Tôi đờ đẫn cả người. Trôi nổi cùng những ý nghĩ đen tối của Perry, tôi rung động cùng những nỗi đau khổ của gã như tiếng trầm vang của tiếng chuông nhà thờ.
“Cậu có đang hoạt động không, Perry?” Tôi thì thầm vào khoảng không. “Cậu có đang đảo ngược cuộc sống của mình không?”
Suỵt, Perry nói. Đừng làm hỏng bầu không khí. Ta cần để giây phút này trôi qua.
Tôi bồng bềnh trong những giọt nước mắt bị kiềm nén của gã chờ đợi trong bóng tối mằn mặn ấy.
* * *
Ánh mặt trời buổi sáng tràn qua cửa sổ ban công phòng ngủ cúa Julie. Những nét vẽ màu xanh lân tinh đã chìm lại vào trần nhà màu trắng. Hai cô gái vẫn đang ngủ, nhưng tôi cứ nằm thức chong chong, chỉ chập chờn ngủ được mấy tiếng. Không thể nằm im được nữa, tôi chui ra khỏi chăn và co duỗi những khớp xương kẽo kẹt, để cho mặt trời rọi lên một bên mặt này, rồi bên mặt kia. Nora nói mê mấy từ chuyên ngành y tá, “phân bào có tơ” hoặc là “phân bào giảm nhiễm”, cũng có thể là “hoại tử” và tôi nhận ra cuốn sách giáo khoa đầy nếp quăn đang để mở trên bụng cô. Tôi tò mò cúi xuống, rồi cẩn thận nhấc quyển sách lên.
Tôi không đọc được tựa sách. Nhưng tôi lập tức nhận ra cái bìa. Một khuôn mặt đang ngủ bình thản chìa cái cổ hở đầy mạch máu cho người xem. Đó là cuốn sách tra cứu y khoa, Sách giải phẫu của Gray.
Lo lắng liếc qua vai, tôi cầm quyển sách nặng trịch ra ngoài hành lang và lật qua các trang. Những bức tranh phức tạp vẽ hình cơ thể, nội tạng và bộ xương của con người đều rất quen thuộc với tôi, mặc dù trong sách những thân thể này vẫn sạch trơn và hoàn hảo, các chi tiết không bị xóa nhòa bởi rác bẩn hay chất lỏng. Từng phút trôi qua trong khi tôi săm soi từng hình minh họa, bị xô đẩy bởi cảm giác tội lỗi pha lẫn với mê hoặc như chú bé Công giáo với quyển tạp chí Playboy vậy. Tất nhiên tôi không đọc về các dòng chú thích, nhưng trong khi tôi ngắm các hình vẽ, một vài từ Latin lại hiện lên trong óc tôi, có lẽ là nhớ lại từ cuộc sống trước kia của tôi, một bài giảng ở trường đại học hay một bộ phim tài liệu trên TV mà tôi đã thu thập được ở đâu đó. Những kiến thức này có vẻ thật ghê tởm trong não tôi, nhưng tôi vẫn ăn lấy chúng, giữ chặt chúng, khắc sâu chúng vào trí nhớ của mình. Tại sao tôi phải làm vậy? Tại sao tôi lại muốn biết tên và chức năng của những kết cấu đẹp đẽ mà tôi đã xâm phạm suốt bao lâu nay? Bởi vì tôi không đáng được để cho chúng vô danh. Tôi muốn nỗi đau khi biết về chúng, và qua đó cũng để biết về chính mình: chính xác tôi là ai và là cái gì. Có lẽ với con dao mổ đỏ rực được tiệt trùng bằng nước mắt ấy, tôi có thể bắt đầu khoét hết từng phần ung thối trong cơ thể mình.
Hàng giờ trôi qua. Khi tôi đã xem hết từng trang một và nặn hết từng âm tiết từ trí nhớ của mình, tôi nhẹ nhàng đặt quyển sách lại chỗ cũ trên bụng Nora và rón rén bước ra ban công, hy vọng mặt trời ấm áp sẽ phần nào xoa dịu cơn nôn nao tinh thần đang cào cấu trong tôi.
Tôi dựa người vào lan can và nhìn ngắm khung cảnh chật hẹp của thành phố nơi Julie ở. Đêm qua nó tối tăm và im lìm đến thế, vậy mà giờ lại ồn ào vầ tấp nập chẳng khác gì quảng trường Thời Đại. Tôi băn khoăn tự hỏi, mọi người đang làm gì? Sân bay của các Xác Sống có đám đông, nhưng không có hoạt động thực sự. Chúng tôi không làm gì cả, chúng tôi chỉ đợi cho mọi chuyện xảy ra. Bao nhiêu ý chí của những Người Sống gộp lại thành một hỗn hợp say sưa, và tôi đột nhiên mong được hòa nhập vào đám người kia, chạm vai và huých khuỷu tay để giành chỗ giữa những mùi mồ hôi và hơi thở đó. Nếu các câu hỏi của tôi có câu trả lời thì chắc chắn chúng phải nằm dưới kia, dưới gót chân nện rầm rập của những bàn chân bẩn thỉu ấy.
Tôi nghe thấy hai cố cái cuối cùng cũng thức giấc và đang nói chuyện nho nhỏ ở trong buồng. Tôi quay vào và luồn vào dưới chăn cạnh Julie.
“Chào buổi sáng, R,” Nora nói, có vẻ không chân thành lắm. Tôi nghĩ cô thấy việc nói chuyện với tôi như với người bình thường hẵng còn khá mới mẻ; trông như thể cô muốn cười khúc khích mỗi khi thừa nhận sự có mặt của tôi. Thật là bực mình, nhưng tôi cũng hiểu được phản ứng đó. Tôi là một điều nực cười cần phải mất thời gian mới quen được.
“Chào,” Julie lên tiếng và nhìn tôi từ đầu kia của cái gối. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nàng kém xinh như thế, mắt sưng húp, tóc rối bù. Tôi tự hỏi đêm đêm nàng ngủ có ngon không, và giấc mơ của nàng thế nào. Tôi ước mình có thể bước vào chúng được như nàng bước vào giấc mơ của tôi.
Nàng nghiêng người sang bên và chống khuỷu tay lên đỡ lấy đầu. nàng hắng giọng. “Thế đấy, anh đang ở đây. Giờ thì sao?”
“Muốn được xem… thành phố.”
Nàng nhìn mặt tôi dò xét. “Vì sao?”
“Muốn xem… sống như thế nào. Người sống ấy.”
Nàng mím môi lại. “Quá nguy hiểm. Sẽ có người chú ý đến anh.”
“Thôi nào, Julie,” Nora nói. “Hắn đã đi bộ đến tận đây, cứ cho hắn đi tham quan đi. Bọn mình có thể hóa trang cho hắn để không ai nhận ra. Hắn đã qua mặt được Ted thì tớ dám chắc để hắn đi lại một chút cũng không sao đâu, nếu bọn mình cẩn thận. Anh sẽ cẩn thận chứ, phải không R?”
Tôi gật đầu, mắt vẫn nhìn Julie. Nàng im lặng một hồi lâu. Rồi nàng nằm vật ra và nhắm mắt lại, thở ra một hơi chậm rãi nghe như tiếng chấp thuận.
“Hoan hô!” Nora reo lên.
“Bọn mình có thể thử. Nhưng R này, nếu sau khi hóa trang mà trông anh vẫn không giống thì không tham quan gì hết. Và nếu tôi thấy có ai nhìn anh quá chăm chú thì cũng dừng tham quan ngay. Đồng ý chứ?”
Tôi gật đầu.
“Không được gật đầu. Nói đi.”
“Đồng ý.”
Nàng chui ra khỏi chăn và trèo lên giường. Nàng ngắm tôi từ đầu đến chân. “Được rồi,” nàng nói, tóc xù ra khắp mọi hướng. “Sửa sang cho anh nào.”
* * *
Tôi ước gì cuộc đời mình là một bộ phim, để tôi có thể dựng được một phim ngắn. Một chuỗi cảnh phim với nền là một bài nhạc Pop nhàm chán nào đó sẽ dễ chịu hơn nhiều so với hai giờ đồng hồ khốn khổ mà hai cô gái bỏ ra để biến đổi tôi, để làm tôi trở thành thứ tạm giống con người. Họ gội đầu và tỉa tóc cho tôi. Họ đánh răng tôi đến mòn một cái bàn chải mới tinh, nhưng nụ cười của tôi cũng chỉ được bằng nụ cười của một anh chàng người Anh nghiện cà phê thôi. Họ thử mặc cho tôi mấy thứ quần áo hơi nam tính của Julie, nhưng Julie bé như một con yêu tinh và tôi xé toạc áo phông, làm khuy áo bay tứ tung như một vận động viên thể hình. Cuối cùng họ đành bỏ cuộc, và tôi trần như nhộng đứng đợi trong phòng tắm trong khi họ ném bộ quần áo công sở của tôi vào máy giặt.
Trong lúc chờ đợi, tôi quyết định tắm một cái. Đây là một việc tôi đã quên từ lâu, và tôi tận hưởng nó như tận hưởng một ngụm rượu hay nụ hôn đầu tiên. Nước nóng phả lên tấm thân bị tàn phá của tôi, rửa sạch bụi đất và máu me đã bám lên trong bao nhiêu tháng hay bao nhiêu năm, một phần trong số máu me ấy là của tôi, nhưng chủ yếu là của người khác. Những chất bẩn đấy xoáy tròn đổ xuống cống, xuống đất ngầm nơi nó thuộc về. Làn da thật của tôi hiện ra, tái xám, đầy những vết cắt, vết xước và vết đạn sượt qua, nhưng giờ đã sạch sẽ.
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cơ thể mình.
Khi quần áo tôi đã khô và Julie đã vá lại những lỗ rách to nhất, tôi mặc đồ vào, thích thú với cảm giác sạch sẽ mới lạ. Áo sơ mi tôi không còn dính người nữa. Quần tôi cũng không còn chà xát lên da nữa.
“Ít nhất thì anh cũng nên bỏ cà vạt ra,” Nora gợi ý. “Với bộ đồ bảnh chọe như thế trông anh lỗi mốt đến mười cuộc chiến tranh đấy.”
“Không, cứ đeo nó đi,” Julie nói, nhìn mảnh vải ấy với nụ cười kì lạ. “Tôi thích cái cà vạt. Nó là thứ duy nhất giúp cho người anh không chỉ toàn một màu xám.”
“Nhưng chắc chắn nó sẽ không giúp hắn hòa nhập đâu, Jules. Cậu có nhớ mình đã bị nhìn ngó như thế nào khi bọn mình đi giày thể thao thay vì ủng lao động không?”
“Chính thế đấy. Mọi người đã biết tớ với cậu không mặc đồng phục, chừng nào R còn đi với bọn mình thì anh ấy cũng có thể mặc quần sooc thun đội mũ chóp cao mà cũng chẳng bị ai để ý.”
Nora cười. “Tớ thích ý tưởng ấy đấy.”
“Vậy là cái cà vạt lụa đỏ chói mắt được giữ lại. Julie giúp tôi thắt nó vào. Nàng chải tóc cho tôi và bôi lên một ít keo. Nora phun nước hoa đàn ông khắp người tôi.
“Eo ơi, Nora,” Julie phản đối. “Tớ ghét thứ này lắm. Và anh ấy cũng có bốc mùi đâu.”
“Cũng hơi bốc mùi một chút.”
“Ừ, bây giờ thì có bốc mùi rồi đấy.”
“Thà rằng hắn cứ bốc mùi nhà máy hóa chất còn hơn là bốc mùi xác chết, phải không? Như thế này thì lũ chó sẽ tránh xa.”
Họ bàn cãi có nên cho tôi đeo kính râm để che mắt không, nhưng rốt cuộc họ quyết định như thế là còn đáng chú ý hơn là để cặp mắt xám kì dị của tôi tự hiển hiện.
“Trông cũng không dễ nhận lắm,” Julie nói. “Chỉ cần anh đừng đấu nhãn với ai là được.”
“Anh sẽ ổn thôi,” Nora thêm vào. “Dù sao thì ở đây mọi người cũng chẳng nhìn nhau bao giờ.”
Bước cuối cùng trong kế hoạch trùng tu là trang điểm. Trong khi tôi ngồi trước gương như một nữ minh tinh Hollywood chuẩn bị cho cú quay cận cảnh, họ trát phấn cho tôi, họ bôi son cho tôi, họ tô màu cho làn da đen trắng của tôi. Khi họ làm xong, tôi trố mắt nhìn vào gương một cách kinh ngạc.
Tôi là người sống.
Tôi là một anh chàng công chức điển trai, vui vẻ, thành đạt, đang ở độ sung sức nhất, vừa rời khỏi một cuộc họp để đến phòng tập thể thao. Tôi cười phá lên. Tôi nhìn bóng mình trong gương và sự kì cục nực cười của hình ảnh ấy cứ thế trào ra.
Cười. Lại là một điều đầu tiên khác đối với tôi.
“Ôi trời…” Nora nói, lùi lại nhìn tôi, và Julie nói, “Hờ,” nàng ngoẹo đầu sang một bên. “Trông anh…”
“Trông anh nóng bỏng!” Nora buột ra. “Cho tớ mượn hắn được không, Julie? Chỉ một đêm thôi?”
“Ngậm cái mồm bậy bạ của cậu lại,” Julie vừa cười vừa ngắm tôi. Nàng chạm vào trán tôi, vào cái khe hẹp không một giọt máu nơi nàng đã từng ném con dao vào. “Chắc mình phải che chỗ đó lại. Xin lỗi nhé, R.” Nàng dán một miếng băng dính lên vết thương và nhẹ nhàng ép nó xuống. “Rồi.” Nàng lại lùi lại và ngắm tôi như một nhà họa sĩ cầu toàn, đã hài lòng nhưng vẫn còn một chút băn khoăn.
“Được… chứ?” tôi hỏi.
“Hừm,” nàng nói.
Tôi tặng nàng một nụ cười lấy lòng đẹp hết mức, môi nhệch ra.
“Ôi Chúa ơi. Nhất quyết là không được làm thế.”
“Cứ tự nhiên đi,” Nora nói. “Giả vờ như anh đang ở nhà mình, ở sân bay, xung quanh là bạn bè, nếu như anh có bạn bè.”
Tôi nhớ lại giây phút Julie đặt tên cho tôi, nhớ lại cảm giác ấm áp đã tràn lên mặt tôi lần đầu tiên khi chúng tôi chia nhau một chia bia và một đĩa đồ ăn Thái.
“Đấy, tốt hơn rồi,” Nora nói.
Julie gật đầu, áp nắm tay lên nụ cười trên miệng như để giữ một luồng cảm xúc nào đó. Một sự pha trộn giữa thích thú, tự hào và âu yếm. “Trông anh được lắm, R ạ.”
“Cảm… ơn.”
Nàng hít một hơi thật sâu vẻ quyết tâm. “Được rồi.” Nàng đội một cái mũ len lên đầu để che mớ tóc bù xù và kéo khóa chiếc áo nỉ lên. “Sẵn sàng để xem nhân loại đã làm gì kể từ khi anh rời bỏ nó chưa?”
TRONG NHỮNG NGÀY săn tìm ở thành phố trước kia, tôi thường nhìn lên tường Sân vận động và tưởng tượng ra trong đó là một thiên đường. Tôi mặc nhiên cho rằng nó là một nơi hoàn hảo, rằng mọi người sống trong đó đều sung sướng, đẹp đẽ và không thiếu thứ gì, và theo cái cách đờ đẫn, hạn hẹp của mình, tôi thấy ghen tị và càng muốn ăn thịt họ hơn. Nhưng hãy nhìn nơi này xem. Những tấm mái tôn sóng phản quang chói mắt dưới ánh nắng. Những cái chuồng đầy ruồi nhốt gia súc bị bơm đầy hooc môn và miệng không ngừng la rống. Những thứ quần áo cáu bẩn không sao giặt sạch được phơi trên những sợi dây chằng giữa các tòa nhà, phất phơ trong gió như cờ trắng đầu hàng.
“Chào mừng đến thành phố Sân vận động,” Julie nói và giang rộng hai tay. “Nơi cư trú lớn nhất của loài người ở vùng trước kia là nước Mỹ.”
Tại sao chúng ta lại ở lại? Những giọng nói thì thào sâu thẳm trong tôi trong khi Julie chỉ ra các địa giới và những nơi đáng chú ý. Thành phố là cái gì và tại sao chúng ta lại cứ tiếp tục xây chúng? Vứt bỏ đi nền văn hóa, sự thông thương, các cửa hàng mua bán và giải trí, thì cái gì còn lại? Chỉ là một dãy các con phố vô danh với những người vô danh ư?
“Có hơn hai mươi ngàn người chui rúc trong cái bể cá này,” Julie nói khi chúng tôi chen qua đám đông đặc cứng ở quảng trường trung tâm. “Chẳng mấy chốc nữa, nó sẽ đông đến mức chúng tôi sẽ dính sát vào nhau. Loài người sẽ chỉ còn là một con amip khổng lồ không trí não.”
Tại sao chúng ta không tản ra? Đi về những vùng cao và định cư ở những nơi không khí cùng nguồn nước trong lành hơn? Chúng ta cần gì ở nhau trong cái đám thân thể lúc nhúc đầy mồ hôi này?
Tôi cố giữ mắt mình luôn nhìn xuống đất, hòa vào đám đông và không thu hút sự chú ý của ai. Tôi lén nhìn những tháp canh, bể nước và những tòa nhà mới đang mọc lên dưới tia lửa điện lóe sáng của những người thợ hàn, nhưng chủ yếu tôi chỉ nhìn dưới chân mình. Mặt đường nhựa. Những góc sắc cạnh mềm đi vì bùn và phân chó.
“Chúng tôi chỉ nuôi trồng chưa được một nửa những gì chúng tôi cần để sống sót,” Julie nói khi cả bọn đi qua khu vườn, một mảng xanh thoáng qua như một giấc mơ đằng sau các bức tường trong mờ của nhà kính. “Vì vậy thức ăn thật được chia thành khẩu phần rất nhỏ, vì chúng tôi bù vào chỗ thiếu trong suất ăn bằng Carbtein.” Ba cậu thiếu niên mặc áo liền quần màu vàng bê một thùng cam ngang qua chúng tôi, và tôi nhận thấy một gã trong bọn có những vết lở loét rất lạ chạy dọc một bên mặt, những mảng nâu trũng xuống như chỗ bị nhũn trên quả táo, như thể các tế bào đã bị sụp đổ vậy. “Đấy là chưa kể đến việc mỗi tháng chúng tôi dùng hết số thuốc bằng của cả một hiệu thuốc. Các đội tìm kiếm không thể cáng đáng đủ. Chẳng mấy chốc nữa chúng tôi sẽ phải gây chiến với các vùng định cư khác vì một lọ Prozac[1] cuối cùng.”
[1] Thuốc an thần dùng để trị bệnh trầm cảm
Có phải là chỉ vì sợ hãi hay không? Những giọng nói băn khoăn. Vào những thời khắc tốt đẹp nhất chúng ta vẫn sợ, thì làm sao chúng ta có thể chống chọi được với thời khắc tồi tệ nhất? Vì vậy chúng ta đã đi tìm những bức tường cao nhất và dồn vào trốn phía sau chúng. Chúng ta cứ dồn cho tới khi chúng ta trở nên lớn nhất và mạnh nhất, bầu được những vị tướng giỏi nhất và tìm thấy nhiều vũ khí nhất, bởi vì chúng ta cho rằng những cái nhất ấy sẽ tạo nên hạnh phúc. Nhưng một điều hiển nhiên như thế sẽ không bao giờ có tác dụng.
“Tôi thấy lạ nhất một điều,” Nora nói khi lách qua cái bụng to tướng của một bà chửa vượt mặt, “là bất chấp những nhu cầu và sự khan hiếm này, người ta vẫn đẻ sòn sòn. Họ cứ liên tục tuồn ra những bản sao của chính mình chỉ vì đó là truyền thống, vì từ trước tới giờ chúng ta luôn làm vậy.”
Julie liếc nhìn Nora và mở miệng, rồi lại ngậm miệng vào.
“Và mặc dù chúng tôi đang sắp chết đói dưới một núi tã lót bẩn, thì không có ai đủ can đảm thậm chí chỉ để gợi ý là mọi người nên kế hoạch hóa ít lâu.”
“Ừ, nhưng mà…” Julie lên tiếng, giọng rụt rè khác hẳn bình thường. “Tớ không biết nữa… việc sinh con cũng rất tuyệt, cậu không thấy thế ư? Khi chúng ta vẫn tiếp tục sống và sinh trưởng mặc dù thế giới đã biến thành xác chết?”
“Chuyện loài người cứ tiếp tục quay lại thì có gì là tuyệt chứ? Bệnh mụn rộp cũng luôn quay lại đấy thôi.”
“Thôi đi Nora, cậu yêu nhân loại mà. Chỉ có Perry mới là kẻ chán đời thôi.”
Nora cười và nhún vai.
“Đây không phải là chuyện tăng dân số, mà là truyền lại lịch sử và kiến thức của con người để tất cả có thể tiếp tục. Để chúng ta không kết thúc. Tất nhiên là theo một cách nào đó thì nghe có vẻ ích kỉ thật, nhưng nếu không thế thì cuộc sống ngắn ngủi của chúng ta có ý nghĩa gì đâu?”
“Tớ đoán là đúng thế thật,” Nora nhượng bộ. “Chúng ta chẳng còn di sản nào khác trong cái thế giới sau-tất-cả-mọi-thứ này.”
“Đúng đấy. Tất cả đều đang biến dần đi. Tớ nghe nói quốc gia cuối cùng trên thế giới vừa sụp đổ hồi tháng một.”
“Thế à? Là nước nào đấy?”
“Không nhớ. Hình như là Thụy Điển thì phải.”
“Tức là quả đất đã chính thức bị xóa sổ? Buồn thật.”
“Ít nhất thì cậu vẫn còn chút di sản văn hóa chứ. Bố cậu là người Ethiopia phải không?”
“Ừ, nhưng cái đó thì có nghĩa gì với tớ chứ? Bố tớ không nhớ đất nước cũ của mình, tớ chưa bao giờ đến đó, và giờ nó không còn tồn tại nữa. Tớ chỉ còn lại nước da nâu này, mà bây giờ thì ai còn để ý màu da nữa?” Cô phẩy tay về phía mặt tôi. “Một hai năm nữa là tất cả bọn mình sẽ trở thành màu xám ngoét hết.”
Tôi tụt lại phía sau trong khi họ tiếp tục tranh luận. Tôi ngắm họ nói chuyện và đưa tay chỉ trỏ, lắng nghe giọng nói của họ mà không chú ý xem họ đang nói cái gì.
Chúng ta còn lại những gì? Những hồn ma rên rỉ, lùi dần vào bóng tối trong tiềm thức của tôi. Không quốc gia, không văn hóa, không chiến tranh, nhưng cũng không có hòa bình. Cái gì nằm trong thâm tâm chúng ta? Cái gì vẫn còn vặn vẹo trong từng khúc xương khi tất cả những thứ khác đã bị lột bỏ?