“Cậu đây rồi.”
Julie trèo lên thang và đứng lên mái ngôi nhà mới của tôi, ngắm nhìn tôi. Tôi đưa mắt nhìn nàng, rồi lại vùi mặt vào lòng bàn tay. Nàng đến gần tôi, cẩn thận dò bước trên những tấm kim loại mỏng, rồi ngồi xuống cạnh tôi ở mép mái nhà. Chân chúng tôi thò xuống đu đưa chầm chập trong không khí mùa thu se lạnh.
“Perry?”
Tôi không trả lời. nàng ngắm một bên khuôn mặt tôi. Nàng đưa tay ra, lùa hai ngón tay qua mái tóc bờm xờm của tôi. Cặp mặt xanh biếc của nàng lôi kéo tôi như trọng lực, nhưng tôi cố cưỡng lại. Tôi nhìn xuống con phố đầy bùn.
“Thật không tin được là mình ở đây,” tôi lầm bầm. “Ngôi nhà ngu ngốc này. Với những thứ đồ bỏ này.’
Nàng không đáp lại ngay. Khi nàng lên tiếng, giọng nàng rất nhẹ nhàng. “Họ đâu phải đồ bỏ. Họ đã được yêu thương.”
“Chỉ trong chốc lát thôi.”
“Bố mẹ họ không bỏ đi. Họ đã bị cướp đi.”
“Thế thì có khác gì nhau đâu.”
Nàng nhìn tôi chăm chú đến nỗi tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài quay sang đáp lại cái nhìn của nàng. “Mẹ cậu đã rất yêu cậu, Perry ạ. Cậu không bao giờ phải nghi ngờ điều đó. Và cả bố cậu cũng vậy.”
Tôi không thể chịu nổi sức ép này nữa. Tôi bỏ cuộc và để cho nó đè nặng lên mình. Tôi quay đầu tránh Julie khi nước mắt trào ra.
“Nếu muốn thì cậu cứ tin là Chúa đã bỏ rơi cậu, hay số phận hay định mệnh đã bỏ rơi cậu, cái gì cũng được, nhưng ít ra cậu cũng biết là họ đã yêu cậu.”
“Có gì quan trọng đâu.” Tôi rên lên, tránh mắt nàng. “Ai cần quan tâm chứ, họ đã chết rồi. Đó mới là thực tại. Đó mới là điều đáng kể.”
Chúng tôi không nói gì suốt mấy phút. Làn gió lạnh làm tay chúng tôi nổi da gà. Những chiếc lá rực rỡ tìm đường đến từ tận những khu rừng ở bên ngoài, xoay tròn rơi vào cái miệng khổng lồ của Sân vận động và hạ cánh lên mái nhà.
“Cậu biết không, Perry,” Julie nói. Giọng nàng run lên vì nỗi đau riêng. “Tất cả mọi thứ rồi sẽ phải chết. Chúng ta đều biết thế. Con người, thành phố, cả các nền văn minh. Không có gì tồn tại mãi mãi cả. Vì thế nếu sự tồn tại chỉ là hệ nhị phân, sống hoặc chết, ở đây hoặc không ở đây, thì tất cả sẽ có ý nghĩa quái gì?” Nàng ngẩng lên nhìn những chiếc lá rụng và chìa tay ra bắt được một cái, một chiếc lá phong đỏ rực. “Mẹ mình vẫn thường nói đó là lí do chúng ta có kí ức. Và điều trái ngược của kí ức – hy vọng. Để cho những điều đã biến mất vẫn còn ý nghĩa. Để chúng ta có thể dựa vào quá khứ mà xây dựng tương lai.” Nàng xoay xoay chiếc lá trước mặt. “Mẹ mình nói cuộc sống sẽ chỉ có ý nghĩa nếu chúng ta nhìn được thời gian theo cách của Chúa. Quá khứ hiện tại và tương lai cùng một lúc.”
Tôi cho phép mình quay sang nhìn Julie. Nàng thấy những giọt nước mắt của tôi và lau đi một giọt. “Thế tương lai là gì?” Tôi hỏi, không lùi lại. “Mình có thể thấy quá khứ và hiện tại nhưng còn tương lai thì sao?”
“Ờ…” nàng cất tiếng cười. “Mình đoán đó là phần rắc rối đấy. Quá khứ được tạo thành bởi sự kiện và lịch sử. Mình đoán tương lai chỉ là hy vọng mà thôi.”
“Hoặc là nỗi sợ.”
“Không.” Nàng lắc mạnh đầu và cài chiếc lá lên tóc tôi. “Hy vọng.”
* * *
Sân vận động hiện ra ở cuối đường chân trời trong khi những Người Chết lảo đảo tiến tới trước. Nó vươn cao hơn phần lớn những tòa nhà xung quanh và chiếm hết vài khối phố, một vật tưởng niệm lòe loẹt dành cho một kỉ nguyên dư thừa, một thế giới đầy những hoang phí và những giấc mơ lầm lạc đã chấm dứt hoàn toàn.
Đoàn Xác Sống chúng tôi đã đi bộ hơn một ngày nay, lang thang trên những con đường rộng mở như dân hippi trong truyện của Kerouac, chỉ khác là không có tiền mua xăng thôi. Những người khác thấy đói, và họ cùng âm bàn bạc chớp nhoáng, gần như không dùng lời, trước khi dừng lại ở một căn nhà cũ bị bịt kín để kiếm ăn. Tôi đợi ở ngoài. Bữa ăn gần đây nhất của tôi đã lâu lắm rồi, nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy thoải mái lạ lùng. Trong các huyết mạch của tôi là một cảm giác trung tính, cân bằng giữa đói khát và no nê. Tiếng hét vọng ra từ ngôi nhà xuyên qua tôi sắc bén hơn nhiều so với những khi tôi tự tay giết người, thế mà lúc này tôi còn không ở gần họ nữa. Tôi đứng thật xa ngoài phố, hai tay bịt chặt tai và đợi cho mọi chuyện kết thúc.
Khi họ bước ra, âm tránh cái nhìn của tôi. Anh đưa mu bàn tay quệt máu trên miệng và liếc tôi vẻ hối lỗi trước khi vượt lên trước. Những người khác thì chưa đạt được đến mức có lương tâm như M, nhưng họ cũng có vẻ gì đó khang khác. Họ không lấy đồ thừa đem về. Họ lau sạch bàn tay vấy máu lên quần. Họ bước đi trong sự im lặng lúng túng. Cũng là một khởi đầu rồi.
Khi đến gần Sân vận động đủ để thoáng ngửi thấy mùi Người Sống, tôi xem xét lại kế hoạch trong đầu mình. Thực ra kế hoạch cũng chẳng có gì. Nó đơn giản như trò trẻ con, nhưng nó sẽ thành công vì lí do này: chưa ai từng thử làm thế. Chưa từng ai có đủ quyết tâm để tìm ra cách.
Còn cách cổng vào chừng vài khối nhà, chúng tôi dừng lại ở một căn nhà bỏ hoang. Tôi đi vào nhà tắm và ngắm mình trong gương như những chủ nhân trước kia của ngôi nhà hẳn đã từng làm cả ngàn lần. Tôi điểm qua trong đầu những nghi thức buổi sáng lặp đi lặp lại đến phát nhàm, để nhập vai. Đồng hồ báo thức – tắm – thay quần áo – ăn sáng. Trông tôi đã bảnh bao chưa? Tôi đã cố hết sức chưa? Khi bước ra khỏi cánh cửa kia tôi đã sẵn sàng cho tất cả những gì thế giới có thể ném vào tôi chưa?
Tôi bôi ít keo lên tóc. Tôi xịt chút nước cạo râu lên mặt. Tôi chỉnh lại cà vạt.
“Sẵn sàng rồi,” tôi bảo những người khác.
Âm ngắm nghía tôi. “Cũng được đấy.”
Chúng tôi tiến về phía cổng.