Nhà Giả Kim - Chương 12

TRONG NGÀY THỨ HAI, SANTIAGO LEO LÊN MÕM ĐÁ GẦN TRẠI. Những kẻ canh gác cho phép cậu ta đi; họ đã nghe về chuyện những nhà phù thủy có thể biến mình thành gió, và họ không muốn đến gần cậu ta. Trong bất cứ trường hợp nào, sa mạc thì không thể vượt qua được.

Santiago dành trọn buổi chiều ngày thứ hai để nhìn ra sa mạc, và lắng nghe trái tim của cậu. Cậu ta biết sa mạc cảm thấy sự sợ hải của cậu.

Cả hai cùng nói chung một ngôn ngữ.

VÀO NGÀY THỨ BA, THỦ LĨNH GẶP NHỮNG NGƯỜI TRONG BAN THAM MƯU CỦA ÔNG. Ông ta gọi ông cụ giả kim vào họp và nói, “Hãy xem cậu kia biến mình thành gió.”

“Nào,” ông cụ giả kim trả lời.

Santiago dẫn mọi người đến mõm đá nơi cậu đã dành trọn buổi chiều hôm trước ở đấy. Cậu bảo mọi người ngồi.

“Nó sẽ cần một lúc,” cậu nói.

“Chúng tôi không vội vả gì cả,” thủ lĩnh trả lời. “Chúng tôi là những người của sa mạc.”

Santiago nhìn về phía chân trời. Có những dãy núi ở phía xa. Và có những đụn cát, sỏi đá, và cây cỏ khẳng định sự sống của mình ở nơi mà sự sống sót dường như không có thể tồn tại. Có sa mạc mà cậu đã quanh quẩn lang thang trong hàng tháng trời; nhưng tất cả cậu biết đấy chỉ là một phần nhỏ của nó. Trong phần nhỏ ấy, cậu đã gặp người Anh Cát Lợi, những đoàn người, những cuộc chiến bộ tộc, và một ốc đảo với năm mươi nghìn cây chà là và ba trăm giếng nước.

“Cậu muốn gì ở đây hôm nay?” sa mạc hỏi Santiago. “Cậu đã dành đủ thời gian để nhìn tôi hôm qua rôi chứ?”

“Ở một nơi nào đấy sa mạc đang giữ gìn người mà tôi yêu,” cậu ta nói. “Vì thế, khi tôi nhìn qua làn cát của ngươi, tôi cũng đang nhìn nàng ấy. Tôi muốn trở lại với nàng, và tôi cần sa mạc giúp tôi để tôi có thể biến mình thành gió.”

“Tình yêu là gì?” sa mạc hỏi.

“Tinh yêu là cánh chim ưng bay trên làn cát của sa mạc. Bởi vì với anh ta, ngươi là đồng cỏ xanh, nơi mà anh ta luôn luôn trở lại với những trò vui. Anh ta biết những hòn đá, những đụn cát, và những ngọn núi của sa mạc, và ngươi giàu có, hào phóng, và rộng rải với anh ta.

“Mỏ của chim ưng mang một phần của chính tôi,” sa mạc nói. “Qua bao năm, tôi lưu tâm đến những cuộc vui của anh ta, nuôi dưỡng anh ta với một ít nước mà tôi có, và rồi thì tôi chỉ cho anh ta nơi nào có thực phẩm để săn. Và, một ngày, khi tôi thích chí với sự kiện rằng trò vui của anh ta lớn mạnh trên bề mặt của tôi, chim lao khỏi bầu trời và mang đi những gì tôi đã tạo nên.”

“Nhưng đấy là tại sao sa mạc sáng tạo nên những cuộc vui, và thực phẩm một cách ưu tiên,” Sandiago trả lời. “Để nuôi dưỡng chim ưng. Và chim ưng nuôi dưỡng con người. Và cuối cùng, con người nuôi dưỡng làn cát của ngươi, nơi mà những cuộc vui, cuộc săn mồi sẽ một lần nữa nở rộ. Đấy là con đường mà thế giới liên tục diễn biến.”

“Thế thì tình yêu là gì?”

”Vâng, tình yêu là thế đấy. Nó là những gì làm nên cuộc vui, cuộc săn biến thành chim ưng, chim ưng biến thành con người, và con người, đến lượt anh ta biến thành sa mạc. Nó là những gì biến chì thành vàng, và làm vàng trở lại với trái đất.”

“Tôi không hiểu cậu đang nói gì,” sa mạc nói.

“Nhưng tối thiểu ngươi hiểu rằng ở nơi nào ấy trong sa mạc của ngươi có một người con gái đang chờ ta. Và đó là lý do tại sao ta phải biến mình thành gió.”

Sa mạc không trả lời cậu ta trong một vài khoảnh khắc.

Rồi thì nó nói với cậu ta, “tôi sẽ cho cậu cát của tôi để giúp cho làn cát bay lên, nhưng, một mình, tôi chẳng có thể làm gì được. Cậu có thể yêu cầu làn gió giúp đở.”

Một làn gió nhẹ bắt đầu thổi lên. Những người đàn ông của sa mạc nhìn Santiago từ xa, nói chuyện với nhau trong những ngôn ngữ mà cậu ta không hiểu.

Ông cụ giả kim mĩm cười.

Làn gió đến gần Santiago và chạm vào mặt cậu. Nó đã biết câu chuyện cậu ta nói với sa mạc, bởi vì gió biết mọi thứ. Gió thổi qua thế giới mà không có một nơi sinh ra, và không có nơi để chết.

”Giúp tôi,” cậu ta nói. “Một ngày nào đấy ngươi sẽ mang giọng nói của người ta yêu đến với ta.”

“Ai dạy cậu nói ngôn ngữ của sa mạc và làn gió?”

“Trái tim của tôi,” cậu ta trả lời.

Gió có nhiều tên lắm. Trong phần ấy của thế giới, nó được gọi là sirocco, bởi vì nói mang hơi nước từ đại dương đến phương đông. Trong vùng đất mà Santiago đến họ gọi là levanter, bởi vì họ tin rằng nó mang theo nó cát của sa mạc, những tiếng thét của những chiến trận Ma-Rốc. Có lẻ, những vùng phía bên kia những đồng cỏ nơi những con cừu của cậu ta sống, người ta nghĩ rằng làn gió đến từ Andalusia. Nhưng, chắc chắn, gió không đến từ đâu cả, nó cũng không đi đến bất cứ nơi nào; đấy là tại sao gió mạnh hơn sa mạc. Ai đấy có thể một ngày nào đấy trồng cây trên sa mạc, và ngay cả nuôi cừu ở đấy, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ có thể thống trị được làn gió.

“Cậu không thể là gió,” làn gió nói. “Chúng ta là hai thứ rất khác biệt nhau.”

“Điều ấy không đúng,” Santiago nói. “Ta học bí mật của thuật giả kim trên những chuyến hành trình của ta. Ta có trong ta những làn gió, những sa mạc, đại dương, những vì sao, và mọi thứ tạo nên trong vũ trụ. Tất cả chúng ta cùng được tạo nên bởi một bàn tay, và chúng ta có cùng chung một tâm linh. Ta muốn giống như ngươi, có thể đến mọi ngõ ngách của thế giới, vượt qua biển cả, thổi tung những làn cát bao phủ kho tàng của ta, và mang đến giọng nói của người con gái ta yêu.’

“Tôi đã nghe những gì cậu nói với ông cụ giả kim vào những ngày trước,” làn gió nói. “Ông cụ nói rằng mọi thứ đều có Huyền Thoại Cá Nhân của riêng nó. Nhưng người ta không thể tự biến mình thành gió.”

“Hãy dạy cho ta biến mình thành gió chỉ trong một lúc,” Santiago nói. “Rồi ta và ngươi có thể nói về những giới hạn có thể có của con người và gió.”

Sự tò mò của làn gió bị đánh thức, việc gì ấy chưa bao giờ xãy ra trước đây. Nó muốn nói về những thứ ấy, nhưng nó không biết làm thế nào biến một người thành gió. Và xem lại có bao nhiêu thứ mà gió đã biết làm và làm những thứ ấy như thế nào! Nó tạo nên sa mạc, đánh chìm những chiếc thuyền, đánh ngã cả rừng cây, và thổi qua những thành phố đầy những âm nhạc và âm thanh kỳ lạ. Nó cảm thấy rằng nó không có giới hạn, tuy nhiên ở đây là một chàng trai cho nó biết có những thứ khác làn gió có thể làm.

“Điều này là những gì chúng ta gọi là tình yêu,” Santiago nói, nhìn thấy làn gió đang tiến gần đến việc ban cho những gì cậu cầu thỉnh. “Khi ngươi yêu, ngươi có thể làm bất cứ việc gì trong sự sáng tạo. Khi ngươi được yêu, thì không phải hiểu những gì đang xãy ra, bởi vì tất cả mọi thứ xãy ra trong ngươi, và ngay cả con người có thể biến thành gió. Dĩ nhiên cho đến khi làn gió giúp đở.”

Làn gió vốn kiêu hảnh, và nó đang trở nên cáu tức với những gì Santiago nói. Nó bắt đầu thổi mạnh hơn, dâng cao làn cát sa mạc. Nhưng cuối cùng nó phải nhận ra rằng, ngay chuyển mình đi vòng quanh thế giới nó cũng không biết làm thế nào biến một người thành gió. Và nó không biết gì về tình yêu.

“Trong những chuyến du hành vòng quan thế giới, tôi thường thấy con người nói về tình yêu và nhìn hướng về thiên đàng,” làn gió nói, giận dữ khi nhận thức sự giới hạn của chính nó. “Có lẻ tốt hơn nên hỏi thiên đàng.”

“Tốt thôi, thế thì hãy giúp ta làm thế,” cậu ta nói. “Hãy làm tràn ngập nơi này với một trận bảo cát thật mạnh che kín mặt trời. Rồi thì ta có thể nhìn lên thiên đàng mà không phải chói mắt ta.”

Thế là làn gió thổi lên với tất cả sức mạnh của nó, và bầu trời bị phủ đầy cát. Mặt trời bị biến thành một chiếc đĩa màu vàng kim.

Tại khu trại, thật khó khăn để nhìn thấy bất cứ thứ gì. Người ta đã quá quen với làn gió như thế. Họ gọi nó là simum, và nó tệ hại hơn một cơn bảo ở biển. Những con ngựa của họ kêu rống lên, và tất cả những vũ khí của họ bị phủ đầy cát.

Phía trên cao, một trong những người trong ban tham mưu quay sang nói với thủ lĩnh, “Có lẽ chúng ta nên chấm dứt việc này là tốt hơn.”

Họ rất khó khăn để nhìn thấy Santiago. Mặt mũi họ bao phủ bởi những làn vải xanh, và mắt họ biểu lộ sự sợ hải.

“Hãy ngừng lại,” một người nữa nói.

“Ta muốn thấy sự vĩ đại của Allah,” thủ lĩnh nói với sự tôn kính. “Ta muốn thấy một người có thể biến thành gió.”

Nhưng ông ta đã làm theo như một lưu ý tinh thấn nhân danh hai người đã biểu lộ sự sợ hải của mình. Chẳng bao lâu gió đã ngừng thổi, ông ta sẽ di chuyển họ ra khỏi ban tham mưu, vì người đàn ông thật sự của sa mạc thì không thể sợ hải.

”Làn gió nói với tôi rằng ngươi biết về tình yêu,” Santiago nói với mặt trời. “Nếu người biết về tình yêu, ngươi cũng phải biết về Tâm linh của Thế giới, bởi vì nó tạo nên tình yêu.”

“Tôi từ nơi ấy,” mặt trời nói. “Tôi có thể thấy Tâm Linh của Thế Giới. Nó đối thoại với Tâm Linh của tôi, và chúng tôi cùng nhau làm nên nguồn gốc để cỏ cây lớn lên, và những con cừu tìm ra bóng mát. Tôi từ nơi ấy-và tôi là một con đường dài từ trái đất-tôi học làm thế nào để yêu. Tôi biết rằng nếu đến gần trái đất một tí nữa thì mọi thứ ở đó sẽ chết, và Tâm Linh Thế Giới sẽ không tồn tại nữa. vì thế chúng tôi suy tư về nhau, và chúng tôi cần có nhau, và tôi cho nó sự sống và sự ấm ấp, và nó cho tôi lý do để sinh tồn.”

“Thế thì ngươi biết về tình yêu,” Santiago nói.

“Và tôi biết Tâm Linh của Thế Giới, bởi vì chúng tôi nói chuyện với nhau trong đoạn đường dài vô cùng trong suốt cuộc hành trình vô tận trong vũ trụ. Nó nói với tôi rằngvấn đề lớn nhất của nó là đấy, cho đến bây giờ, chỉ có khoáng sản và cỏ cây hiểu rằng tất cả mọi thứ là một. Rằng không cần để sắt giống như đồng và đồng giống như vàng. Mỗi thứ đống một vai trò, thể hiện một chức năng chính xác của nó như một sự hiện hữu đặc thù, và mỗi thứ sẽ là một khúc nhạc giao hưởng của hòa bình nếu bàn tay đã viết nên tất cả nhưng thứ này dừng lại ở ngày thứ năm của sáng thế.

“Nhưng có ngày thứ sáu,” mặt trời tiếp tục.

“Ngươi thông tuệ, bởi vì ngươi quán sát mọi thứ từ xa,” Santiago nói. “Nhưng ngươi không biết về tình yêu. Nếu không có ngày thứ sáu, con đã không hiện diện; đồng sẽ chỉ luôn luôn là đồng; chì chỉ là chì. Đúng rằng mọi thứ có riêng Huyền Thoại Cá Nhân của nó, và một ngày nào đấy Huyền Thoại Cá Nhân ấy sẽ được nhận biết. Vì thế mỗi thứ phải chuyển hóa chính mình thành những thứ tốt hơn, và để đạt được một Huyền Thoại Cá Nhân mới, cho đến một ngày nào đấy, Tâm Linh Thế Giới trở thành duy nhất.”

Mặt trời nghĩ về điều ấy, và quyết định chiếu soi tỏ rạng hơn. Làn gió, đang thích thú với mẫu đối thoại, bắt đầu thổi với năng lực mạnh mẻ hơn, để mặt trởi không thể làm Santiago mờ mịt vì quá chói chang.

“Đây là lý do tại sao thuật giả kim hiện hữu,” Santiago nghĩ thế. “Vì thế mọi người sẽ đi tìm kho tàng của chính mình, tìm nó, và rồi thì muốn một đời sống tốt đẹp hơn quá khứ. Chì sẽ vẫn biểu diễn vai trò của nó cho đến khi nào thế giới không cần chì nữa; và rồi thì chì sẽ phải biến mình thành vàng.

“Đấy là những gì nhà giả kim làm. Họ chỉ rằng, khi chúng ta cố gắng phấn đấu để trở nên tốt đẹp hơn, mọi thứ chúng quanh chúng ta cũng sẽ biến thành tốt đẹp theo.”

“Ô, thế thì tại sao cậu nói là tôi không biết về tình yêu?” mặt trời hỏi Santiago.

“Bởi vì tình yêu không tịch lặng như sa mạc, tình yêu cũng không quay cuồng thế giới như gió. Và tình yêu không phải là thấy mọi thứ từ xa như ngươi làm, mặt trời. Tìn yêu là năng lực chuyển hóa và cải thiện Tâm Linh Thế Giới. Khi tôi lần đầu tiên nhận chân điều ấy, tôi nghĩ là Tâm Linh của Thế Giới là toàn hảo. Nhưng về sau, tôi có thể thấy nó giống như những khía cạnh khác nhau của tạo hóa, và nó có những sự đam mê và chiến tranh của chính nó. Nó là, chúng ta những người nuôi dưỡng Tâm Linh Thế Giới, và thế giới chúng ta đang sống có thể tốt đẹp hơn hay là tệ hại hơn, tùy thuộc vào hoặc là chúng ta trở nên tốt hơn hay xấu hơn. Và đấy là nơi mà năng lực của tình yêu tiến vào. Bởi vì khi chúng ta yêu, chúng ta luôn luôn cố gắng để trở nên tốt hơn.

“Thế thì câu cần gì ở tôi?” mặt trời hỏi.

“Ta muốn ngươi giúp ta chuyến hóa mình thành gió,” Santiago trả lời.

“Thiên nhiên biết tôi như một hiện hữu thông minh nhất trong sáng tạo,” mặt trời nói. “Nhưng tôi không biết làm thế nào để chuyển biến cậu thành gió.”

“Thế thì tôi nên hỏi ai?”

Mặt trời suy nghĩ một chốc. Làn gió đang theo dõi thật sát, và muốn nói với mỗi ngõ ngách của thế giới rằng tuệ trí mặt trời có giới hạn của nó. Rằng nó không thể đối phó với Santiago, người nói Ngôn Ngữ Thế Giới.

“Nói với bàn tay đã viết nên tất cả,” mặt trời nói thế.

Làn gió gào lên một cách sung sướng, và thổi mạnh hơn bao giờ hết. Những căn lều đang bị thổi tung từ làn dây cột chặc nó với mặt đất, những con thú cũng được tự do với dây cột, dây cương,dây vàm. Trên mõm đá, những người đàn ông bám chặc vào nhau khi họ đang tìm cách để không bị thổi bay đi.

Santiago chuyển sang bàn tay đã viết tất cả. Khi cậu ta làm thế, cậu cảm thấy rằng vũ trụ đã rơi vào im lặng, và cậu quyết định không nói.

Luồng cảm hứng tình yêu chảy mạnh từ tim cậu, và cậu ta bắt đầu cầu nguyện. Đấy một lời nguyện cầu mà cậu ta chưa từng nói bao giờ bởi vì nó là một lời cầu nguyện mà không có ngôn ngữ hay cầu xin. Lời cầu nguyện của cậu không gởi lời cám ơn vì những con cừu của cậu ta đã tìm ra đồng cỏ mới; nó không yêu cầu cậu ta có thể bán thêm pha lê; và nó không van xin rằng người phụ nữ cậu ta đã gặp sẽ tiếp tục đợi chờ cho sự trở lại của cậu. Trong im lặng, Santiago hiểu rằng sa mạc, làn gió, và mặt trời cũng đang cố gắng để hiểu những ký hiệu viết nên bởi bàn tay, và đang tim kiếm để theo những con đường của nó, và để hiểu những gì được viết trên một phiến ngọc lục bảo. Cậu ta thấy những điềm chỉ dẫn được trải khắp trái đất và trong không gian, và rằng không có lý do hay ý nghĩa gì liên hệ đến sự xuất hiện của chúng; cậu ta có thể thấy rằng không phải sa mạc, cũng không phải làn gió, cũng không phải mặt trời, cũng không phải con người biết tại sao chúng đã được tạo nên. Nhưng bàn tay có một lý do cho tất cả những điều này, và rằng chỉ bàn tay có thể hiển dương những phép mầu, hay chuyển biến biển cả thành sa mạc… hày một người thành gió. Bởi vì chỉ bàn tay hiểu rằng có một sự sáng tạo rộng lớn hơn có thể chuyển dịch vũ trụ đến tại thời điểm của sáu ngày sáng thế tiến triển thành một Kiệt Tác.

Santiago tiến gần vào Tâm Linh Thế Giới, và thấy rằng nó là một phần của Tâm Linh Tạo Hoá. Và cậu thấy rằng Tâm Linh Tạo Hóa là tâm linh chính cậu. Và rằng cậu, một chàng trai, có thể biểu dương những phép mầu.

LÀN GIÓ SIMUM CỦA SA MẠC ĐÃ THỔI TRONG NGÀY ẤY NHƯ NÓ CHƯA THỔI BAO GIỜ. Hàng thế hệ về sau, người Ả Rập đã kể lại chi tiết huyền thoại của một chàng trai đã tự biến mình thành gió, xuýt nữa phá hủy một trại vũ trang, bất chấp một thủ lĩnh quyền lực nhất trong sa mạc.

Khi simum ngừng thổi, mọi người nhìn về nơi Santiago đứng. Nhưng cậu ta không còn ở đó nữa; cậu ta đang đứng bên cạnh một người lính gác phủ đầy cát, ở cách xa trại.

Những người đàn ông kinh khiếp với thần thông của cậu ta. Nhưng có hai người đang mĩm cười: ông cụ giả kim, bởi vì ông ta đã tìm ra một người đệ tử xuất sắc toàn hảo, và người thủ lĩnh, bởi vì người đệ tử ấy đã hiểu vinh quang của Tạo Hóa.

Ngày tiếp theo, thủ lĩnh chảo tạm biệt Santiago và ông cụ giả kim, và cung cấp cho họ một đội vũ trang hộ tống trên đường cho đến khi nào họ vẫn cần đến.

HỌ ĐÃ TRÊN LƯNG NGỰA TRỌN NGÀY. ĐẾN CUỐI BUỔI CHIỀU, HỌ BẮT GẶP MỘT TU VIỆN THIÊN CHÚA GIÁO COPTIC. Ông cụ giả kim xuống ngựa, và nói với nhóm tùy tùng rằng họ có thể trở về trại.

“Từ đây trở đi, cậu sẽ tiếp tục một mình,” ông cụ nói. “Cậu chỉ cách Kim Tự Tháp ba tiếng đồng hồ.”

“Cám ơn cụ,” Santiago nói. “Cụ đã dạy tôi Ngôn Ngữ của Thế Giới.”
“Ta chỉ kết tập những gì cậu đã biết.”

Ông cụ gỏ cửa tu viện. Một tu sĩ với quần áo đen tiến đến cổng. Họ nói chuyện với nhau trong vài phút trong ngôn ngữ Coptic, và ông cụ giả kim mời Santiago vào cổng.

“Ta yêu cầu ông ấy cho ta dùng nhà bểp một lúc,” ông cụ mĩm cười.

Họ đi tới nhà bếp phía sau tu viện. Ông cụ giả kim nhóm lửa lên, và vị tu sĩ đem đến một ít chì, và ông cụ đặt nó trong một cái chảo sắt. Khi chì biến thành chất lõng, ông cụ lấy trong túi ra một quả trứng màu vàng kỳ lạ. Ông nạo ra một miếng mõng như sợi tóc; và đặt nó vào chảo với chì đã chảy ra thành chất lõng.

Hổn hợp biến thành màu hơi đỏ, gấn như màu của máu. Ông cụ đem chảo ra khỏi lò lửa, và để nó nguội đi. Khi ông cụ làm thế, ông ta nói chuyện với người tu sĩ về những chiến trận bộ tộc.

“Tôi nghĩ nó sẽ còn lâu mới chấm dứt,” ông cụ nói với tu sĩ.

Tu sĩ cáu gắt. Những đoàn người đã dừng tại Giza một thời gian, chờ cho chiến cuộc chấm dứt. “Nhưng Thượng Đế sẽ chấm dứt nó,” tu sĩ nói.

“Đúng thế,” ông cụ trả lời.

Khi chảo đã nguội, tu sĩ và Santiago nhìn vào nó, sửng sờ kinh ngạc. Chì đã khô theo hình dạng của chảo, nhưng nó không là chì nữa. Nó là vàng.

“Tôi sẽ học làm thế một ngày nào ấy chứ?” Santiago hỏi.

“Đây là Huyền Thoại Cá Nhân của ta, không phải của cậu,” ông cụ trả lời. “Nhưng ta muốn chỉ cho cậu biết rằng nó có thể.”

Họ trở lại cổng của tu viện. Nơi ấy, ông cụ giả kim chia đĩa ra làm bốn phần.

“Đây là phần của ông,” ông cụ nói, đưa một phần cho tu sĩ. “Nó cho tính rộng rải của ông đối với những khách hành hương.”

“Nhưng phần thù lao này quá tốt hơn sự rộng rải của tôi,” tu sĩ đáp lại.

“Đừng lập lại điều ấy lần nữa. Cuộc sống có thể đang nghe, và cho ông ít hơn trong lần tới.”

Ông cụ quay sang Santiago. “Đây là phần của cậu. Để đền bù những gì cậu đã đưa cho thủ lĩnh.”

Cậu ta định nói rằng nó nhiều hơn là phần cậu đã đưa cho thủ lĩnh. Nhưng cậu ta giứ yên lặng, vì cậu đã nghe những gì ông cụ nói với tu sĩ.

“Và đây là phần của ta,” ông cụ nói, giữ một phần. “Bởi vì ta phải trở lại sa mạc, nơi có chiến trận bộ tộc.”

Ông lấy phần thứ tư và đưa nó cho tu sĩ.

“Đây là phần của cậu trai trẻ này. Nếu khi nào cậu ta cần đến.”

“Nhưng tôi đang đi tìm kho tàng của tôi,” Santiago nói. “Bây giờ tôi rất gần nó.”

“Và ta chắc chắn cậu sẽ tìm thấy nó,” ông cụ nói.

“Thế thì tại sao phần này?”

“Bởi vì cậu đã mất những gì cậu giành dụm hai lần. Một lần bởi tên lừa đảo, và một lần cho viên thủ lĩnh. Ta là một người Ả Rập già cả, mê tín, và tin tưởng vào những châm ngôn của chúng tôi. Có một châm ngôn nói rằng, ‘Mọi thứ đã xảy ra một lần không thể xãy ra một lần nữa. Nhưng thứ nào đã xãy ra hai lần sẽ chắc chắn xãy ra lần thứ ba.'” Ba người leo lên lưng ngựa của họ.

“TA MUỐN NÓI VỚI CẬU MỘT CÂU CHUYỆN VỀ NHỮNG GIẤC MƠ,” ông cụ giả kim nói.

Santiago chạy ngựa đến gần hơn.

“Vào thời đại cổ La Mã, trong thời Hoàng Đế Tibertius, có một người hiền lương sống với hai đứa con trai. Một người là hiến binh, và được đưa đi ở một vùng xa nhất của đế quốc. Người con trai kia là một thi sĩ, và làm say mê cả La Mã với những vần thơ đẹp như mơ của anh ta.

“Một đêm nọ, người cha có một giấc mơ. Một thiên thần xuất hiện đến với ông ta, và nói với ông rằng những từ ngữ của người con ông ta sẽ được học hỏi và ngâm vang trong toàn thế giới qua nhiều thế hệ về sau. Người cha tỉnh dậy từ giấc mơ khoan khoái và cảm động đến rơi nước mắt, bởi vì cuộc sống thắm tươi và đã hé mở cho ông những gì mà bất cứ người cha nào cũng hảnh diện để biết.

“Một thời gian ngắn sau đó, người cha đã chết khi ông ta cố gắng để cứu một đứa bé sắp bị bánh xe ngựa cán nát. Vì ông ta đã sống cả cuộc đời trong một thái độ lương thiện và trong sạch, ông đã được trực tiếp lên thiên đàng, và nơi ấy ông ta đã gặp vị thiên thần từng xuất hiện trong giấc mơ của ông ta.

“Ông luôn luôn là một người hảo tâm,” thiên thần nói với ông ta. “Ông đã sống một cuộc đời trong phong cách yêu thương, và chết trong phẩm cách đáng kính trọng. Bây giờ ta sẽ cho ông bất cứ điều nguyện ước nào.”

“Đời sống thì tốt đẹp đối với tôi,” ông ta nói. “Khi người xuất hiện trong giấc mơ của tôi, tôi nghĩ rằng tất cả những hành động của tôi đã được ban thưởng, bởi vì những dòng thơ của con trai tôi sẽ được người ta đọc qua nhiều thế hệ về sau. Tôi không muốn bất cứ điều gì cho chính tôi. Nhưng bất cứ người cha nào cũng hảnh diện tự hào về danh dự đạt được của một người mà ông ta đã nuôi nấng từ tấm bé, và dạy dỗ khi người ấy lớn lên. Trong tương lai xa nào đấy, tôi muốn thấy những dòng thơ của con tôi.”

“Thiên thần chạm vào vai ông, và họ cùng thảo ra kế hoạch cho một tương lai xa xôi về sau. Họ bố trí trong một chương trình rộng rải bao la, bao quanh bởi hàng nghìn người nói một ngôn ngữ xa lạ.

“Ông ta khóc trong sung sướng.

“Tôi biết rằng những dòng thơ của con tôi là bất diệt; ông ta nói với thiên thần trong nước mắt. ‘Người có thể cho tôi biết bài thơ nào của con trai tôi đang được những người này truyền tụng?’

“Thiên thần đến gần ông ta, và, với sự dịu dàng, dẫn ông đến một ghế dài gần bên và cùng ngồi xuống.

“Những dòng thơ của con ông, một thi sĩ rất nổi tiếng của La Mã,’ thiên thần nói. ‘Mọi người yêu mến chúng, thưởng thức chúng. Nhưng khi triều đại của Tibetius chấm dứt, thơ của anh ta sẽ bị quên lãng. Những ngôn ngữ mà ông nghe nói bây giờ là ngôn ngữ của người con trai ông trong quân đội.’

“Người đàn ông ngạc nhiên nhìn thiên thần.

“Con trai ông phục vụ một nơi xa xôi, và trở thành một sĩ quan chỉ huy một trăm binh sĩ. Anh ta hào hiệp và công bằng. Vào buổi chiều nọ, một binh sĩ ngã bệnh, và xem chừng sẽ chết. Con trai ông nghe một giáo sĩ Do Thái có thể chửa bệnh, và anh ta đã cưỡi ngựa ngày qua ngày để tìm người ấy. Trên đường đi, anh ta được biết người mà anh ta tìm là Con Trai của Thượng Đế. Anh ta gặp những người đã từng được chửa bệnh và họ giới thiệu với anh ta những lời dạy của vị giáo sĩ. Và thế là, mặc dù thực tế anh ta là một đội trưởng La Mã, anh ta cải đạo theo những người ấy. Chẳng bao lâu sau đấy, anh ta đến nơi vị giáo sĩ mà anh ta tìm kiếm đang thăm viếng.’

“Anh ta nói với giáo sĩ rằng một binh sĩ của anh ta đang bệnh nặng, và vị giáo sĩ chuẩn bị sẳn sàng để đi với anh ta về nhà. Nhưng người đội trưởng là một người ngoan đạo, và, nhìn vào mắt của vị giáo sĩ, anh ta biết chắc rằng đây là sự hiện diện của Con Trai Thượng Đế.’

“Và đây là những gì con trai ông nói,’ thiên thần nói với người đàn ông. “Có những lời anh ta nói với vị giáo sĩ tại lúc ấy, và chúng không bao giờ bị quên lãng: “Đức ngài của tôi, tôi chẳng có giá trị gì để ngài đến nhà tôi. Nhưng chỉ nói một lời và người binh sĩ của tôi sẽ được chửa lành.””

Ông cụ giả kim nói, “Chẳng kể anh ta làm điều gì, mỗi người trên trái đất thủ diễn một vai trò trung tâm trong lịch sư của thế giới. Và thường thì anh ta chẳng biết điều ấy.”

Santiago mĩm cười. Cậu ta chẳng bao giờ tưởng tượng rằng những câu hỏi về cuộc đời sẽ quan trọng đến như thế đối với một chàng trai chăn cừu.

“Giả biệt,” ông cụ giả kim nói.

“Giả biệt,” cậu ta nói.

SANTIAGO CƯỠI NGỰA XUYÊN QUA SA MẠC LUÔN VÀI GIỜ, KHAO KHÁT LẮNG NGHE NHỮNG GÌ TRÁI TIM CẬU PHẢI NÓI. Trái tim của cậu muốn nói kho tàng của cậu đang chôn dấu nơi nào.

“Trái tim của cậu ở nơi nào, kho tàng của cậu ở đấy,” ông cụ giả kim từng nói với cậu như thế.

Nhưng trái tim của cậu đang nói về những thứ khác. Với niềm tự hào, nó nói câu chuyện của một chàng chăn cừu, người đã rời bỏ đàn cừu của mình để theo đuổi giấc mơ chàng có trong hai trường hợp khác nhau. Nó nói về Huyền Thoại Cá Nhân, và về vô số người đã lang thang đi tìm kiếm ở những vùng đất xa xôi hay những người phụ nữ xinh đẹp đối diện vời những cơ hội của họ với những quan điểm định trước của mình. Nó nói về những cuộc du hành, những khám phá, những quyển sách, và đổi thay.

Khi Santiago định leo qua một đụn cát nữa, trái tim của cậu thì thầm, “Hãy cảnh giác thận trọng và chú tâm những nơi làm cậu rơi nước mắt. Tôi ở đấy và kho tàng của cậu ở đấy.

Cậu ta leo lên đụn cát một cách chậm rãi. Một vầng trăng tròn một lần nữa chiếu sáng trên bầu trời đầy sao: một tháng rồi kể từ ngày cậu rời ốc đảo. Ánh trăng rọi bóng qua những đụn cát, tạo nên sự xuất hiện của biển cả gợn sóng; nó làm cậu ta nhớ lại ngày con ngựa lồng lên trong sa mạc và thế là cậu ta hội ngộ với ông cụ giả kim. Ánh trăng gieo xuống sa mạc lặng yên, và trên hành trình đi tìm kho tàng của một người thao thức.

Khi cậu ta đến đỉnh của đụn cát, trái tim cậu nhảy lên sung sướng. Đấy, được chiếu sáng bởi ánh trăng và sự rực rở của sa mạc, sừng sửng uy nghiêm lộng lẩy, Kim Tự Tháp của Ai Cập.

Santiago quỳ trên đầu gối mình và khóc. Cậu ta cảm ơn Tạo Hóa vì đã làm cho cậu tin tưởng vào Huyền Thoại Cá Nhân của mình, và vì đã hướng dẫn cậu gặp vị vua già, ông lão pha lê, người Anh Cát Lợi, và ông cụ giả kim. Và trên tất cả là vì sự gặp gở người con gái sa mạc, nàng đã nói với cậu rằng tình yêu không bao giờ cản trở một người với Huyền Thoại Cá Nhân của mình.

Nếu muốn, bây giờ cậu có thể trở về ốc đảo, đến với Fatima, và sống một cuộc đời bình dị của một chàng chăn cừu. Cuối cùng, ông cụ giả kim tiếp tục sống trong sa mạc, mặc dù ông ta thông hiểu Ngôn Ngữ của Thế Giới và ông có thể biến chì thành vàng. Ông cụ không cần chứng minh, biểu lộ, hay bày tỏ khoa học và nghệ thuật của cụ với bất cứ người nào. Cậu ta nói với chính mình rằng, trên con đường hiện thực Huyền Thoại Cá Nhân của chính mình, cậu phải học tất cả những gì cậu cần biết, và phải trải qua, nếm mùi, hay chịu đựng tất cả mọi thứ cậu có thể mơ đến.

Nhưng bây giờ tại thời điểm của tìm kiếm kho tàng, và cậu ta nhắc lại chính mình rằng không có chương trình nào hoàn tất cho đến khi mục tiêu của nó được đạt đến. Santiago nhìn làn cát chung quanh mình, và thấy rằng, nơi cậu quỳ xuống và khóc, mộtcon bọ hung đang trốn chạy vội vả. Trong thời gian ở sa mạc, cậu đã học được rằng, ở Ai Cập, những con bọ hung là một biểu tượng của đấng Tạo Hóa.

Một điềm chỉ dẫn khác! Santiago bắt đầu đào sâu trong đụn cát. Khi làm như thế, cậu nghĩ về những gì ông lão pha lê đã từng nói: bất cứ ai cũng có thể dựng nên một kim tự tháp trong vườn của ông ta. Cậu ta có thể thấy bây giờ rằng cậu có thể làm thế nếu cậu đặt chồng chất những hòn đá trong suốt cuộc đời cậu.

Qua cả đêm, Santiago đào nơi chàng đã chọn, nhưng chẳng tìm thấy gì. Cậu cảm thấy trỉu nặng như hàng thế kỷ từ khi những Kim Tự Tháp được xây dựng. Nhưng cậu không dừng lại. Cậu vất vả khi tiếp tục đào vì phải chống chọi với làn gió thường thổi cát lấp vào hố đào. Đôi tay cậu trầy xướt và mõi nhừ, nhưng cậu lắng nghe trái tim mình. Nó nói cậu nên đào nơi nào nước mắt cậu rơi xuống.

Khi định kéo ra những hòn đá cậu thình lình nghe tiếng những bước chân. Vài người tiến đến gần cậu. Sau lưng họ là ánh trăng, cậu không thể thấy cặp mắt, hay gương mặt họ ra sao.

“Ngươi làm gì ở đây?” một người trong bọn họ hỏi.

Cậu ta không trả lời vì kinh khủng trong lòng. Cậu đã tìm thấy kho tàng của cậu ở nơi nào và cậu lo sợ những gì có thể xảy ra.

“Bọn ta là nạn nhân của chiến cuộc bộ tộc, và bọn ta cần tiền,” một người khác nói. “Ngươi dấu gì ở đó?”

“Tôi không dấu gì cả,” Santiago trả lời.

Nhưng một người trong bọn họ túm lấy cậu và kéo mạnh cậu ra khỏi hố. Một người khác đang lục lọi trong túi cậu, và tìm thấy miếng vàng.

“Có vàng đây,” hắn ta nói.

Ánh trăng chiếu vào mặt người Ả Rập, kẻ nắm lấy cậu, và trong mắt hắn ta cậu thấy dấu hiệu của chết chóc.

“Hắn chắc chắn có nhiều vàng hơn dấu dưới đất.”

Họ bắt Santiago tiếp tục đào, nhưng chẳng tìm thấy gì. Khi mặt trời lên, những kẻ ấy bắt đầu đánh đập Santiago. Cậu ta thâm tím người và rướm máu, áo quần cậu ta tả tơi, và cậu nghĩ rằng cái chết đã gần kề.

“Tiền bạc có nghĩa gì nếu cậu chết đi? Thường thì tiền bạc không cứu được mạng người,” ông cụ giả kim từng nói thế. Cuối cùng, Santiago hét với họ. “Tôi đang đào tìm kho tàng!” Và, mặc dù miệng cậu rướm máu và sưng phồng, cậu nói với những kẻ đánh cậu rằng cậu đã hai lần mơ thấy kho tàng được chôn dấu gần những Kim Tự Tháp của Ai Cập.

Một người đàn ông xuất hiện, thủ lĩnh của bọn ăn cướp nói với một người trong nhóm ấy: “Bỏ mặc nó. Nó chẳng có gì nữa đâu. Chắc là nó ăn trộm miếng vàng này.”

Santiago ngã xuống cát, gần như bất tỉnh. Tên thủ lĩnh lay cậu và nói, “Bọn ta đi đây.”

Nhưng trước khi bọn chúng đi, hắn ta trở lại và nói với cậu, “Ngươi sẽ không chết đâu. Ngươi sẽ sống, và ngươi sẽ học rằng một người đàn ông không nên quá khờ dại. Hai năm trước, ngay tại đây, chính nơi này. Ta cũng có một giấc mơ cứ tái diễn. Ta mơ rằng ta nên du hành đến những cánh đồng ở Tây Ban Nha và tìm một ngôi nhà thờ đổ nát nơi những kẻ chăn cừu và những đàn cừu của họ ngũ. Trong giấc mơ của ta, có một cây sung dâu mọc ngay nơi từng tôn trí thánh thể và đã điêu tàn, và ta đã được nói cho nghe rằng, nếu ta đào nơi rể của cây sung dâu, ta sẽ tìm ra kho tàng chôn dấu. Nhưng ta không quá ngu ngốc để vượt qua cả sa mạc chỉ bởi vì một giấc mơ tái diễn.

Và họ biến mất.

Santiago đứng dậy một cách run rẩy, và nhìn lại những Kim Tự Tháp một lần nữa. Chúng dường như cười nhạo cậu, và cậu cười lại, trái tim cậu ta đập lên sung sướng.

Bởi vì cậu ta biết kho tàng cậu ta ở nơi nào.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ