà kia, chỉ cách cô một con đường. Không có âm thanh và ánh sáng nào ở trong tòa nhà, chỉ có những chữ thập trắng trên nền cửa sổ đen. Anh ấy không cần chút ánh sáng, bởi vì anh ấy biết rõ từng căn phòng, từng cái cầu thang.
Bóng người gác đêm đã khuất xa. Cô giật tung cửa xe. Cô ném mũ và túi vào trong xe, rồi đóng sầm cửa lại. Cô nghe rõ tiếng cửa đóng âm vang khi cô ở bên kia đường, chạy trên một dải đất trống, ra xa khỏi tòa nhà.
Cô cảm thấy lớp vải lụa của chiếc váy cọ vào đùi, và nó có tác dụng như một cái đích cụ thể mà cô phải vượt qua – cô phải đẩy được cái rào cản bằng lụa này, phải xé qua hàng rào này càng sớm càng tốt. Mặt đất đầy những hố và gốc rạ khô lổn nhổn. Cô bị ngã một lần, nhưng cô chỉ nhận ra điều đó khi cô đang đứng lên chạy tiếp.
Cô nhìn thấy cái mương khuất trong bóng tối. Rồi cô quỳ trong lòng mương, rồi cô nằm dán xuống, mặt úp sấp, miệng cô áp vào mặt đất.
Cô cảm thấy đùi cô giật giật, và cô vặn mình lại trong một cơn rùng mình khá dài; cô cảm thấy mặt đất ở ngay dưới chân cô, ngực cô và làn da ở cánh tay của cô. Như thể cô đang nằm trên giường của Roark vậy.
Tiếng nổ như một quả đấm giáng xuống gáy cô. Cô cảm thấy mặt đất như đang xô vào cô, bắt cô phải đứng dậy và trèo lên bờ mương. Phần trên của tòa nhà Cortlandt nghiêng đi và đứng im trong khi một vết nứt toác làm lộ rõ bầu trời cứ lớn dần lên, cắt ngang qua khung nhà. Như thể bầu trời xẻ đôi tòa nhà vậy. Sau đó vết nứt chuyển thành một ánh sáng lòa màu xanh lam. Để rồi không còn phần trên nữa, chỉ có những khung cửa sổ và những cái xà nhà bay lên trong không khí, cả tòa nhà rải khắp bầu trời; một lưỡi lửa đỏ dài, mỏng liếm ra từ giữa nhà, rồi thêm một quả đấm nữa, và một quả nữa, rồi đến một vệt sáng lóa mắt và cửa kính của những tòa nhà chọc trời bên kia sông lấp lánh sáng như được dát vàng.
Cô không nhớ anh đã ra lệnh cho cô phải nằm ép sát đất, cô không nhớ rằng cô đang đứng; rằng những miếng thủy tinh và sắt vụn đang rơi xuống như mưa ở quanh cô. Trong khoảnh khắc khi những bức tường nứt toác ra và tòa nhà nổ tung như pháo hoa, cô nghĩ tới anh đang ở đó, một nơi nào đằng xa, anh là người thiết kế tòa nhà và phải phá hủy nó, người biết tất cả những điểm quan trọng nhất của cái kết cấu ấy; người đã tạo nên sự cân bằng tinh tế giữa sức ép và sức đỡ, cô nghĩ về việc anh phải lựa chọn những điểm mấu chốt ấy để đặt thuốc nổ; một người bác sĩ đã trở thành kẻ sát nhân, điêu luyện phá vỡ cả trái tim, bộ não và lá phổi cùng một lúc. Anh ấy ở đó, anh đã nhìn thấy điều đó và những gì nó gây cho anh còn kinh khủng hơn cả những gì nó gây ra cho tòa nhà. Nhưng anh đã ở đó và đón nhận nó.
Cô nhìn thấy thành phố được bao bọc bằng ánh sáng trong khoảng nửa giây, cô có thể nhìn thấy rìa và gờ của những ô cửa sổ ở xa hàng dặm, cô nghĩ tới những căn phòng tối tăm và những trần nhà được ánh sáng này chiếu đến, cô nhìn thấy đỉnh của những tòa tháp sáng lên trên bầu trời, bây giờ đó là thành phố của cô và của anh. “Roark!” Cô gào lên. “Roark! Roark!” Cô không biết là mình đã gào lên. Cô không nghe được tiếng của mình lẫn trong âm thanh vụ nổ.
Sau đó cô chạy ngang qua khoảng đất tới khu đổ nát đang bốc khói, chạy qua những lớp kính vỡ vụn, từng bước chắc nịch, bởi vì cảm giác đau đớn làm cô thích thú. Sẽ không bao giờ còn nỗi đau đớn nào khác để cô phải chịu. Một tầng bụi bao phủ cả khoảng đất, như một tấm vải bạt. Cô nghe thấy tiếng còi cứu hỏa bắt đầu ré lên từ phía xa.
Nó vẫn là một chiếc xe ô-tô, mặc dù những bánh sau đã bị bẹp rúm do một khối máy móc kim loại va vào, và một cánh cửa thang máy phủ lên mui xe. Cô bò vào ghế ngồi. Cô phải làm thế nào để chứng tỏ là cô vẫn ngồi ở đây từ trước. Cô nắm một vốc kính vỡ ở trên sàn xe và rắc chúng lên lòng mình, lên tóc mình. Cô lấy một miếng kính sắc nhọn và rạch nó lên da ở cổ, ở đùi và cánh tay của cô. Cái cô cảm thấy không phải là sự đau đớn. Cô nhìn thấy máu vọt ra từ cánh tay cô, chảy xuống lòng, thấm vào lớp lụa đen, nhỏ từng giọt giữa hai bắp đùi cô. Đầu cô ngả về phía sau, miệng há hốc, thở hổn hển. Cô không muốn dừng lại. Cô đã tự do. Không gì có thể làm tổn thương cô được. Cô không biết là cô đã cắt và một động mạch. Cô cảm thấy nhẹ bỗng. Cô đang cười vào mặt định luật hấp dẫn.
Khi những viên cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường tìm thấy cô thì cô đã bất tỉnh – cô chỉ còn có thể sống sót trong vài phút nữa.