Lễ mừng Thiên chúa Giáng sinh năm 1967 tại Hà Nội chẳng hứa hẹn một sự náo nhiệt thường có. Quá nửa số dân đã sơ tán khỏi thành phố. Người ở lại phần nhiều là cán bộ nhân viên các cơ quan Trung ương và địa phương, dân quân tự vệ, cộng với một số dân thường vì lý do này hay lý do khác không thể đi được. Phố xá mất đi vẻ sầm uất. Nhiều nhà đóng im ỉm. Bên trên mái đá đen các công thự cũ thời thuộc địa, trên nóc các nhà cao tầng mới xây, tua tủa nòng đại liên trung liên ngóc lên trời xanh nhiệt đới. Vỉa hè lỗ chỗ hầm trú ẩn cá nhân làm bằng ống cống.
Chiến tranh thực sự chưa dạo bước trên ba mươi sáu phố phường, nhưng bóng đen của nó đã trùm lên mái ngói âm dương thanh bình của kinh thành Thăng Long cổ kính. Trong phố vắng những người ở lại, phần lớn thuộc lớp tuổi trẻ, quần áo gọn gàng, dáng tất bật, cắm cúi đi sát tường, khẩu AK trên vai. Phóng viên AFP ở Hà Nội nhận xét: “Hà Nội bình thản và nhanh chóng hòa nhập với nếp sống thời chiến, cho dù ở bờ bên kia Thái Bình Dương Lầu Năm góc chưa vội vã tuyên bố chiến tranh với nước Việt Nam cộng sản”. Hà Nội sẵn sàng để chống trả.
Người Hà Nội làm việc, ăn, ngủ, yêu đương, sinh con đẻ cái trong bầu không khí căng thẳng chốc chốc lại vỡ ra bởi tiếng nổ của mọi cỡ súng lớn nhỏ rộ lên từng đợt mỗi khi máy bay Mỹ bay ngang; trong tiếng cô phát thanh viên quen thuộc vang vang trên các phố vắng “Ðồng bào chú ý! “Ðồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội ba mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội hai mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội mười lăm cây số!”; dưới những vệt khói trắng mỏng manh của tên lửa đất đối không SAM-1, SAM-2… vun vút kẻ chỉ lên trời xanh nhiệt đới.
Cuộc xung đột vũ trang của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn bắt đầu bằng những trận đánh lẻ tẻ từ đầu thập niên 60, được Hà Nội khuyến khích và yểm trợ, đã mau chóng lớn lên thành nội chiến. Người Mỹ nhảy vào, biến nó thành chiến tranh Việt-Mỹ, thành cuộc đối đầu giữa hai phe cộng sản và tư bản thế giới. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu đã kéo dài nhiều năm, cuộc chiến tranh nóng ở Việt Nam còn kéo thêm một số quốc gia vào lò lửa của nó, hứa hẹn một sự dai dẳng không biết khi nào mới kết thúc. Trên lãnh thổ Bắc Việt Nam cuộc giao tranh độc đáo và dữ dội chưa từng có giữa bầu trời và mặt đất, bắt đầu từ năm 1965, là sự phát triển tất yếu của cuộc chiến tranh cục bộ nọ. Bằng những trận không tập ồ ạt, rất ác liệt, không ngưng nghỉ, tổng thống thứ 36 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ quyết tâm bắt miền Bắc Việt Nam phải quỳ gối trước sức mạnh của vũ khí (4).
Ðêm trước, người Hà Nội thở phào nhẹ nhõm nghe giữa lao xao sóng điện đài gần đài xa tin các bên tham chiến trên bán đảo Ðông Dương đã thỏa thuận được với nhau một ngày ngừng bắn nhân dịp kỷ niệm Chúa Kirixitô ra đời. Lễ mừng Thiên Chúa Giáng sinh 1967 đến với Hà Nội như một ngày hòa bình bất ngờ, một ngày không bình thường trong cuộc chiến, không phải nhờ ơn người mà nhờ ơn Chúa.
Thành phố yên tĩnh như thể chưa bao giờ nó yên tĩnh như thế. Từ sáng sớm không có còi báo động. Chỉ có tiếng loa lanh lảnh nhắc nhở mọi người cảnh giác trước hành động bất trắc của kẻ thù. Quanh Hồ Hoàn Kiếm dân đi lại nhộn nhịp hơn ngày thường. Nhân đợt ngưng chiến ngắn ngủi, những người sơ tán gần thành phố hối hả đạp xe về nhà. Họ tranh thủ khoảng thời gian yên tĩnh ngắn ngủi để đi khám bệnh, đi mua bán, thăm hỏi người thân, đến chơi với bè bạn, ăn với nhau một bữa cơm, uống với nhau một tuần trà, để rồi sớm hôm sau lại tất tả lên đường. Bên miệng hầm tập thể vắng bóng những bà mẹ nhỏ bé bế con nép dưới những khẩu hiệu nhiều kiểu nhiều cỡ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nước hồ phẳng lặng. Tháp Rùa hiện lên không rõ nét trong sương mù lãng đãng. Gió bấc thổi nhẹ. Trời se lạnh. Hà Nội vào đông muộn hơn mọi năm.
Tôi đang thong thả đạp xe từ Hàng Trống qua Hàng Bài thì bỗng nghe tiếng người gọi tên mình. Mải suy nghĩ tôi không nghe thấy ngay, đến khi nghe thấy thì đã đạp quá mất một quãng. Người gọi tôi dừng xe, khua tay loạn xạ để tôi nhận ra anh ta. Thấp béo, đầu sùm sụp cát-két dạ trên cái mặt tròn, trong bộ đồ bảo hộ lao động nhàu nhã, anh ta hớn hở khi thấy tôi quay mặt về phía mình. Ai thế nhỉ?
Ðành phải tạt vào vỉa hè, dừng xe trước một cửa hàng đóng im ỉm trong những cánh gỗ nham nhở, trước kia là hiệu chuyên doanh đồ sơn mài.
– Gớm, tìm anh gần chết! – anh chàng phanh xe lại ngay trước mặt tôi, cười tít, người chúi về phía trước, hai mắt chỉ còn là hai đường chỉ – Anh về ngay cơ quan, thủ trưởng đang đợi anh. Nhanh lên, để kịp tiếp khách! Em qua nhà, chị nói anh vừa đi, em phóng theo ngay, nhưng không kịp…
Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài, cơ quan cấp trên của báo ảnh “Việt Nam”, thỉnh thoảng lấy tôi qua làm việc cho ủy ban. Công việc tôi được giao là giúp thủ trưởng Ủy ban tiếp khách. Người ta dùng tôi vào việc này chẳng qua để cho đỡ tốn, bớt được một phiên dịch. Chả là khách đến phần nhiều từ Liên Xô hoặc các nước Ðông Âu, đều biết nói tiếng Nga, là thứ tiếng tôi thông thạo. Tôi lại có thể kiêm hướng dẫn viên du lịch đưa khách đi thăm danh lam thắng cảnh thủ đô hoặc các địa phương, lại có thể giới thiệu cho họ đôi nét về lịch sử Việt Nam. Công việc kể ra cũng dễ chịu, nếu như khách toàn là nghệ sĩ hoặc nhà hoạt động văn hóa. Nhưng đôi khi rơi vào số khách lại là những nhà chính trị được cử sang lãnh đạo văn nghệ. Những người khách này lập tức phương xa, phần lớn lịch sự và phong nhã, mang lại cho tôi những giờ phút vui vẻ và hơi hướng xứ lạ, là cái bao giờ cũng làm cho cuộc sống hàng ngày đơn điệu bớt tẻ nhạt.
Ðiều làm tôi ngỡ ngàng là khoảng nửa năm nay người ta đã không còn dùng tôi vào việc tiếp khách nữa, không hiểu sao nay lại gọi đến?
Kể từ năm 1964, khi cuộc đối đầu Trung Xô trở thành căng thẳng, thì bầu không khí chính trị ở Việt Nam cũng nóng lên theo. Khắp nơi người ta la lối về nguy cơ của chủ nghĩa xét lại hiện đại và sự cần thiết phải chống lại nó. Những cán bộ bướng bỉnh dám phát biểu những lời nói không vừa tai nhà cầm quyền về bất cứ vấn đề gì, không cứ về đường lối đối nội hay đối ngoại của Ðảng, đều bị lập tức coi là phần tử xét lại, chí ít thì cũng là phần tử hữu khuynh không đáng tin cậy. Tôi bị liệt vào số đó.
– Anh hôm nay không bận gì đấy chứ?
Một câu hỏi để mà hỏi. Vớ vẩn. Ủy ban đã cho gọi thì tôi nhất định phải đi rồi, có thoái thác cũng chẳng được.
– Anh về trước đi! – tôi càu nhàu – Tôi qua nhà một lát, thay quần áo cái đã.
Tôi đã có chương trình cho hôm nay. Tôi không thích nó bị phá vỡ. Tôi đã tính đưa vợ con đi chơi. Ðược đi chơi trong một ngày hiếm hoi không có báo động thật là tuyệt. Chúng tôi sẽ đến thăm một người bạn cũ lâu không gặp. Có thể chúng tôi sẽ ăn cơm ở đó. Vợ tôi muốn cho các con đi cùng, nhân thể mua sắm mấy thứ lặt vặt.
Tôi ngán ngẩm nhìn thằng cha phá quấy. Chán quá, Ủy ban không báo trước để tôi có thể sắp xếp công việc của mình. Mà tay này ở đâu ra nhỉ? Có lẽ ở phòng bảo vệ. Ngoài bộ phận đó ra, có ai đi làm chủ nhật?
– Dào, chẳng sao đâu. – y nhe hàm răng cải mả, cười không có tiếng – Ðang đánh nhau, mặc thế nào chả được. Thế này tươm chán. Khách lại đang đợi.
Trên người tôi là cái áo bông xanh, cái quần ka ki, cả hai đều mới, nhưng nhàu nát. Ðã lâu chúng tôi quên hẳn là quần áo. Không ai trách ai vận đồ không có nếp. Thời chiến quần áo phẳng phiu quá, nếp là rõ quá, còn bị phê phán là sang trọng rởm. Nó là cái gì nếu không phải tàn dư của nếp sống tư sản? Tôi còn lưỡng lự, thì anh chàng đã trườn về phía tôi.
– Anh về làm gì?! – y nắm chặt ghi-đông xe tôi – Xe đến rồi kìa!
Một chiếc com-măng-ca Liên Xô phanh két bên cạnh tôi. Cửa xe bung ra. Hai thanh niên đen nhẻm phóng xuống. Không nói không rằng chúng kéo tôi lên xe. Tôi nhìn anh chàng vừa gọi tôi. Bộ mặt nhăn nhở biến mất, thay vào đó là đôi mắt cá và tiếng cười gằn:
– Lên xe ngay! Biết điều đừng chống cự!
Giờ thì tôi nhớ ra: thằng cha này thường lẽo đẽo theo tôi mấy ngày gần đây. Vận đồ bộ đội, cái xà-cột lủng lẳng bên hông, y lấp ló như một con chuột trong đám đông. Cũng trong thoáng ấy tôi nhìn thấy hơn một chục xe đạp tản ra từ chỗ chiếc com-măng-ca vừa đỗ. Ðó cũng là những tên tham gia vụ bắt cóc, nhưng sự việc diễn ra gọn gàng, chúng chưa phải động thủ. Mọi tình huống đã được lường trước, được sắp xếp trước, y như trong một phim gangster.
Không một người qua đường nào biết ở nơi này vừa xảy ra chuyện gì. Những chiếc xe đạp vẫn vun vút phóng qua. Trong tiệm đồng hồ, sau tủ kính, tôi nhìn thấy Sinh cắm cúi làm việc. Anh là người quen của tôi. Nếu anh ngẩng lên hẳn anh nhìn thấy tôi bị lôi lên xe. Nhưng anh không ngẩng lên. Hình ảnh ghi lại trong trí nhớ của tôi vào mấy giây cuối cùng là một người đàn bà bồng con vượt qua mũi xe. Ðứa bé ngủ say trong tấm ni-lông cứng quèo, má hồng lên trong gió bấc. Theo cái cách kỳ cục như thế, tôi trở thành kẻ tham gia cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế. “Thế là cái việc phải đến đã đến!”, tôi tự nhủ, ngả người trên tựa ghế xe, lòng hoàn toàn bình thản.
Không hiểu sao, vào đúng cái khoảnh khắc gay cấn nhất, tệ hại nhất trong đời mình, tôi không nhớ đến cái gì khác mà lại nhớ tới một câu nói nổi tiếng của Nguyễn Tuân (5): “Nước ta là một pháp trường trắng. Không có đầu rơi, không có máu chảy, nhưng có người chết!”.
Bác Nguyễn ơi, bác sai mất rồi. Pháp trường Việt Nam, kể từ năm 1945, không hề trắng. Ðã có đầu rơi, đã có máu chảy. Và có nhiều người chết. Bằng nhiều kiểu chết khác nhau. Bây giờ tôi mới hiểu Nguyễn Tuân thốt lên câu đó trong hoàn cảnh nào. Mấy năm trước, trong một phút phân thân, nhà văn già bỗng bàng hoàng nhìn thấy trước mắt mình một quần thể nhân sinh kỳ lạ không hiểu sao lại kết thành hàng ngũ để sống trong nghi kỵ và thù hằn, trong cuộc chiến không lúc nào ngưng nghỉ. Một cuộc chiến âm thầm, không tiếng súng, với những xác chết không thương tích, hoặc sống vật vờ, với bộ não vô dụng, như những dômbi (6).
Giờ đây, trong cuộc chiến mà Nguyễn Tuân nói tới, tôi đã thành con mồi của nó. Tôi đang được đưa đi đâu đây? Tới pháp trường nào?
Ðó là chủ nhật 24 tháng 12 năm 1967.
Tôi nhớ từng chi tiết của ngày hôm đó. Trong hồi tưởng, tôi thấy rõ mồn một, như trước mắt tôi mọi chuyện được diễn ra một lần nữa. Thời gian đang trôi đột ngột dừng lại. Như một cadre-stop trong cuốn phim đang chiếu. Nó là ngày bước ngoặt, ngày cắt đôi, ngày ranh giới của đời người. Về sau tôi mới biết cảm giác đó chẳng phải của riêng tôi – bất cứ ai từng bị bắt cũng nhớ từng chi tiết vụn vặt nhất của cái ngày đáng nguyền rủa đó.
Tôi ra khỏi nhà lúc chín giờ sáng và mất tăm từ đó. Cả nhà tôi bổ đi tìm, nhưng không thấy tôi ở bất cứ đâu, ở nhà họ hàng cũng như ở nhà bè bạn. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, vẫn biền biệt. Thẻ Nhà báo, giấy chứng minh nhân dân tôi thường mang theo người được tìm thấy trong ngăn kéo bàn viết. Như vậy, nếu chẳng may xảy ra tai nạn giao thông người ta cũng chẳng biết nạn nhân là ai.
Vợ tôi đạp xe khắp Hà Nội, đập cửa bè bạn báo tin dữ. Bè bạn tôi nháo nhác. Họ lao tới các bệnh viện, các trạm cấp cứu, xục tìm trong những nhà xác tanh tưởi với những xác chết đủ mọi dạng, trong mọi tư thế. Thời chiến, trong nhà xác la liệt cả đống thi thể vô thừa nhận, nhưng không ở đâu có xác tôi. Mẹ tôi bình tĩnh hơn mọi người. Bà im lặng, suy nghĩ. Không khí hoảng hốt trong gia đình không lây được sang bà. Ngay từ đêm đầu tiên không thấy tôi trở về nhà, mẹ tôi đã đoán tôi bị bắt. Hai tháng trước, đêm 18 tháng 10 năm 1967, cha tôi đang nằm đọc báo thì một toán công an hùng hổ xông vào nhà dựng ông dậy, đọc lệnh bắt khẩn cấp và lệnh khám nhà. Một nhóm đẩy ông lên xe chở đi, nhóm còn lại chia nhau ra lục lọi các phòng cho tới gần sáng, lấy đi nhiều giấy tờ, sách báo và ảnh chụp. Ðêm cha tôi bị bắt, cũng là sinh nhật tôi, tôi đang ở Nam Ðịnh. Thành phố thợ dệt chìm trong bóng tối. Ðèn đường tắt ngấm.
Tôi lang thang trong các phố hiu quạnh, dưới ánh sáng nhợt nhạt của trăng rằm lọt qua kẽ lá. Cuộc leo thang của không lực Mỹ đã vượt quá Nam Ðịnh lên phía Bắc. Thành phố chịu bom hàng ngày. Nhà máy sợi sập từng mảng, khu dân cư Hàng Thao bị san bằng. Dưới chân tôi là gạch vỡ nhà đổ lẫn với đủ mọi thứ tạp nham của đời thường bị thuốc nổ và mảnh bom phá nát – những cái bát vỡ, manh chiếu cháy dở, những trang vở học trò phất phơ trong gió thoảng, con búp bê cụt đầu lăn lóc bên cạnh cái xe nôi tơi tả… Trong những ngày đó tôi không nghĩ tới cuộc chiến tranh nào ngoài cuộc chiến tranh với nước Mỹ. Thế nhưng một cuộc chiến tranh khác, hoàn toàn không ngờ tới, đã xảy ra. Vụ bắt bớ những người có quan điểm bất đồng với Ðảng cầm quyền trong cái gọi là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối bắt đầu từ tháng 7 năm 1967.
Nạn nhân đầu tiên của nó là viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính (7), phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới Phạm Viết, phó tổng biên tập tạp chí Học Tập Kỳ Vân và vài người khác. Như một cơn gió đen, tin Ban tổ chức Trung ương Ðảng phát hiện kịp thời và bóp chết từ trong trứng một âm mưu phản loạn lan nhanh trong thành phố. Ðến lượt cha tôi và thiếu tướng Ðặng Kim Giang (8) cũng bị bắt thì dư luận ồn hẳn lên. Chỗ nào người ta cũng thì thào bàn tán về sự kiện này. Những người cộng sản thuộc thế hệ già ngán ngẩm: “Thôi thôi, lại như cái đận Cải cách ruộng đất rồi, có khác gì đâu. Mấy ông lãnh đạo nhìn đâu cũng thấy phản động, bắt bớ lung tung, sau đó thì lại xin lỗi, lại sửa sai, rõ chán chuyện! Mạng cán bộ thời nay đúng là không bằng mạng ngóe”. Số cán bộ cấp thấp hơn to nhỏ với nhau: đây rõ ràng là một cuộc sát phạt, chứ các đồng chí lão thành cách mạng thế kia sao có thể là phản động được? Ðàng sau vụ bắt bớ này chắc chắn là một âm mưu gì đó, vì cái ghế, vì hưởng thụ thôi; bây giờ các ông kễnh chỉ nghĩ tới cái đó, tới tiêu chuẩn, chứ xét đi xét lại cái gì đâu? Những người trước nay không ưa chế độ thì mở cờ trong bụng: “Chúng bắt đầu thịt nhau rồi! Ðã bảo cộng sản là thế mà, chúng không sống yên được một ngày không có máu. Chỉ tội nghiệp cho mấy người hiền lành không cùng phe cánh với chúng, tuy họ cũng là cộng sản”.
Ngày hôm sau, không thấy tôi trở về, mẹ tôi tức tốc đạp xe tới Hỏa Lò. Trước một bà mẹ hung dữ vì vừa mất chồng nay lại mất con, các cán bộ công an chối đây đẩy rằng ở chỗ họ không có ai tên là như thế. Viên giám thị Hỏa Lò lật đật mang cả sổ tù ra tra trước mặt mẹ tôi cho bà thấy: bác đừng nghĩ quẩn, nếu anh ấy ở đây thì phải có tên trong sổ, anh ấy phải làm gì phạm pháp thì mới bị bắt chứ. Không, không có tên anh ấy ở đây đâu, tôi tra hết rồi, xem kỹ lắm rồi, hay là bác sang bên Bộ mà hỏi. (9)
Tại phòng tiếp khách Bộ Nội vụ ở 16 Trần Bình Trọng, một sĩ quan mặc áo dạ (10) không quân hàm tiếp mẹ tôi. Anh ta làm bộ ngạc nhiên: – Chết chết, sao bác lại nghĩ thế! Bắt người thì phải có lệnh bắt chứ, kể cả trong trường hợp bắt khẩn cấp bộ phận trực ở Bộ cũng phải được biết. Không phải đâu, bác ạ, làm gì có chuyện bắt cóc thời bây giờ. Bác đợi cho một chút, tôi kiểm tra ngay lập tức xem có chuyện gì xảy ra với anh Hiên mà các quận được biết không. Trước mặt mẹ tôi anh ta gọi điện hỏi các khu công an Hà Nội. Không ở đâu có tin về tôi. Tiễn mẹ tôi, viên sĩ quan còn ân cần dặn bà khi nào tôi về nhà thì xin báo ngay cho Bộ Nội vụ biết.
“Phải công nhận hắn ta đóng kịch cũng khéo. – mẹ tôi kể lại – Nhưng khéo thì khéo, không qua được mặt mẹ. Miệng hắn leo lẻo, nhưng mặt mày thì lại nhớn nhác, tay chân quýnh quáng. Bụng bảo dạ: nếu bọn này có tập quán giống bên công giáo chắc hắn sẽ kêu tên Mác mà thề quá”. Như bao lần gia đình tôi gặp bão táp mẹ tôi chứng tỏ bà là cây cột cái vững chắc gánh toàn bộ sức nặng của ngôi nhà trên vai, quyết không cho nó sụp đổ. Bà lau nước mắt, chu đáo lo toan trăm thứ việc có tên và không tên cho con cái như thể không có chuyện gì xảy ra. Trong những ngày này, mẹ tôi kể, bà nghĩ đến thần tượng của bà rất nhiều.
Ðêm đêm bà ngồi một mình trong căn nhà vắng lặng. Bà đã tin ông Hồ Chí Minh. Bà đã tin ông lắm lắm. Còn hơn tin, bà sùng kính ông, người anh cả của cách mạng, lãnh tụ của bà. Bức chân dung cỡ 18×24 ông Hồ Chí Minh tặng bà với dòng chữ “Thân ái tặng thím Huỳnh” trước ngày ông lên đường dự hội nghị Fontainebleau năm 1946 được bà gìn giữ như của gia bảo. Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều lần chạy giặc càn mất hết đồ đạc nhưng tấm ảnh vẫn còn đó. Nó chỉ bị thu khi công an khám nhà.
Nhiều người khuyên bà hãy cầu cứu ông Hồ. Dù muốn dù không Lê Duẩn (11) và Lê Ðức Thọ (12) vẫn còn phải nể ông, họ nói. Mọi người tin chắc ông không biết việc xảy ra. Nếu ông biết, ông không bao giờ để xảy ra chuyện nồi da nấu thịt thế này. Vài năm nay, do sức khỏe kém, ông Hồ không còn trực tiếp điều khiển công việc đất nước.
Mẹ tôi không tin. Bà cho rằng để khởi lên một vụ lớn như thế này, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ không thể không hỏi ý kiến ông Hồ, ông không thể không biết. Vụ bắt bớ chỉ được tiến hành một khi có sự đồng ý của chủ tịch nước. Bà nhận xét: không phải vô cớ mà trong khi khám nhà, công an quan tâm đặc biệt những tấm ảnh cha tôi chụp chung với ông Hồ, những tư liệu liên quan tới ông Hồ, tất cả đều bị mang đi. Cha tôi bắt đầu giữ những tư liệu về cách mạng, đặc biệt về ông Hồ Chí Minh kể từ khi ông nhận sự phân công của Trung ương Ðảng làm bí thư cho chủ tịch nước.
Vào những năm đầu cách mạng chưa có cơ quan chuyên trách lo bảo quản những tư liệu lịch sử, cho nên cha tôi cho rằng ông có trách nhiệm lưu trữ những gì trong tầm tay của ông, không để chúng bị mất. Cha tôi giữ được khá nhiều ảnh – từ những bức chụp ông Hồ tại chiến khu Tân Trào với đội liên quân Việt Mỹ, những ngày ông Hồ vừa từ chiến khu về Hà Nội, Lễ Tuyên bố Ðộc lập tại vườn hoa Ba Ðình, chuyến chủ tịch nước sang Pháp năm 1946, nhiều nhất là ảnh trong An toàn khu của chính phủ kháng chiến. Những ảnh khác cha tôi chụp chung với các nhà lãnh đạo cũng bị thu hết … Mấy bức ảnh chân dung họa sĩ Pablo Picasso, nhà văn Ilia Ehrenburg (13) với lời đề tặng cha tôi tại Paris năm 1946, chẳng liên quan gì tới vụ án, bọn chúng cũng thu tuốt. Tuy nhiên, đây là chuyện dễ hiểu – vào thời kỳ này nhân viên công an thường được chọn lựa trong nông dân ít học. Họ chẳng biết Picsso hoặc Ehrenburg là ai. Dưới mắt họ, ảnh những thằng Tây mũi lõ tìm được trong nhà một đối tượng của cách mạng, gợi nên sự nghi ngờ – hẳn đây phải là ảnh của bọn phản động quốc tế. Chính do những suy nghĩ như vậy mà mẹ tôi không nghe theo lời khuyên của bè bạn. Bà không xin gặp, không thèm viết một dòng nào cho ông Hồ Chí Minh. Bà cũng không nghĩ tới chuyện cầu cứu Trường Chinh (14). Từ khi mất chức tổng bí thư, Trường Chinh lầm lũi ở ẩn trong sự đường bệ còn lại, tránh can thiệp vào công việc của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ. Vả lại, cho dù trong khi còn đương chức Trường Chinh bây giờ không hề giống Trường Chinh trước tổng khởi nghĩa. Nếu như trong thời kỳ bí mật Trường Chinh chu đáo với anh em bao nhiêu thì bây giờ ông ta lạnh nhạt với đồng chí bấy nhiêu. Hệt như đã xảy ra một cuộc đánh tráo vậy.
Tôi kể chuyện này làm thí dụ. Ông Trần Ðình Long (15), người bạn và đồng chí gần gụi của Trường Chinh bị Quốc dân đảng thủ tiêu năm 1946, để lại vợ và ba đứa con. Hòa bình lập lại, bà Long từ vùng tản cư Phát Diệm trở về Hà Nội. Năm lần bẩy lượt bà tìm đến Trường Chinh, nhưng không được ông tiếp. Người kể cho tôi nghe câu chuyện đáng xấu hổ này là ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ, từng là cơ sở cách mạng. Khi ông Sơ chất vấn ông Bùi Lâm (16) chuyện xử sự của Trường Chinh thì Bùi Lâm giải thích: “Con mẹ Long làm như có mình chồng nó hy sinh cho cách mạng. Hy sinh cho cách mạng có hàng đống, nó làm mình làm mẩy, nằng nặc đòi cách mạng phải lo cho các con thằng Long, rõ ngu! Anh Thận (17) không tiếp nó là phải”. Nóng mắt, ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ tống ông quan tòa Bùi Lâm ra khỏi cửa: “Vợ đồng chí gặp khó khăn thì tìm đến đồng chí chứ còn tìm ai? Biết chúng mày là giống ăn cháo đá bát chắc vợ thằng Long đã chẳng thèm gặp. Cút ngay khỏi nhà tao! Ðồ đểu! Cả lũ chúng mày đểu! Cút!”. Người vợ và ba đứa con của người cộng sản Trần Ðình Long, bị các đồng chí chối bỏ, lếch thếch dắt nhau xuống Hải Phòng nhập vào dòng người di cư vào Nam. Hai con trai ông Long sau năm 1975 vượt tiếp sang Ữc. Chỉ còn lại một người con gái lấy chồng ở lại Sài Gòn. Nhân tiện cũng xin nói rằng ông Bùi Lâm này, hồi hoạt động bí mật đã ở nhà tôi, là đồng chí rất thân thiết của ông Long và cha tôi. Với gia đình tôi ông là người trong nhà, nhưng sau khi cha tôi bị bắt ông cũng không hề lai vãng một lần.
Ðó là tình đồng chí trong những người cộng sản khi đã giành được chính quyền, đã phân chia ngôi thứ.
Những người vẫn còn đến với gia đình tôi trong những ngày sóng gió đều vì tình bạn, chứ không phải vì tình đồng chí, cho dù họ có là cộng sản.
Bà cũng không nghĩ tới Phạm Văn Ðồng (18). Ông quen cha mẹ tôi từ những năm 40 khi còn thanh niên, đang săn đón người vợ tương lai ở hàng kem Zephyr Bờ Hồ. Mẹ tôi biết có tới gặp ông cũng vô ích. Phạm Văn Ðồng, theo bà nhận xét, là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự. Ông lúng túng trước bất cứ một việc cụ thể nào, dù chỉ để đóng một cái đinh giúp hàng xóm, như các bạn ông thường giễu cợt. Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi trò gì trong những việc lẽ ra ông phải làm. Những người từng là bạn ông khi gặp chuyện rắc rối với chính quyền buộc lòng phải cầu cứu ông còn thất vọng hơn. Họ tìm đến ông vì chẳng gì ông cũng là một trong các nhà lãnh đạo quốc gia, ông mà nói cho một câu thì cũng đỡ. Của đáng tội, ông cũng không nhẫn tâm xua đuổi họ, ông an ủi, ông hứa hẹn, rồi ông chẳng làm gì hết. Có khi những gì người ta nhờ ông cũng nhớ, cũng muốn giúp họ lắm, nhưng để tránh tiếng ông lại đi nhờ người khác, rồi ra cái sự nhờ lại ấy có được việc hay không ông không quan tâm. Ông đã nói hộ rồi mà, có phải không nói đâu, khốn nỗi là việc khó giải quyết, các đồng chí từ chối không giúp có nghĩa là không giúp được. Ông không muốn mất lòng một ai, nhất là mất lòng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Ðồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: “Việc tập thể quyết định, tôi làm gì được!”
Mẹ tôi chỉ còn biết tìm người bạn thân thiết nhất của cha tôi trong thời kỳ hoạt động bí mật là ông Nguyễn Lương Bằng (19). Những ngày ấy ông đi vắng, người ta nói. Mà cũng có thể ông tránh mặt.
Từ Nam Ðịnh trở về, nhìn cảnh nhà tan hoang, tôi hỏi mẹ chuyện xảy ra thì bà cười cay đắng, mắt ướt nhòe:
– Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Ðến khi biết không khóa nổi, chúng nó lấy thừng trói giật cánh khuỷu rồi điệu bố ra xe bịt bùng chở đi. Lúc chúng nó khám nhà, mẹ quẳng cái khung kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng chiến hạng nhất của bố vào mặt chúng nó: “Các người khám kỹ cái này đi, xem ở mặt trái nó có gì?”. Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ Nguyễn Du tả:” Người nách thước, kẻ tay đao. Ðầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi…” Trong lòng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt.
– Lòng người khôn lường, con ạ! Mới biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế vương giả. Bàng hoàng trước sự việc bất ngờ, bà không sao tin được rằng nó xảy ra, không sao tin được rằng chính quyền được xây dựng nên bởi cuộc cách mạng mà vợ chồng bà hiến dâng cả đời mình lại có thể nhẫn tâm với vợ chồng bà đến thế. Khi tôi mất tích, có nhiều người cho rằng tôi trốn. Mẹ tôi không tin. Là mẹ, bà hiểu con bà. Hơn bất cứ ai, bà tin tôi vô tội. Không những tin tôi vô tội, bà tin tôi đủ dũng khí để đương đầu với bọn tiếm quyền cách mạng. Chạy trốn, theo quan niệm của mẹ tôi, không phải là hành động của người quân tử. Bà muốn thấy chồng con mình đàng hoàng bảo vệ chính nghĩa trước công luận.
Bà buồn rượi khi nghe những đồng chí cũ đến thăm bà, phân tích tình hình đất nước, rồi kết luận rằng sẽ chẳng bao giờ có một phiên tòa mà bà muốn có.
Khoảng một tuần trước khi tôi bị bắt anh Nguyễn Trọng Luật, vụ trưởng Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa, nhắn tôi tìm cách cắt đuôi đến gặp anh tại nhà riêng ở ngõ Chân Cầm. Trong số các vụ trưởng của Bộ tôi quý anh nhất. Bề ngoài giản dị, thậm chí hơi thô kệch, thoạt trông ai cũng nghĩ anh là một nông dân nòng cốt được Ðảng bồi dưỡng lên làm lãnh đạo. Nhưng chỉ nói chuyện với anh một lần là người ta biết bên trong vẻ chân quê làm cho họ lầm anh Luật là người lịch lãm, hiểu nhiều biết rộng. Tôi quyết định đến gặp anh. Tôi muốn nghe ở anh một lời khuyên. Anh dặn tôi coi chừng bị mật thám theo. Cắt đuôi là việc chẳng khó gì đối với người trong một gia đình có nhiều năm hoạt động bí mật. Thời Pháp thuộc, cha mẹ tôi đã dạy tôi những cách đánh lạc hướng mật thám. Ông bà thường sai tôi mang mật thư đến nơi này nơi khác trong thành phố. Tôi là trẻ con, mật thám không để ý. Anh Luật có hồi cùng hoạt động với cha tôi tại vùng ven sông Hồng. Ðối với cha tôi anh kính trọng, coi như người anh tinh thần. Vì tình cảm với cha tôi mà anh quý tôi.
Gặp tôi, anh vồ lấy, hối hả: – Tình hình gay lắm, chú phải trốn ngay lập tức, đừng để bị bắt! Tôi nghĩ mình sẽ làm thế này …
Theo kế hoạch của anh Luật, tôi sẽ chọn ngày giờ thuận lợi rồi báo cho anh biết. Tốt nhất, tôi báo qua bác sĩ Phan, em nuôi anh, cũng là bạn thân của tôi. Tôi sẽ tới Chùa Thầy, nơi sơ tán của Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn hóa. Từ đây anh Luật sẽ dùng xe cơ quan đưa tôi về Hưng Yên, nơi trước Cách mạng Tháng Tám có thời kỳ anh làm bí thư tỉnh ủy. Con trai một cơ sở cách mạng nay là trưởng công an một huyện là em kết nghĩa của anh đã nhận bảo vệ tôi. Anh này sẽ lo việc thay tên đổi họ cho tôi rồi đưa tôi tới một vùng hẻo lánh. Tôi sẽ nương náu ở đó chờ cho tình hình sáng sủa sẽ trở về.
Tôi im lặng. – Chú nghe anh đi, anh nghĩ kỹ lắm rồi, phải trốn thôi. – anh ra sức thuyết phục tôi – Thử nghĩ mà xem, nếu trong Cải cách ruộng đất tất tật những người bị xử trí oan đều trốn thoát cả thì sai lầm của Ðảng đâu đến nỗi trầm trọng đến thế. Ðảng làm sao hiểu được ta bằng chính ta? Biết mình vô tội bị Ðảng ngờ oan mà lại vẫn xuôi tay mặc cho Ðảng bắt, mặc cho Ðảng giết, không phải là tuân thủ kỷ luật cách mạng đâu, không phải trung thành với Ðảng đâu, mà là làm hại Ðảng đấy, chú hiểu không? Tôi hiểu Ðảng lần này lại đang sa vào sai lầm nên tôi mới khuyên chú trốn.
Thấy tôi vẫn không hưởng ứng, anh bần thần một lát rồi tiếp: – Tùy chú thôi, nghe anh thì nghe, không nghe thì thôi, nhưng chú phải nhớ: tuy hiện nay Ðảng bị thằng Duẩn, thằng Thọ lũng đoạn, nhưng trước sau Ðảng vẫn là Ðảng của ta, chẳng chóng thì chầy Ðảng sẽ thanh lọc bọn chúng. Tôi muốn cười mà không dám cười. Ngẫm ra cách lập luận của anh có cái lý của nó, cái lý chỉ tồn tại được trong lòng người đảng viên trung thành, lúc nào cũng lo lắng cho sức chiến đấu và uy tín của Ðảng.
Bằng nhiều dẫn chứng rút ra từ những huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh, anh Luật khẳng định chuyện này ông Hồ không biết, hoặc giả ông bị désorienté (20) bởi Lê Ðức Thọ mà đã đồng ý cho Thọ bắt các đồng chí trung kiên, chứ ông quyết không phải người xấu.
– Lê Duẩn là thằng nhiều tham vọng, điều này ai cũng biết, nhưng anh nghĩ: tự hắn, hắn không muốn gây gổ trong lúc này. Gạt ra bên ngoài các thứ chủ nghĩa, xét cho cùng chỉ là cái cớ, thì vụ này Thọ khởi xướng là chắc, không phải Duẩn. Nhưng Thọ muốn thì Duẩn cũng không ngăn, mọi việc Thọ làm từ trước tới nay đều vì lợi ích của cả hai. Thằng này làm việc đó để làm gì, nhằm mục đích gì?Anh ngờ bên trong vụ này có điều uẩn khúc, liên quan tới thời kỳ Thọ ở Sơn La… (21)
Tối hôm đó tôi chỉ ngồi nghe anh nói, không tranh luận. Ðầu tôi trống rỗng. Tôi mệt mỏi. Trong anh vẫn có một niềm tin mỏng manh ở Ðảng. Trong tôi, niềm tin ấy không còn.
Nghe tôi kể lại cuộc gặp gỡ với anh Nguyễn Trọng Luật, mẹ tôi hỏi: – í con thế nào? – Con cho rằng đi trốn là cho người ta cái cớ để nói mình có tội, mình sợ nên phải trốn tránh… – Còn con? – mẹ tôi hỏi vợ tôi. – Con cũng nghĩ không nên trốn. – vợ tôi nói – Mình làm gì mà phải trốn? – Ðúng vậy. Cây ngay không sợ chết đứng. Tôi mỉm cười. Mẹ tôi quen miệng nói thế, chứ ai chẳng biết chính cây ngay mới hay chết đứng, chỉ có dây leo là không bao giờ chết đứng mà thôi. Hồi ấy tôi còn ngu ngốc lắm. Thế hệ cha tôi, rồi thế hệ tôi mang trong mình khái niệm Ðảng của những ngày cách mạng còn trứng nước: Ðảng là tổ chức của những chiến hữu cùng chung một mục đích thiêng liêng, cao cả. Không hiếm những thí dụ về tình đồng chí đùm bọc thương yêu nhau, thậm chí hy sinh tính mạng để bảo vệ nhau trong những ngày xa xưa ấy. Một khái niệm, tiếc thay, đã lỗi thời. Sống trong một gia đình mà cha mẹ đều hoạt động cách mạng, tôi nhập vào dòng chảy của công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc, cũng là dòng chảy của thời đại tôi, một cách tự nhiên, như muốn sống thì phải thở khí trời. Cũng tự nhiên như vậy, tôi đi theo những người dẫn đầu cuộc cách mạng như con vật trong đàn đi theo con đầu đàn của nó.
Tôi chỉ bắt đầu ngờ vực đức hiền minh của các lãnh tụ vào thời gian cuộc Giảm tô giảm tức được phát động ở khu 4 kháng chiến, năm 1953. Ðêm đêm chúng tôi thao thức nghe trong mịt mùng những thôn xóm tối tăm tiếng loa âm u hờ gọi nông dân vùng lên đánh đổ kẻ thù giai cấp. Từ tinh mơ hàng đoàn người rầm rập trên các nẻo đường làng còn tối đất, khản tiếng hô vang những khẩu hiệu có mùi máu. Dân chúng ùn ùn đổ về những sân đình, những bãi rộng, nơi sẽ diễn ra những cuộc đấu tố bọn địa chủ cường hào gian ác.
Ðiều làm tôi ngạc nhiên đến sững sờ là những cán bộ kháng chiến bị thẳng cánh gạt ra ngoài lề cuộc đấu tranh. Mà tôi biết rõ họ lắm. Mới hôm trước còn là những người lãnh đạo đầy uy tín ở địa phương, bất thình lình họ không còn được tin cậy nữa, thậm chí bị nghi ngờ, bị tước bỏ mọi quyền hành. Tại sao lại như thế? Tôi hỏi một cán bộ trong đội giảm tô giảm tức và được anh ta giải thích: phải đề cao cảnh giác trước kẻ thù giai cấp. Chúng biết chúng không thể ra mặt chống phá cách mạng nên tìm đủ mọi cách chui vào trong các tổ chức của ta, nắm giữ các vị trí lãnh đạo. Hiện nay không thể biết trong các cơ quan ai là địch ai là ta, nếu không kiên quyết gạt những người cũ ra thì nông dân được Ðảng phát động vẫn bị kẻ thù giấu mặt khống chế, họ sẽ không dám vùng lên giành chính quyền. Ðảng dạy ta chỉ có thể tin những nông dân bần cùng, bị địa chủ bóc lột đến xương tủy, chỉ có họ mới là chỗ dựa vững chắc và lâu dài của Ðảng.
Cứ như thể sự nghèo khổ, bản thân nó, đã là một phẩm chất cách mạng. Ðấu tố diễn ra liên miên, ngày một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước, được Ðảng phóng tay phát động, vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ đồng loại. Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườm nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược mà với chính đồng bào mình. Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa, nơi có dinh cơ gia đình cụ cử Nguyễn Thượng Hiền, người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng chỉ vì bà trót dại nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ giảm tô giảm tức. Trước bà là hội trưởng hay hội phó Hội Liên hiệp Phụ nữ Thái Bình. Mất đất, bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa, làm nghề hàng xáo, buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới thì thấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: “Ði cụ Hồ ơi, Cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân Cụ thế này đây!”.
Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống.
Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước năm 1945, bị tống giam vì bị vu là đảng viên Quốc dân đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm, Cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với Cụ, với Ðảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Người ta lấy gai bưởi cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói.
Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng, rùng mình – những đứa trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người. Rồi đây, với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể sống chung với những anh em khác màu da và tiếng nói trong một thế giới đại đồng mà chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn? Tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì giống như sự thức tỉnh. Niềm tin ở Ðảng ăn sâu trong lòng mỗi người đến nỗi vừa buông miệng khuyên tôi trốn, lúc chia tay anh Luật lại vớt vát: “Nói thì nói vậy thôi, chứ anh không thể nào tin được Ðảng lại có thể nhẫn tâm bắt một lúc cả hai cha con một gia đình cách mạng như gia đình chú”. Mẹ tôi không muốn tôi trốn, nhưng bà lo. Tôi bị bắt thì trong nhà không còn người đàn ông nào. Hai em trai tôi đều còn nhỏ, lại đang có chiến tranh. Bà cảm thấy những gì xảy ra với người khác nay đang xảy ra với mình
Mẹ tôi nhớ đến bà bạn có chồng bị mất tích trong những ngày Cách mạng Tháng Tám. Người đàn bà khốn khổ lang thang đi hết đền này phủ nọ cầu xin Trời Phật cho chồng bà trở về với bà. Bà gần như mất trí. Khi còn trẻ ông Vinh, chồng bà, gia nhập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội. Bị lộ, ông chạy sang Pháp, vào Ðảng cộng sản Pháp. Từ Pháp ông sang Nga. Tốt nghiệp Trường đại học phương Ðông (22), ông hăm hở trở về Tổ quốc tiếp tục cuộc chiến đấu. Vừa bước xuống cảng Hải Phòng ông sa vào tay mật thám. Xa nước quá lâu, ông trở về không quen biết ai, chưa kịp liên lạc với ai trong các tổ chức cách mạng. Mật thám tra tấn ông, ông chẳng có gì để khai. Tra mãi không được gì, chính quyền thuộc địa thả ông, thậm chí để cột chân ông lại, còn chiếu cố cho ông được tòng sự tại Phủ Thống sứ. Trong chuyện này tất nhiên không thể thiếu sự chạy chọt của bà vợ con nhà khá giả. Làm việc trong Phủ Thống sứ, ông Vinh vẫn không ngừng tìm cách liên lạc với những người cộng sản. Không ai dám giao thiệp với ông, kể cả cha tôi. Với ông, cha tôi đóng vai người đã nhụt chí, nay trở về với vợ con làm ăn chân chỉ. Người Pháp hoàn toàn không nghi ngờ gì ông, một công chức mẫn cán. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Lòng yêu nước trong ông không bao giờ tắt. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông hăng hái xuống đường tham gia cướp chính quyền. Thế rồi trong những ngày sôi nổi ấy, như một hòn đá rơi xuống nước, ông biệt tích.
Không ai biết ông biến đi đâu nếu như một hôm ông Trường Chinh không nói với mẹ tôi: “Chị Huỳnh ạ, chị liệu cách an ủi chị Vinh kẻo chị ấy cứ xem bói, xin quẻ mãi, tội nghiệp! Nói riêng để chị biết: ta thịt anh ấy rồi!”.
Mẹ tôi lạnh toát người: “Sao các anh nhẫn tâm thế, tàn ác thế? – bà kêu lên – Anh thừa biết anh Vinh tuy không kiên định cách mạng thật, nhưng anh ấy có phản bội xưng khai gì đâu, có gây hại gì cho đoàn thể (23) đâu mà các anh nỡ giết anh ấy?” Trường Chinh phân trần rằng ông không chủ trương giết ông Vinh, người ta giết rồi ông mới biết. Lúc đó ông có muốn can thiệp thì đã muộn.
Về cái chết của ông Vinh mẹ tôi không buộc tội Trường Chinh. Nhưng bà không tha thứ cho ông tội để cấp dưới lộng hành, coi thường sinh mạng con người. Thủ tiêu đối thủ và những người tình nghi phản bội là chuyện bình thường trong Cách mạng Tháng Tám. Nhà văn Lan Khai (24) bị bỏ rọ trôi sông cũng chỉ vì ông từng làm thư ký cho một hãng buôn Nhật. Cha tôi quen Lan Khai từ những ngày ở Tuyên Quang, ông rất đau lòng về chuyện này. Bà ngoại tôi thường gặp các đồng chí của cha mẹ tôi tại nhà tôi khi bà đến chơi với các cháu. Không hiểu vì lẽ gì một số người trong bọn họ không gây được cảm tình nơi bà. Bà ngoại tôi nói thẳng cho mẹ tôi biết bà không thích họ. Ðến nỗi mẹ tôi giận bà vì sự không thích ấy. Hóa ra bà ngoại tôi có lý khi nhận xét người này người kia trong bọn họ không phải là những người tử tế. Bằng sự mẫn cảm của phụ nữ, bà thấy trước được cách sống không nhân nghĩa, không có trước có sau, không có tình người, như cách ta thường nói bây giờ, của những người về sau trở thành những nhà lãnh đạo như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt (25).
Trường Chinh đã không làm một hành động nhỏ nào để cứu cha tôi – người bạn, người đồng chí gần gụi của ông ta trong thời kỳ bí mật. Ông ta cũng không đến thăm mẹ tôi lấy một lần trong những năm cha con tôi ở tù. Cha tôi được thả rồi ông cũng không đến. Một số người biết tình bạn của hai ông cho rằng Trường Chinh không đến vì sợ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, nhưng tôi cho rằng trong thái độ này Trường Chinh trung thực với con người ông ta – ông ta thực sự nghĩ rằng cha tôi đã đứng về phía những người chống Ðảng. Trong sự đồng nhất cá nhân mình với Ðảng từ khi trở thành người lãnh đạo, Trường Chinh là người trước sau nơi một. Hoàng Quốc Việt còn tệ hơn – ông ta trở thành nhân vật tích cực trong Ban chuyên án của vụ trấn phản (26). Mà chính vì hai ông cha tôi đã bị chính quyền thuộc địa bắt sau khi đưa họ đi trốn vào năm 1939.
Người như vậy, theo quan niệm của người Việt Nam bình thường, không thể được coi là tử tế. Vợ tôi kể sau khi tôi mất tích, đêm đêm mẹ tôi ngồi lặng hàng giờ, mái tóc bạc xổ xuống vai. Bà như hóa đá. Linh tính người mẹ báo cho bà biết tôi đã gặp tai họa. Phân tích mọi dữ kiện bà tin chắc tôi đã bị bắt một cách ám muội. – Trong những ngày ấy mẹ lo nhất con bị thủ tiêu. Chúng nó có thể làm chuyện đó lắm. Bà nghẹn ngào nói, ôm chặt đứa con trai đầu lòng. Cuối cùng, rồi nó cũng đã vượt qua được cái chết để trở về với bà, chín năm sau đó.