Lúc An Đề gửi tin nhắn, Chu Cánh đang ở trong khu căn cứ. Trong giờ làm việc, điện thoại của anh thường để chuông thông báo để tránh bỏ lỡ tin tức quan trọng.
Vì đang nói chuyện với người khác nên dù nghe thấy tiếng thông báo WeChat, anh cũng không xem ngay được.
Gần đây, anh đang có hợp tác với sở nghiên cứu khoa học nông nghiệp của tỉnh, họ đã cử chuyên gia đến khu căn cứ để trao đổi và chỉ đạo.
Điều kiện tài nguyên nước của Nghi Giang không tệ, trên mặt đất có sông có suối, dưới lòng đất cũng có mạch nước ngầm, nhưng độ phì nhiêu của đất lại không đủ. Muốn cây trồng tăng sản lượng, tăng thu nhập, thì việc đầu tiên là phải cải tạo độ phì của đất.
Tiếp theo là hạt giống. Các giống cây địa phương không tốt, nên phải dùng kỹ thuật lai tạo để cải tiến, hoặc du nhập các giống cây từ những khu vực khác trong nước.
Chu Cánh không xuất thân từ chuyên ngành nông học. Hồi anh còn nhỏ, trong thôn đã thịnh hành quan niệm “học hành để thay đổi vận mệnh”. Chu Liệt không phải mầm mống học hành nên sớm đã nhập ngũ, bố mẹ anh dồn hết hy vọng vào cậu con trai út.
Để anh có thể chuyên tâm học hành, họ cũng không bắt anh làm nhiều việc đồng áng. Rất nhiều kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức lý luận, cũng là sau khi Chu Liệt qua đời, anh trở về Nghi Giang mới dần dần tích lũy được.
Những thứ truyền lại từ đời này sang đời khác, tất nhiên là có ích, nhưng chúng đã quá cũ kỹ, lạc hậu, mà thời đại này lại yêu cầu những con dao được mài sắc bén. Chu Cánh cũng phải học hỏi như vậy.
Đỉnh của khu căn cứ là kết cấu khung sợi thủy tinh, bên trong trồng không ít rau quả dùng cho thí nghiệm. Không có điều hòa, người ở bên trong chỉ một lát, quần áo trước sau đã ướt đẫm mồ hôi.
Người làm việc lâu dài ở ngoài đồng thì không ai trắng nổi. Nói khó nghe một chút, liếc mắt nhìn qua, ai nấy cũng đều đen nhẻm.
Anh bất giác nghĩ đến An Đề, mỗi lần trước khi ra cửa cô như lâm phải đại địch, xịt xịt trét trét một lớp kem chống nắng dày cộp lên người, không khỏi bật cười.
“Anh Cánh, anh cười gì thế?”
Người hỏi là một nghiên cứu sinh nông học của Đại học Kỳ Châu, tên Tạ Triệu Hải. Từ lúc còn đi học cậu ta đã theo giáo sư hướng dẫn đến chỗ Chu Cánh làm dự án, tốt nghiệp xong cũng ở lại đây luôn.
Bởi vì có quá nhiều người họ Chu, nên nếu không thân, mọi người sẽ gọi cả họ lẫn tên, hoặc gọi theo chức vụ, còn thân rồi thì chỉ gọi tên.
“Không có gì.” Chu Cánh lại hỏi: “Bên này sắp xong chưa?”
“Vâng, lát nữa phải mời họ ăn bữa cơm trưa.”
“Cậu đặt chỗ chưa?”
“Em đặt phòng lớn ở Say Đỉnh Hiên ngoài huyện rồi, quản lý nói ngồi được mười người, không biết có đủ không.”
“Chắc là đủ. Cậu với anh Dân cùng đi nhé, về rồi tìm bên tài vụ thanh toán.”
Tạ Triệu Hải nhăn mặt: “Không phải chứ, anh Cánh, anh không đi à? Em sợ anh Dân lắm.”
Đội ngũ của Chu Cánh đa phần toàn là người trẻ tuổi. Anh Dân là người lớn tuổi nhất trong số họ, ngoài bốn mươi, vợ con cũng ở Kỳ Châu. Con trai anh ta mới lên cấp ba, chi tiêu tốn kém, mà Chu Cánh trả lương đãi ngộ tốt, nên anh ta liền theo về làm phó cho anh.
Nhưng tướng mạo anh Dân hơi dữ, tính tình cũng không tốt, hễ cấp dưới phạm sai lầm nhỏ là anh ta lập tức tăng âm lượng, có khi đến Chu Cánh cũng dám “bật”.
Trước đây lãnh đạo ở công ty cũ không thích anh ta cũng chính vì cái tật này.
“Nhà có chút việc.” Chu Cánh vỗ vai cậu ta: “Công ty ít người, tôi lại thường xuyên không có mặt. Cậu muốn tự mình gánh vác một mảng thì sớm muộn cũng phải đối mặt thôi.”
Dứt lời, anh cởi áo blouse trắng, giải thích tình hình với chuyên gia của sở nông khoa rồi rời đi trước.
Chu Cánh lên xe, lúc này anh mới lấy điện thoại ra xem tin nhắn.
Mấy tin mới nhất đều là của An Đề.
Trong ảnh, một lớn một nhỏ cười đặc biệt rạng rỡ, không dùng bất kỳ bộ lọc hay hiệu ứng làm đẹp nào, hiện lên một làn da chân thật nhất. Nhưng có lẽ do ánh sáng, An Đề vẫn trắng đến phát sáng. Giống như hòn sỏi cuội trắng trẻo vớt lên từ con suối hồi nhỏ, vừa mịn màng vừa bóng loáng.
Tấm tiếp theo, cả hai cùng phồng má, nhíu mày, mặt đối mặt lườm nhau.
Anh khẽ bật cười. Trông y như hai con cá nóc đang tức giận.
Rõ ràng, với mối quan hệ của họ, chưa đến mức cô có thể thản nhiên gửi ảnh tự sướng cam thường như vậy, tám chín phần là cô gửi nhầm.
Nhưng dù sao cũng nên trả lời cái gì đó. Anh nghĩ nghĩ, con gái chẳng phải luôn thích được khen xinh sao.
Chu Cánh: Đẹp lắm.
Cô cũng nhận ra vấn đề, vội nhắn: Xin lỗi Chú Chu, gửi nhầm người.
Rất khéo, tin nhắn đến cùng lúc.
Ngay sau đó, dòng chữ “Đối phương đang nhập…” cứ nhấp nháy hồi lâu trên khung chat.
Anh không biết liệu lời khen kia có dọa cô sợ không, đang do dự có nên thu hồi hay không, để tránh cô tiếp tục lúng túng.
Cuối cùng cô cũng gửi tới.
Ann: Tôi biết tôi xinh đẹp rồi, nhưng mà Chú Chu, vốn từ vựng của chú nghèo nàn thế à?
Nên hiểu mạch não của cô thế nào đây?
Đã khen rồi, cô còn bắt bẻ là khen không đủ hoa mỹ.
[Đối phương đã thu hồi một tin nhắn]
Ann: ?
Chu Cánh: Tôi nói Chỉ Thực.
Ann: …
Ann: Ồ. [Icon mỉm cười]
Cái icon mặt cười kia tựa như họng súng máy chĩa vào tường, hận không thể b*n r* mấy viên đạn xuyên thủng anh.
Tâm trạng Chu Cánh vui vẻ lạ thường mà cất điện thoại đi, mặc dù việc này có hơi ấu trĩ, giống như người lớn xấu tính đi bắt nạt một đứa trẻ thật thà.
Anh nói nhà có việc, là có việc thật.
Mùa hè oi bức và mùa đông giá rét là thời điểm người già khó qua khỏi nhất. Tục ngữ có câu, người già có ba cái ngưỡng, chịu đựng được thì trường thọ, 73 tuổi chính là một trong số đó. Mấy hôm trước anh nhận được điện thoại, nói một người bà cô họ của anh qua đời. Không biết là vận mệnh đã định, hay là trùng hợp, bà vừa qua sinh nhật 73 tuổi không lâu.
Hôm nay làm tang lễ, người nhà họ mời gia đình Chu Cánh qua phụ giúp. Tuổi bà Từ Lệ Phân đã cao, việc này tự nhiên rơi xuống đầu Chu Cánh.
Buổi sáng Chu Cánh ở khu căn cứ, họ liên tục gọi giục, nói là không lo liệu xuể, mong anh nhanh chóng qua.
Nói đi cũng phải nói lại, anh cũng không phải họ hàng trực hệ, thậm chí còn không thân thiết lắm với bà cô này, chỉ là lúc bố anh còn nhỏ, ông có chịu ơn bà quan tâm. Lúc bố anh qua đời, họ cũng có đến phúng viếng.
Đây đều là tình nghĩa qua lại, bất kể là đám cưới hay đám tang, bất kể là người sống hay người ch·ết.
Chu Cánh phải về nhà một chuyến để thay quần áo, bộ đồ trên người ướt đẫm mồ hôi.
Vừa vào cửa, Chu Chỉ Thực đã bám dính lấy anh, làm cái đuôi nhỏ, chạy theo vòng vòng: “Chu Cánh, chú đi đâu đấy? Con cũng muốn đi.”
Bà Từ Lệ Phân nói: “Ăn cơm đậu hũ mà con đi làm gì?”
Chỉ Thực ngây thơ hỏi: “Ai ch·ết ạ?”
“Cơm đậu hũ” (hay “cơm chay” theo tiếng địa phương) là cách nói ở nhiều nơi tại Kỳ Châu, thực chất chính là bữa cơm trong tang lễ. Vì trước đây mâm cỗ nào cũng có món đậu hũ, nên mới có cách gọi như vậy.
Tuổi cô bé còn nhỏ, không có kiêng kỵ gì về cái ch·ết, Chu Cánh cũng không né tránh: “Một bà cô của con.”
Bộ não nhỏ bé của Chỉ Thực không nhớ được nhiều người: “Bà cô nào ạ? Con có quen không?”
“Con không thân.”
Anh cúi xuống, vốc nước lên rửa mặt và cổ cho bớt mồ hôi. Nước thừa văng ướt áo anh. Vì áo màu sáng nên làm nổi bật lên làn da ngăm đen và lồng ngực vạm vỡ. Nửa kín nửa hở, vô cùng mê người.
An Đề đứng cách đó không xa, thỉnh thoảng lại liếc trộm.
Thôi được rồi, cô không thể không thừa nhận, “nam sắc” của Chu Cánh cũng có chút hấp dẫn.
Cô chưa từng có bạn trai, càng chưa tiếp xúc sâu với đàn ông, nên cũng khá tò mò —— lúc anh gồng sức, có phải cơ bắp sẽ rất cứng, kiểu véo cũng không nổi không.
Chỉ Thực nói: “Thế con cũng muốn đi, ở nhà chán lắm.”
Cô bé suốt ngày như tiêm máu gà, yên phận được bao lâu là lại phải tìm trò chơi. So với con ếch nhỏ ồn ào này, An Đề lại giống như con cá phơi bụng trắng dã trên hồ.
Chu Cánh vẩy nước, nhìn về phía bà Từ Lệ Phân, trưng cầu ý kiến: “Hay là con đưa con bé đi luôn.”
Bà nghĩ nghĩ, nói “Cũng được”, rồi lại hỏi: “Tiểu Đề có muốn đi không? Bên đó vui hơn đấy.”
An Đề đột nhiên bị điểm danh, ngớ ra: “Hả? Cháu đi có tiện không ạ, cháu có quen ai đâu.”
Chu Cánh nói: “Không sao, có rất nhiều người không thân cũng sẽ đến. Buổi chiều bên đó còn có hát tuồng, em có thể qua xem.”
Tập tục ở Nghi Giang, hễ nhà nào làm cỗ, dù là người qua đường cũng có thể vào ăn ké. Dù có hết chỗ ngồi, chủ nhà nhiệt tình cũng sẽ cố dịch vào, chừa ra một chỗ.
Bà Từ Lệ Phân nhớ tuần trước mới đi ăn cỗ về, thở dài thườn thượt: “Hè năm nay đi mất mấy người rồi, cũng không biết mẹ có sống được đến ngày bế cháu nội không nữa.”
Lời này rõ ràng là đang thúc giục kết hôn trá hình, cố ý nói cho Chu Cánh nghe.
Ai ngờ anh đã vào phòng, cũng không biết là cố ý lảng tránh, hay là trùng hợp không nghe thấy.
Kết quả là Chỉ Thực lại tưởng thật, vỗ về cánh tay bà Từ Lệ Phân, an ủi: “Bà nội, bà yên tâm đi, bà sống được đến một trăm tuổi luôn!”
An Đề chợt nhớ ra điều gì, hấp tấp đẩy cửa phòng Chu Cánh: “Chu…”
Chữ “Cánh” còn chưa kịp phát ra khỏi miệng.
Bởi vì anh đang thay quần áo.
Cụ thể mà nói, anh đang cởi áo phông đến nửa chừng, để lộ toàn bộ tấm lưng trần.
Vì hai tay đang đan chéo, xương bả vai nhô ra, tạo thành một mảng đồi núi nhấp nhô, đường cong ở eo thắt lại, săn chắc mà mượt mà.
Vai rộng eo thon, lực tác động thị giác còn mạnh hơn cả lúc trước.
Nghe thấy tiếng, Chu Cánh theo bản năng quay đầu lại, anh vội vàng mặc lại áo.
“Sao vậy?”
Một người đàn ông to xác như vậy mà cũng biết ngại à.
Mặt An Đề không đỏ tim không đập nhanh, cô không né không tránh, ngược lại còn nhìn thẳng vào mắt anh: “À, tôi muốn hỏi chú, đi đám tang thì mặc quần áo có cần chú ý gì không? Bộ này của tôi màu sắc có sặc sỡ quá không?”
Cô có tất cả quần áo mùa hè, không phải màu trắng thì cũng là màu sáng, dường như không thích hợp để mặc đi tang lễ.
Chu Cánh nói: “Váy trắng kiểu bình thường một chút là được.”
“Ồ.”
Đáp xong, An Đề đang định lui ra ngoài thì lại quay lại, nói: “Dáng đẹp đấy.”
Không đợi anh phản ứng, cô bổ sung một câu: “Tôi nói người sau lưng chú ấy.”
Chu Cánh nhìn theo tầm mắt cô.
Tuy cách nói của cô rất giống truyện kinh dị, nhưng… trên tường quả thật có treo một bức chân dung của vĩ nhân.
An Đề đóng cửa lại, mang theo cảm giác hả hê như vừa “báo thù” thành công, bước chân về phòng cũng trở nên nhẹ nhàng.
Có điều, nói đến “váy trắng bình thường”, cô lục tung hai cái vali hành lý, mới nhận ra, cô thật sự không có cái nào.
Quần áo cô mua toàn là kiểu thiết kế hoa hòe hoa sói, trông chẳng có cái nào trang trọng.
An Đề lóe lên một ý, hỏi bà Từ Lệ Phân: “Bà nội, bà có quần áo nào cho cháu mượn mặc được không ạ?”
Bà Từ Lệ Phân thấp hơn An Đề, nhưng bà thích mặc đồ rộng rãi thoải mái, An Đề lại mảnh mai, nên cũng có thể mặc vừa.
Cuối cùng, cô phối một bộ bình thường nhất: áo voan lụa (chiffon) thắt nơ màu thủy mặc, và quần lửng ống rộng màu đen.
Bà Từ Lệ Phân ngắm tới ngắm lui, cười ha hả: “Lớn lên xinh đẹp, mặc gì cũng đẹp.”
Kiểu dáng này hơi đứng tuổi, nhưng An Đề mặc vào lại ra một phong cách khác, có thêm vẻ điển nhã của mỹ nhân cổ điển.
Cô mân mê vạt áo: “Chất liệu này tốt thật.”
“Đúng vậy, Chu Cánh mua cho bà đấy, bà hỏi nó bao nhiêu tiền mà nó không nói. Bà cũng không nỡ mặc.”
An Đề nói: “Quần áo mua về không phải là để mặc sao, mặc hỏng rồi thì lại mua cái mới ạ.”
Bà Từ Lệ Phân xua xua tay: “Hôm nay bà còn phải làm đồng, mặc vào cũng làm hỏng hết. Cháu mặc đẹp hơn bà, nếu cháu không chê thì cứ mặc luôn đi.”
An Đề bỗng thấy lòng mình xúc động, cô cảm thấy bà rất giống bà ngoại cô.
Rõ ràng đã không còn ở cái thời vật chất thiếu thốn, cũng không phải sống trong điều kiện thắt lưng buộc bụng, mà các bà vẫn cất kỹ những thứ mình cho là quý giá, để dành lại cho con cháu.
Mà những món đồ con cháu tặng, không phải là các bà không thích, mà là vì quá trân trọng, nên mới cất kỹ đi.
An Đề nhớ hồi còn rất nhỏ, cô mua một hộp kẹo mà cô thấy rất ngon, vứt cái hộp đóng gói tinh xảo đi, thay bằng cái hộp giấy xấu xí tự vẽ, mang đến cho bà.
Còn uy h**p bà: “Bà không được chê nó, phải cất cho kỹ.”
Sau này, hộp kẹo đó lại bị chính cô ăn hết;
Lại sau này nữa, bà ngoại qua đời, lúc dọn dẹp di vật, người ta tìm thấy trong ngăn kéo của bà chiếc hộp kẹo được gấp ngay ngắn.
Chờ đến khi người ta hiểu ra rằng cảm nhận được tình yêu không phải là chuyện dễ dàng, thì thường đã bỏ lỡ rất nhiều điều rồi.
Khi được bao bọc trong mật ngọt của tình yêu, người ta chỉ lo lắng có con ong nào bay đến hút mất, nên tìm cách thoát ra; đến khi biến thành phấn hoa bay lơ lửng trong không trung, phiêu dạt theo gió, mới biết được mình đã từng ở nơi an ổn đến nhường nào.
Lên xe, lòng An Đề ngổn ngang cảm xúc. Cô nói với Chỉ Thực: “Chỉ Thực, em nhớ phải yêu thương bà nội thật tốt nhé.”
Chu Chỉ Thực: “Hả?”
“Bởi vì chờ em lớn lên, em sẽ hiểu, lúc bà yêu thương em nhất, em chỉ biết nhận lấy mà không biết yêu thương bà; còn đến lúc em học được cách yêu bà, thì bà đã già, hoặc là không còn nữa. Đó có thể sẽ là điều hối tiếc cả đời em.”
An Đề không trông mong ở tuổi này cô bé có thể hiểu được, ánh mắt cô lướt qua Chỉ Thực.
Giờ này khắc này, xe đã ra khỏi thôn Chu Gia một đoạn. Lúa ven đường uốn mình theo gió, dây cáp quang chia cắt bầu trời thành những mảng lớn nhỏ không đều. Vài con chim sẻ đậu trên dây điện, cúi đầu rỉa lông.
Xe lại lướt qua một đầm sen, những đóa sen lớn vươn cao giữa đám lá dày đặc, có đóa trắng, có đóa hồng đậm, vừa thanh khiết, lại vừa yêu kiều. Trên bờ có đứa trẻ đội một tàu lá sen rộng, cố rướn tay ra hái đài sen. Xe chạy qua rồi, cũng không biết cậu bé có hái được không.
Tất cả, tất cả, đều giống như bức tranh sơn dầu của Monet, những gam màu bão hòa khiến lòng người vui vẻ, thoải mái.
Cô lại cười, nói: “Hôm nay thời tiết đẹp thật.”
Tâm trạng vui vẻ này có vẻ hơi lạc lõng giữa một đám tang.
Nhưng thực ra, cô đang mải nghĩ về câu trả lời của bà Từ Lệ Phân với Chỉ Thực lúc nãy:
“Sống được đến một trăm tuổi hay không cũng không sao, sống được ngày nào hay ngày đó, đều là ơn trời ban, để bà còn được nhìn con lớn lên.”
An Đề không ngờ, triết lý sống của bà cụ lại hợp với mình đến lạ.
Cứ sống thôi, mặc kệ là “nằm im kệ đời” hay nỗ lực phấn đấu, sống được ngày nào, hay ngày đó.
Được ngắm phong cảnh đẹp thế này, coi như hôm nay cũng không uổng phí.
Và có lẽ, cũng nên mong chờ thêm một chút vào ngày mai.
Cô chợt nghĩ, Nghi Giang, nơi này… thực ra cũng không phải là không ở nổi.