Anh có đôi môi đỏ và hàm răng trắng, lúc không cười đã rất đẹp, khi cười lên lại càng quyến rũ hơn với đuôi mắt chân mày long lanh, khóe môi xuất hiện rãnh cười nhẹ nhưng mê hồn.
Lần đầu tiên Hứa Chức Hạ thấy anh cười.
Đó là một nụ cười thật lòng chứ không phải là kiểu chế giễu, mỉa mai hay không chạm đến đáy mắt như mọi khi.
Anh chỉ mặc một chiếc áo ba lỗ màu đen tuyền, hai cánh tay rắn chắc lộ ra trong gió.
Mái hiên không quá rộng, mưa lớn, nước mưa từ mái nhỏ xuống tí tách như chuỗi ngọc, đôi khi bắn cả vào người anh, làm ướt mấy sợi tóc mai rủ xuống.
Anh không mấy bận tâm, chỉ hơi cúi người, cánh tay lười biếng chống hờ lên đầu gối.
Hứa Chức Hạ hơi khó khăn đưa hai bàn tay từ dưới chiếc áo khoác ra, các ngón tay chụm lại che lên trán anh.
Kỷ Hoài Chu khựng lại một chút rồi nghiêng đầu đi.
Cô bé duỗi thẳng cánh tay, cố hết sức dùng bàn tay để che mưa cho anh.
Phía trước, những ngôi nhà dân không liền kề nhau mà tạo thành một khoảng “Giếng trời” nhỏ giữa những viên gạch và ngói, có thể nhìn thấy bến sông ở xa xa.
Dưới ánh trăng mưa bụi mờ mịt, bên bờ nước biếc trong veo, những chùm hoa hải đường rủ dây được nuôi dưỡng thật kiều diễm. Cánh hoa trắng hồng, rơi từng đợt như tuyết Xuân nhẹ nhàng xuống hai chiếc thuyền đang neo đậu trên sông.
Khung cảnh thật thanh nhàn, mơ hồ cứ như một bức tranh trong mơ, mọi ưu sầu của thế gian đều tan biến hết.
“…… Anh trai ơi, trời tối quá.”
Cô lại nói câu này, hòa lẫn trong tiếng mưa rơi tí tách.
Kỷ Hoài Chu đang nhìn cô, còn cô thì lo lắng nhìn cơn mưa không ngừng nghỉ bên ngoài.
Cứ thế, một khoảng thời gian yên lặng trôi qua, Kỷ Hoài Chu cụp mắt, mưa đã lớn hơn và làm ướt đẫm những phiến đá xanh.
Anh rũ mi mắt xuống, trước mặt từng giọt nước mưa bắn tung tóe.
–
Cơn mưa đêm hôm ấy tạnh sau hơn nửa tiếng. Ngay khi họ vừa về đến nhà, Chu Thanh Ngô đã tới và mang theo hai bát mì thịt dê mà Tưởng Đông Thanh đặc biệt nấu.
Chu Thanh Ngô có chuyện muốn nói nên đã gọi Kỷ Hoài Chu ra ngoài cửa.
Hứa Chức Hạ ở lại một mình trong gian nhà trước, ngồi cúi đầu bên chiếc bàn Tứ Tiên* ăn mì dưới ánh nến.
(*”Tứ Tiên” là “Tứ Linh” (Long, Lân, Quy, Phụng), là tên gọi chung của bốn linh vật thần thoại, thường được chạm khắc trên các bàn thờ, bàn ghế… để cầu mong tài lộc, may mắn và sự sung túc cho gia đình.)
Tay cô quá nhỏ không thể kẹp được đũa nên chỉ có thể nắm chặt đũa rồi gạt sợi mì vào miệng.
Cứ gạt một đũa cô lại ngước nhìn ra cửa một lần, để chắc chắn rằng anh vẫn còn ở đó.
Dưới mái hiên, anh tựa vào cột nhà, trên tay cầm một lon Coca, thỉnh thoảng lại đưa lên môi ngửa cổ uống một ngụm. Cả người anh lười biếng, uể oải, chẳng biết có đang lắng nghe hay không.
“Trưởng khoa Từ của khoa Tâm thần ở bệnh viện Hàng Nhất là thầy hướng dẫn trước đây của dì. Cháu sắp xếp lúc nào đó đưa con bé đến gặp xem sao…… Còn cả vấn đề không chịu nói chuyện nữa…… Con bé vẫn còn bài xích nên dì không dám mạo hiểm đưa con bé về biệt thự…… Nếu không thể hoàn tất thủ tục đăng ký nhận nuôi thì con bé chỉ có thể quay lại cô nhi viện thôi……”
Hứa Chức Hạ nhìn thấy hàng mi cụp xuống che khuất đôi mắt của chàng thiếu niên, đuôi lông mày anh hơi cong lại, chẳng rõ là do cảm giác tê cay sót lại của nước có ga k*ch th*ch vòm miệng hay vì bản thân anh vốn dĩ chưa bao giờ thấy thoải mái.
Con đường lát đá trong sân sau cơn mưa ẩm ướt, ánh nước lấp lánh trong màn đêm đen mờ mịt, từng giọt sương trên mái hiên chầm chậm rơi xuống.
Khi Hứa Chức Hạ lại ngẩng mặt lên lần nữa từ bát mì thì anh đã quay người vào nhà.
Vì trước đó đã khóc nên dưới ánh nến lay động nhẹ nhàng, vành mắt Hứa Chức Hạ trông vẫn còn hơi đỏ. Má cô phồng lên, nước sốt kho thịt dê đậm đà, sền sệt dính đầy quanh môi và đầu mũi.
Cô chớp đôi mắt đen láy, lặng lẽ l**m môi, hệt như một chú mèo hoa nhỏ chỉ cần một bát mì là đã được dỗ dành.
Sau khoảnh khắc nhìn nhau, Kỷ Hoài Chu đặt lon coca xuống. Anh ngồi vào bàn, cầm đũa lên gẩy gẩy sợi mì trong bát mình rồi cúi đầu ăn hai miếng, không nói lời nào.
Chu Thanh Ngô đi theo vào nhà, đặt túi xách đựng quần áo của Hứa Chức Hạ lên lưng ghế trống: “Bé con, mẹ tắm cho con nha?”
Hứa Chức Hạ vừa nhìn thấy bà ấy đã im lặng cúi gằm đầu xuống. Đôi đũa đâm vào bát mì, khuôn mặt cô còn chưa to bằng miệng bát nên nhìn cứ như sắp chôn vùi vào trong đó.
Chu Thanh Ngô thấy vậy thì dịu dàng nói: “Không cần giúp cũng không sao, con tự làm được không?”
Hứa Chức Hạ vẫn không hề lên tiếng trả lời.
Một khoảng im lặng dài trôi qua, cuối cùng Kỷ Hoài Chu chậm rãi lên tiếng: “Hỏi em đó.”
Anh vừa mở lời, Hứa Chức Hạ mới khẽ gật đầu.
Chu Thanh Ngô vô cùng cẩn trọng, nhận thấy cảm xúc kháng cự vô thức của cô, bà ấy chỉ đành bỏ qua những lời định khuyên nhủ và nói với Kỷ Hoài Chu: “Vậy thì cháu cứ giữ con bé thêm vài ngày nữa nhé, A Quyết.”
Kỷ Hoài Chu tiếp tục ăn mì, không hề đáp lời.
Tối hôm đó Kỷ Hoài Chu không đuổi Hứa Chức Hạ về, anh luôn là người như thế, không đồng ý nhưng cũng không từ chối.
Việc không nói gì, đôi khi là một sự bác bỏ nhưng đôi khi cũng là một sự ngầm cho phép.
Khi ấy, Hứa Chức Hạ vẫn chưa hiểu được sự im lặng của anh thuộc về loại nào.
Tối hôm đó Hứa Chức Hạ nằm lại trên chiếc giường của anh, ánh nến tắt lịm, nhưng vì có anh ở trong phòng nên bóng đêm đen kịt này dường như cũng không còn quá khó chịu.
Cô co quắp tay chân lại, tự cuộn mình trong chăn nệm.
Thực ra đêm tháng Sáu không hề lạnh, nhưng cô lại thích cảm giác an toàn khi có trọng lượng gì đó đè lên người.
Hứa Chức Hạ ngoan ngoãn nhắm mắt lại, trước khi cô chìm vào giấc ngủ, người đang nằm dưới sàn bất ngờ hỏi: “Em không nói được hay là không muốn nói?”
Chậm nửa nhịp, Hứa Chức Hạ mới nhận ra anh đang nói chuyện với mình.
Hứa Chức Hạ lại nhớ đến câu “đồ xui xẻo” mà cô thường hay nghe thấy ở cô nhi viện. Cô chỉ là một đứa trẻ nên vô thức trốn tránh khi gặp phải vấn đề.
Do dự vài giây, Hứa Chức Hạ nhỏ giọng giò xét gần như thì thầm: “Chỉ nói với anh trai thôi…… có được không ạ?”
Chỉ với một câu nói rằng cô bé chỉ muốn nói chuyện với mỗi mình anh, trong bóng tối, Kỷ Hoài Chu đã khẽ mở mắt.
Thế giới của một người chính là phạm vi mà người đó có thể cảm nhận được tình yêu. Khi tình yêu không còn, đó là lúc thế giới sụp đổ.
Kỷ Hoài Chu đã chứng kiến thế giới của mình sụp đổ, nhưng chưa từng có ai đến che đi đôi mắt anh.
Những thân cây phá đất mọc lên, từng thân thẳng đứng như những chiếc gai của mặt đất. Tán lá dày đặc đan xen thành một tấm lưới lớn, bao vây ánh nắng muốn xâm nhập, kể từ đó, thế giới của anh biến thành khu rừng nguyên thủy nhất.
Âm u đáng sợ, không thấy ánh mặt trời.
Nội tâm anh cũng vặn vẹo, hắc hóa, trở thành một con sói dữ thấy ai cũng cắn xé.
Trong cái vùng đất nguyên thủy này, anh là sinh mệnh duy nhất mà Hứa Chức Hạ gặp được. Chú thỏ non không nơi nương tựa như Hứa Chức Hạ ngước nhìn anh, đôi mắt đẫm lệ.
Khi anh nhe nanh một cách hung dữ, cô lại khập khiễng nhảy đến, sợ hãi vùi mình vào chiếc đuôi lông xù của anh, không dám nhìn thế giới bên ngoài.
Ngay khoảnh khắc chiếc răng nanh sắc nhọn sắp đâm vào cổ cô, anh đã chần chừ.
Sự đáng yêu của cô không đủ để làm anh mềm lòng, điều khiến anh phải nhượng bộ chính là cái căn nguyên của cảm xúc đã tuột khỏi tầm kiểm soát của anh. Nó đã xuất hiện trong cơn mưa vừa rồi, hoặc đêm nay, hay có lẽ là một khoảnh khắc nào đó khi họ gặp nhau ở khu Cảng.
Bởi vì dáng vẻ ngây thơ khờ dại, nhận sói làm bố của cô quá giống với chính anh của ngày xưa.
–
Trong túi xách tay Chu Thanh Ngô mang đến không chỉ có quần áo mà còn có một chiếc cặp sách nhỏ, bên trong là sách truyện tranh, dụng cụ tô màu và một chiếc máy nghe nhạc cầm tay đã chuẩn bị sẵn cho Hứa Chức Hạ.
Trước khi rời đi tối qua, Chu Thanh Ngô đã nói: “Vậy thì bé con sẽ ở đây vài ngày nhé. Buổi sáng con cứ đến học viện học viết chữ với ông bà có được không? Để anh trai đi cùng con.”
Hứa Chức Hạ đã ghi nhớ kỹ câu nói này.
Cô muốn ở lại đây, vì vậy sáng sớm ngày hôm sau đã tự giác thức dậy.
Hứa Chức Hạ vụng về tự mình rửa mặt sạch sẽ trong nhà vệ sinh, khi quay lại phòng, chàng thiếu niên vẫn chưa thức dậy.
Anh dường như ngược lại với cô, khi ngủ không thích có vật gì đè lên người. Chăn luôn bị kéo bung ra, một chân cong lại, đầu gối tì lên nệm, nửa mặt nghiêng lún sâu vào gối và vẫn nhíu mày không hề giãn ra.
Như mọi khi, Hứa Chức Hạ ngồi xổm xuống bên cạnh anh.
Cô vừa chờ anh tỉnh dậy vừa ngơ ngác suy nghĩ, Chu Thanh Ngô cho phép cô ở đây vài ngày.
Vài ngày là bao nhiêu ngày?
Cô im lặng, rất cẩn thận nhưng có lẽ vẫn tạo ra chút tiếng động, chẳng bao lâu sau Kỷ Hoài Chu đã tỉnh dậy.
Hứa Chức Hạ cầm một chiếc dây buộc tóc hình hoa nhỏ, ánh mắt long lanh nhìn anh: “Anh trai ơi, em không biết tết tóc……”
Vừa mở mắt ra đã thấy cô ở ngay trước mặt, Kỷ Hoài Chu cũng không còn thấy lạ nữa.
Điều bất ngờ là cô đã tự mình mang giày, thay chiếc váy yếm liền thân màu trắng hồng sạch sẽ và chiếc ba lô tai thỏ nhồi bông màu hồng sen đang nằm trên lưng cô.
Rõ ràng là cô đang đứng đợi anh đưa đi học. Mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi mà không cần thúc giục, một chút cũng không làm phiền anh, tính ra cũng xem như tiết kiệm công sức.
Chỉ có điều mái tóc dài đen bồng bềnh vẫn buông xõa trước ngực.
Kỷ Hoài Chu ngồi bật dậy, mơ màng liếc nhìn chiếc dây buộc tóc. Anh không hề hung dữ, chỉ hơi khó chịu vì bị đánh thức, hơi thở sau khi tỉnh giấc vẫn còn lười nhác: “Nếu em dám bảo tôi tết tóc cho em, tôi sẽ quăng em ra ngoài đấy.”
Anh đâu phải anh ruột của cô, sao phải lo cả việc tết tóc cho cô chứ?
Kỷ Hoài Chu dùng tay cào vài cái lên mái tóc đuôi sói rối bời, cầm quần áo cần thay rồi bước về phía nhà vệ sinh.
Hứa Chức Hạ nhìn theo bóng lưng cao ráo của chàng thiếu niên đang đi xa rồi cúi đầu nhìn chiếc dây buộc tóc hình hoa xinh đẹp trong tay một lát, sau đó ngoan ngoãn đặt nó trở lại vào túi xách.
Giữa buổi sáng và trưa, ánh sáng mặt trời thật vừa vặn, nhiệt độ đã tăng hơn những ngày mưa âm u trước đó vài độ. Nắng rọi lên da ấm áp, đã mang theo vài phần cảm giác sắp sửa vào Hè.
Hôm nay trời nắng nóng, Kỷ Hoài Chu đội một chiếc mũ lưỡi trai che đầu, anh không khoác áo ngoài mà chỉ mặc chiếc áo ba lỗ không tay màu xanh quân đội. Chiếc quần short túi hộp màu đen dài ngang gối, để lộ cánh tay và bắp chân có làn da lạnh, thon gọn và cao ráo, cơ bắp săn chắc và mượt mà đầy sức sống.
Anh đút tay trong túi quần, vì anh không mặc áo có tay nên Hứa Chức Hạ nắm lấy cổ tay anh.
Cô mặc chiếc váy yếm, sau lưng là chiếc ba lô tai thỏ màu hồng sen. Cô bước hai bước mới bằng một bước chân của anh, ngoan ngoãn đi theo anh dọc con hẻm dài.
Tại các ngã rẽ ở đầu phố cuối hẻm hay bờ sông, luôn có vài bà cô mặc quần áo vải đũi ngồi rôm rả trò chuyện. Thấy hai người họ đi qua, ai nấy đều không kìm được mà liếc nhìn, lén lút đánh giá.
Người anh trai trông có vẻ lập dị và u ám, mang vẻ hoang dã, trông thật khó dây vào.
Cô em gái thì nhỏ nhắn và rụt rè, dáng vẻ xinh xắn, ngoan ngoãn đi theo anh trai, nhìn thôi đã thấy dễ thương.
Hai anh em, một con sói một con thỏ, sự đối lập thật là rõ ràng và thú vị.
“Cũng không biết mà chải tóc cho em gái nữa.”
“Đây lại là cậu chủ nhỏ nhà ai vậy……”
Các bà cô bắt đầu thì thầm dò hỏi nhau.
Trước tiên, Kỷ Hoài Chu đưa Hứa Chức Hạ đến quán trà sáng ở đầu trấn, gọi hai xửng xíu mại, thêm một chai sữa cho cô bé. Còn anh thì dùng một lon nước có ga ướp lạnh để k*ch th*ch đại não.
Anh dường như rất thích thú với kiểu tự hủy hoại từ từ này, hệt như một đao phủ tự đặt dao lên cổ mình.
Khi đến học viện Tu Tề, Giang Đông Thanh vui vẻ chào đón họ vào, bà ấy bảo họ cứ tự nhiên như nhà mình, muốn ngồi đâu thì ngồi.
Kỷ Hoài Chu vốn dĩ không phải là người khéo léo trong giao tiếp, chưa bao giờ bận tâm nói những lời khách sáo.
Ở cửa gian nhà chính mở toang, một chiếc ghế mây bập bênh được đặt hướng về phía giếng trời. Anh ngả mình lên đó, nhắm mắt ngủ thiếp đi.
Tưởng Kinh Xuân nghe thấy tiếng động, tay cầm một tập giấy luyện thư pháp bút cứng từ trong nhà trong đi ra, tinh thần phấn chấn: “Con gái đến rồi à, lại đây nào, chúng ta học bút cứng trước rồi mới luyện bút lông nhé.”
“Đứa bé mới có năm tuổi thôi, chữ viết và nét bút còn chưa nhận biết hết mà.”
“Qua sinh nhật là sáu tuổi rồi, Hạ Chí mà, không còn mấy ngày nữa đâu. Thanh Ngô đã nói rồi.”
Tưởng Đông Thanh lườm ông ấy: “Sáu tuổi thì cũng phải nhận mặt chữ trước đã!”
Nhận được ánh mắt ám chỉ từ người bạn đời truyền sang, Tưởng Kinh Xuân như bừng tỉnh khỏi giấc mộng. Ông ấy nhớ ra Hứa Chức Hạ trước đây ở khu Cảng, nên chắc chắn cô nhi viện không dạy chữ giản thể.
Ông ấy lập tức quay vào trong nhà: “Đợi một chút, ông đi đổi hai cuốn sách đã.”
Trong lòng Hứa Chức Hạ, tất cả mọi người trừ Kỷ Hoài Chu ra đều là người lạ.
Cô muốn bám riết lấy Kỷ Hoài Chu, nhưng ông bà hoàn toàn không đáng sợ như bảo mẫu hay giáo viên ở cô nhi viện. Ngược lại trông họ rất hiền lành, toát ra sự dịu dàng và che chở, khiến Hứa Chức Hạ không hề có cảm giác đặc biệt bài xích.
Quan trọng nhất là chàng thiếu niên vẫn luôn trong tầm mắt của cô, thấy anh không rời đi, cô mới chần chừ ngồi xuống học.
Những chú cá chép cảnh nhỏ đang vui đùa trong chiếc chum gốm sứ khua lên âm thanh khó mà nắm bắt được. Trên bờ tường lát ngói xanh, thỉnh thoảng có một chú mèo nhỏ im lặng đi ngang qua. Một điệu nhạc Giang Nam du dương từ quán trà xa xôi uốn lượn vọng vào sân, xung quanh là một vẻ an yên, tĩnh lặng.
Tranh thủ lúc Hứa Chức Hạ đang ôn bài, Tưởng Kinh Xuân đứng dậy vận động. Ông ấy lấy nửa bát nhỏ thức ăn cho cá rồi đi ngang qua chiếc ghế bập bênh: “Chàng trai à, không thấy buồn chán sao?”
Kỷ Hoài Chu ngửa cổ, chẳng buồn nhúc nhích, ánh nắng chiếu lên vành mũ tạo thành bóng râm trên mí mắt khiến anh trông càng giống một vật thể ch,ế,t vô tri, không nóng không lạnh.
Tưởng Kinh Xuân thong thả bước đến trước chum nước, nhàn nhã cho cá ăn: “Muốn đọc sách gì, tôi lấy cho cậu một quyển nhé?”
Theo tính khí của Kỷ Hoài Chu, tuyệt đối không thể đáp lời này.
Khi anh lười biếng không muốn để tâm đến ai, phần lớn là do tâm trạng anh vẫn còn tương đối ổn. Còn bình thường, hễ mở lời thì mỗi chữ thốt ra đều sắc nhọn như kim.
Thế nên giống như lúc này, anh lạnh lùng buông ra mấy chữ.
“Eight Million Ways*……”
(*Tám triệu cách……)
Giọng anh trầm thấp, chậm rãi mà lại có chút thiếu kiên nhẫn. Âm thanh như lăn tròn trong cổ họng, cách phát âm tiếng Anh lại quá chuẩn xác, mỗi từ đều tràn ra cái cảm giác quyến rũ với giọng điệu kéo dài.
Ngừng một giây, anh lại tiếp tục: “To die*.”
(*Để ch.ết.)
Tưởng Kinh Xuân quay đầu lại nhìn anh, không hề vội vàng, thong thả cho cá ăn hết thức ăn trên tay. Sau đó, ông ấy quay vào trong nhà trong. Khoảng hai phút sau, ông ấy trở ra với một quyển sách trên tay.
Ông ấy dùng gáy sách chạm vào cánh tay Kỷ Hoài Chu, khẽ “Ừhm” một tiếng với âm cuối hơi cao lên, ý bảo anh cầm lấy.
Kỷ Hoài Chu mở hé mí mắt. Ngay trước mắt anh là một cuốn tiểu thuyết gốc tiếng Anh có tựa đề《Eight Million Ways to Die*》.
(*Tám Triệu Cách Ch.ết).
Lúc đó trong nước không thể mua được cuốn sách này, bản dịch tiếng Trung cũng chưa hề xuất bản. Anh vốn cố ý làm khó dễ, cố tình khiến người ta phải bực mình, nhưng không ngờ lại thực sự có, hơn nữa còn được mang đến cho anh.
Anh ngước mắt nhìn, tầm mắt dừng lại trên mặt Tưởng Kinh Xuân một lát rồi hiếm hoi đưa tay ra nhận lấy cuốn sách.
“Những điều trong sách thì đọc cho biết thôi, đó là giá trị quan của người khác.”
Kỷ Hoài Chu khẽ xoay bìa sách, cuốn sách xoay tròn trên đầu ngón tay anh như một quả bóng rổ. Nó hơi nặng, xoay vài vòng là muốn rơi, lại bị anh dùng lòng bàn tay đỡ lấy. Anh lại tiếp tục chán nản dùng ngón tay đẩy cho nó xoay lần nữa, cứ lặp đi lặp lại như vậy.
Có lẽ vì cảm thấy ông già này khá thú vị, dù không hề hứng thú lắm nhưng anh vẫn nể mặt đáp lại một câu: “Giá trị quan của tôi chính là chờ chết.”
Tưởng Kinh Xuân không để tâm, trêu đùa: “Tuổi còn nhỏ mà đã tiêu cực thế này, là do thời tiết không tốt sao?”
“Tốt chứ,” Kỷ Hoài Chu lười biếng xoay cuốn sách: “Là một thời tiết tốt để đi ch.ết.”
Người Trung Quốc kiêng kỵ cái ch.ết, càng kiêng kỵ thì anh càng cố tình giẫm vào vùng cấm. Tưởng Kinh Xuân sớm đã nhận ra anh đang kiếm chuyện gây sự, chỉ là không ngờ cậu nhóc này lại ngoan cố và cứng đầu đến thế.
Quan sát anh một lúc, ánh mắt Tưởng Kinh Xuân ánh lên nụ cười thấu hiểu lòng người.
“Là không muốn sống, hay không muốn sống như thế này?”
Cuốn sách trong tay Kỷ Hoài Chu lập tức ngừng xoay, bìa sách vừa vặn hướng lên trên.
Đúng lúc này, Tưởng Đông Thanh ở trong nhà bếp gọi Tưởng Kinh Xuân một tiếng, bảo là sắp hầm món thịt tươi măng muối nhưng củi không còn nhiều, nhờ ông ấy sang nhà bên cạnh mượn ít.
Tưởng Kinh Xuân đáp lời, nhưng không đi ngay.
“Ở Đường Lý sẽ có tuyết rơi vào mùa Đông. Nếu không nếm thử rượu Đông Nhưỡng vào tháng Chạp thì thật đáng tiếc,” Tưởng Kinh Xuân vỗ vai Kỷ Hoài Chu, ông ấy không khuyên anh hãy sống tốt, chỉ nói đùa một cách nửa vời: “Cố gắng thêm chút nữa, sống đến mùa Đông đi.”
Tưởng Kinh Xuân ra khỏi học viện, Tưởng Đông Thanh đang nấu canh trong nhà bếp, xung quanh giếng trời chỉ còn lại hai người: Hứa Chức Hạ và Kỷ Hoài Chu.
Trước chiếc bàn ở gian nhà chính mở toang, Hứa Chức Hạ ngồi ở đó, tay cầm bút chì, từng nét từng nét viết những chữ mà Tưởng Kinh Xuân vừa dạy. Cô thỉnh thoảng lại ngước nhìn ra ngoài về phía Kỷ Hoài Chu.
Anh vẫn ngả lưng nằm đó, chiếc ghế bập bênh khẽ rung rinh. Cô bé không thể nhìn rõ biểu cảm dưới vành mũ của anh.
Hương thơm của món thịt tươi măng muối từ gian bếp theo gió bay khắp sân. Ngửi mãi, Hứa Chức Hạ cảm thấy hơi đói bụng, bụng cô khẽ kêu “ùng ục”, không biết có bị ai nghe thấy không.
Cô thò tay vào ba lô lục lọ, không có đồ ăn vặt, nhưng cô lại mò ra được chiếc máy nghe nhạc cầm tay.
Bên trong có một cuộn băng cassette học tiếng Anh lớp Một. Hứa Chức Hạ không biết, tò mò ấn vài cái, chiếc máy đột nhiên phát ra một giọng nói đặc biệt, rõ ràng và chuẩn xác.
“Bye Bill.”
Hứa Chức Hạ ngây người nhìn chằm chằm vào vật thể kỳ lạ này, tưởng rằng mình đã gây họa làm hỏng nó. Cô bé lon ton chạy đi tìm Kỷ Hoài Chu.
“Anh trai ơi, nó biết nói.”
Giọng nói mềm mại của đứa trẻ mang chút hoảng sợ, Kỷ Hoài Chu liếc mắt qua. Anh nghĩ cô bị thứ gì đó dọa sợ, nhưng hóa ra đó chỉ là một chiếc máy nghe nhạc.
Anh vừa cạn lời vừa khó hiểu: “Em không biết nói theo nó à?”
Hứa Chức Hạ ngây thơ kèm theo hoang mang: “Không biết……”
Kỷ Hoài Chu nhắm mắt lại, cả người nhàn nhã ngả ra sau trên chiếc ghế bập bênh, vắt chéo một chân, lười biếng không hề để tâm: “Tôi cũng không biết, em tự nghe đi.”
Hứa Chức Hạ muốn ở lại bên anh nên không quay về, cứ đứng cạnh anh, cúi đầu nghiên cứu chiếc máy nghe nhạc. Cô vô tình ấn đúng nút phát lại, giọng đọc của người phụ nữ lại vang lên: “Bye Bill.”
Hứa Chức Hạ ngơ ngác, thử đọc theo: “Ba…… bi……”
Cô lại ấn nút phát lại lần nữa, “Bye Bill.”
“Bo…” Hứa Chức Hạ không tìm được manh mối, giọng dần nhỏ lại: “Bo bo.”
Khóe môi Kỷ Hoài Chu không kìm được hiện rõ rãnh cười, hơi thở anh thoát ra một tiếng cười khẽ.
Lúc cô bé học đọc phát âm, sự ngây ngô nhưng lại nghiêm túc một cách mơ hồ thật sự có chút hài hước, cũng có chút đáng yêu.
“Baby girl.” Giọng anh trầm thấp, lười biếng, nửa cười nửa không trêu chọc.
Chiều cao của Hứa Chức Hạ đứng cạnh chiếc ghế bập bênh vừa vặn có thể nhìn thấy được khuôn mặt đẹp trai dưới vành mũ của chàng thiếu niên. Cô chớp đôi mắt trong veo, chăm chú nhìn anh đang nhắm mắt nghỉ ngơi, phát ra một tiếng thắc mắc mềm mại, ngọt ngào.
“Bảo em là cái đuôi nhỏ.”
Kỷ Hoài Chu hờ hững thốt ra một câu, anh chống hai chân xuống đất, đột nhiên đứng dậy. Anh đưa tay kéo vành mũ để chiếc mũ lưỡi trai ngay ngắn lại rồi cất bước chân dài đi ra ngoài.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, anh chợt cảm thấy việc nuôi nấng một nhóc con dường như cũng khá thú vị.
Hứa Chức Hạ vội vàng đeo ba lô lên, chạy về phía anh. Không biết có phải vì anh đã chủ động bước chậm lại không mà Hứa Chức Hạ rất dễ dàng đuổi kịp anh.
Anh không quay về chỗ ở mà đi về hướng đầu trấn, nơi Hứa Chức Hạ đã đi lạc tối qua.
Xa hơn một chút có một tiệm tạp hóa nhỏ.
Khi đi ngang qua bức tường đầu ngựa có viết dòng chữ “Trấn Đường Lý”, đám con trai kia lại đang đá bóng. Bọn họ chỉ lớn hơn Hứa Chức Hạ vài tuổi nhưng lực chân rất mạnh.
Giữa tiếng cười đùa, một quả bóng da đen trắng bay lượn khắp nơi.
Cơn ác mộng ở cô nhi viện ập đến, trong đầu Hứa Chức Hạ cứ tái hiện hình ảnh Felix rê bóng, nham hiểm nhe răng cười nhìn cô.
Tim Hứa Chức Hạ thắt lại, đôi chân nặng trĩu, cứng đờ không dám tiến lên.
Cô vô thức siết chặt thêm lực tay đang nắm lấy ngón tay anh.
Kỷ Hoài Chu quay đầu lại đối mặt với Hứa Chức Hạ. Anh còn chưa kịp nói gì thì đột nhiên lại bị một thứ khác thu hút, tầm mắt anh ngước lên cao.
Sắc mặt anh lập tức thay đổi.
Tầm mắt Kỷ Hoài Chu đứng hình tại một điểm không xa phía sau lưng Hứa Chức Hạ.
Cách cổng trấn khoảng hơn trăm mét có một ngôi cổ tự thâm sâu trang nghiêm. Nơi đây ít người qua lại, hương khói không quá thịnh, cổng chùa vắng vẻ, đìu hiu.
Bên ngoài bức tường vàng, một chiếc Rolls-Royce lặng lẽ đậu ở đó.
Chiếc xe hơi màu đen bóng loáng, sang trọng và xa hoa. Bản thân khí chất của nó vốn đã cao ngạo, khi xuất hiện gần khu vực trấn nhỏ cổ kính, mang đậm hơi thở cuộc sống này lại càng trở nên nổi bật hơn.
Người đàn ông mặc vest chỉnh tề đứng bên ngoài xe, chính là Chung Tù.
Nhiệt độ trong đồng tử Kỷ Hoài Chu hạ xuống một cách nhanh chóng.
Hai phút sau, Chung Tù bước đến trước mặt anh.
“Cậu chủ nhỏ.” Chung Tù cúi đầu chào hỏi anh rồi nói thêm: “Lâu rồi không gặp.”
Họ quen dùng tiếng Quảng hoặc tiếng Anh để giao tiếp, Hứa Chức Hạ không hiểu một chữ nào, nhưng khi Kỷ Hoài Chu dùng tiếng Quảng để chửi cút đi, cô có thể cảm nhận được sự nóng giận và căm ghét đang dồn nén trong anh.
“Chúng tôi đến đón cậu về.” Chung Tù nhấn mạnh: “Về nước Anh, đây là quyết định của Chủ tịch Kỷ.”
Kỷ Hoài Chu nghiêng đầu cười khẩy rồi quay đầu lại nhếch môi mỉa mai: “Cúi đầu thì chẳng còn sức sống gì cả. Ông già đó vẫn đáng ngưỡng mộ nhất khi đại nghĩa diệt thân đấy, oai phong biết bao.”
“Cậu chủ nhỏ, thực ra chỉ cần cậu đồng ý——”
“Tôi không muốn nói lần thứ hai.”
Chung Tù muốn nói lại thôi, bất giác nhìn quanh môi trường xung quanh.
Tường trắng ngói đen, cầu nhỏ nước chảy, nơi này quả thực mộc mạc và cổ kính, là một vùng quê. So với những biệt thự, trang viên khắp thế giới của nhà họ Kỷ thì giống như việc đem đá so với vàng, thủy tinh so với kim cương, nghe thôi đã thấy quá lời rồi.
Dù không được nhận về nhà họ Kỷ, nhưng từ nhỏ anh cũng đã được sống an nhàn sung sướng, dùng vàng thật bạc trắng nuôi lớn.
Một vương tôn công tử lớn lên trong nhung lụa, sao có thể chịu nổi cơm rau đạm bạc nơi này.
Chung Tù nói bằng giọng chân thành: “Cậu ở một mình nơi đây, nếu cậu Hoài Sùng biết được, nhất định sẽ đau lòng.”
Trong mắt Kỷ Hoài Chu lóe lên ý lạnh, anh thầm siết chặt nắm đấm.
“Cậu Hoài Sùng cũng rất hy vọng cậu quay về.”
Đầu Hứa Chức Hạ đang tựa sát bên hông Kỷ Hoài Chu. Khi nói, Chung Cừu liếc nhìn Hứa Chức Hạ một cái đầy ẩn ý, dường như cảm thấy chuyện anh lén lút nuôi một cô bé là một sự lố bịch.
Thật chẳng ra thể thống gì.
Thế nhưng Chung Tù không làm lớn chuyện, chỉ tiếp tục: “Chẳng lẽ cậu không muốn sống cùng thiếu gia Hoài Sùng như trước đây sao?”
Mấy câu liên tiếp của Chung Tù như lưỡi dao khắc, từng nét từng nét khắc chữ “Tha thứ” lên xương cốt Kỷ Hoài Chu, muốn cơ thể anh phải học thuộc từ này.
Kỷ Hoài Chu cụp mắt, vẻ mặt lạnh lùng và bình tĩnh.
Nhưng anh lại không nói thêm một lời cay nghiệt nào nữa.
Ánh nắng màu cam đỏ lúc ba bốn giờ chiều xuyên qua mặt sông, xuyên qua kẽ lá cây, kéo dài bóng dáng của con người.
Nhà ai đang mở tivi, tiếng nhạc đệm của bộ phim “Bến Thượng Hải” từ kênh điện ảnh vang lên, trong trẻo và rõ ràng lạ thường.
Giọng lồng tiếng bản Quốc Ngữ của thời đại đó tròn vành rõ chữ và thành thục. Hứa Văn Cường do Trương Quốc Vinh thủ vai đang ẩn danh và nói ra lời thoại không thể tuyên bố công khai:
“Với Thượng Hải mà nói, tôi chẳng qua chỉ là một khách qua đường. Tôi làm xong việc cần làm sẽ rời khỏi nơi này……”
Tim Hứa Chức Hạ đập loạn không yên, đầu cô bé gần như vùi hẳn vào phần eo sau của Kỷ Hoài Chu.
Sự bất an có thể là do những cậu con trai gần đó vẫn đang tiếp tục đá bóng, cũng có thể do không hiểu tiếng Quảng mà sinh ra nỗi sợ hãi trước vận mệnh chưa biết trước.
Hứa Chức Hạ quá rụt rè nên không hề để ý thấy người đàn ông cổ hủ đó đã rời đi từ lúc nào. Khi hoàn hồn, chàng thiếu niên đã đi xa hai bước.
“Đi theo nào.” Kỷ Hoài Chu lười nhác quay đầu lại. Dưới ánh mặt trời ngược chiều đang lặn về phía Tây, mắt anh hơi khép lại, không thể nhìn rõ tâm trạng lúc này của anh. Chỉ khi đặt biệt danh cho cô, mới có thể nghe ra cái giọng bất cần, ngông nghênh và phớt đời của anh.
“Cái đuôi nhỏ.”