Trên sa mạc và trong rừng thẳm - Chương 1 – 2

– Em biết không, Nen, – Xtas Tarcôpxki nói với cô bạn gái người Anh bé nhỏ của mình. – Hôm qua, cảnh sát đã tới bắt vợ viên quản lí Xmainơ cùng với ba đứa con của mụ ta, chính cái mụ Phátma đã mấy lần tới văn phòng của ba anh và ba em đấy.

Còn Nen, cô bé đẹp như một bức tranh, thì ngước cặp mắt màu lục nhạt của mình lên nhìn Xtas và hỏi vẻ vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi:

– Thế họ bắt bà ta bỏ tù à, anh?

– Không, nhưng họ không cho phép mụ ta đi khỏi Xuđan.

Đồng thời có một nhân viên tới đây để canh không cho mụ ta rời một bước khỏi Port Xaiđơ.

– Sao vậy hả anh?

Xtas, cậu thiếu niên vừa hết tuổi mười bốn, tuy rất yêu mến cô bạn gái tám tuổi của mình, song vẫn xem đó chỉ là một đứa bé non nớt, liền nói với vẻ mặt rất kiêu:

– Khi nào lớn như anh, em sẽ biết không những chỉ mọi chuyện xảy ra dọc kênh đào này, từ Port Xaiđơ đến Xuê(1) mà còn cả trên toàn bộ đất Ai Cập nữa. Thế em không biết gì về Mahơđi hay sao?

– Em nghe nói là ông ta xấu xí và không ngoan. Cậu bé mỉm cười thương hại.

– Hắn ta có xấu xí hay không thì anh không biết. Những người dân Xuđan thì quả quyết rằng hắn ta đẹp tuyệt vời. Nhưng bảo kẻ đã giết hại ngần ấy ngườ i là “không ngoan” thì chỉ có thể là một cô nhóc con tám tuổi mặc váy ngắn mà thôi. Đấy, chỉ ngắn tới đầu gối là cùng.

– Ba em bảo thế, ba em biết giỏi nhất.

– Ba bảo em thế vì nói cách khác thì em không hiểu nổi. Giá nói với anh thì ba em đã chẳng bảo thế. Mahơđi còn tệ hơn cả một bầy cá sấu. Hiểu chưa? “Không ngoan!” Hay thật! Nói như với bọn trẻ con mới đẻ ấy.

Song chợt nhìn thấy vẻ mặt xịu đi của cô bé, Xtas liền nín bặt, sau đó nói tiếp:

– Nen, em biết đấy, anh đâu muốn nặng lời với em. Sẽ đến lúc cả em nữa cũng sẽ mười bốn tuổi. Anh cam đoan với em như thế.

– Thế cơ! – Cô bé đáp với cái nhìn đầy lo lắng. Nhưng nếu như trước đó Mahơđi tiến được vào Port Xaiđơ và ăn thịt em mất thì sao nào?

– Mahơđi không phải là kẻ ăn thịt người, nên hắn không ăn thịt dân chúng mà chỉ giết hại họ thôi. Hắn cũng chẳng tiến nổi tới Port Xaiđơ, mà nếu như hắn có tiến vào được và muốn giết em, thì trước hết hắn phải đấu với anh đã.

Lời tuyên bố đó cùng với tiếng không khí được hít mạnh vào mũi Xtas không hứa hẹn một điều gì tốt lành cho Mahơđi, đã khiến Nen yên tâm về sự an toàn của bản thân mình.

– Em biết, – cô bé nói, – anh chẳng chịu nộp em đâu, phải không? Thế nhưng tại sao người ta lại không cho bà Phátma rời khỏi Port Xaiđơ?

– Bởi vì mụ ta là em họ của Mahơđi. Chồng mụ ta, gã Xmainơ hứa với chính phủ Ai Cập ở Cairô rằng y sẽ tới Xuđan, nơi Mahơđi đang ở, để xin tự do cho tất cả những người Âu bị rơi vào tay hắn.

– Cái ông Xmainơ ấy là người tốt hả anh?

– Khoan đã nào. Ba em và ba anh, những người hiểu rõ Xmainơ, hoàn toàn không tin hắn ta chút nào, và đã khuyên pasa(2) Nubarơ chớ có tin y. Nhưng chính phủ vẫn đồng ý cử Xmainơ đi, và thế là đã nửa năm nay Xmainơ ở tịt chỗ Mahơđi. Tù binh không những không được thả về mà lại có tin từ Khactum cho biết rằng, bọn Mahơđi đối xử với họ ngày một tàn tệ hơn, còn lão Xmainơ thì sau khi cuỗm tiền của chính phủ đã phản bội. Hắn hoàn toàn ngả hẳn về phía Mahơđi và đã được phong tước emia2. Người ta còn nói rằng, trong trận đánh khủng khiếp mà tướng Hicxơ bị tử trận, chính Xmainơ đã chỉ huy pháo binh của quân Mahơđi, và hình như chính hắn là kẻ đã dạy cho bọn Mahơđi cách sử dụng đạ i bác, loại vũ khí mà trước đó, vốn là những kẻ mọi rợ, chúng hoàn toàn không biết đến. Bây giờ, lão Xmainơ đang muốn đưa vợ con thoát khỏi Ai Cập, cho nên khi mụ Phátma, con người ngay từ đầu hẳn đã biết mọi chuyện mà Xmainơ làm, muốn bí mật chuồn khỏi Port Xaiđơ, thì chính phủ liền bắt giữ mụ ta cùng các con mụ lạ i.

– Nhưng chính phủ sẽ được gì ở bà Phátma và lũ con của ba ta hở anh?

– Chính phủ sẽ nói với Mahơđi: “Hãy trả cho chúng ta các tù binh của ngươi, chúng ta sẽ trả mụ Phátma cho ngươi…” Câu chuyện tạm bị gián đoạn vì lúc này Xtas chợt chú ý đến những con chim đang bay từ phía Êchtum Om Pharagơ về phía hồ Mendalê. Chúng bay khá thấp, trong bầu không khí trong vắt trông rõ mấy con bồ nông với chiếc cổ cong gập lại sát lưng đang khoan thai vỗ những đôi cánh khổng lồ. Xtas dõi theo đường bay của chúng, em ngẩng đầu lên, chạy mươi bước dọc theo bờ kênh, vừa chạy vừa vung vẩy đôi tay.

– Nhìn kìa anh, có cả chim hồng hạc đang bay nữa kìa! – Nen bỗng kêu lên.

Xtas đứng sững ngay lại, vì quả thực phía sau đàn bồ nông, nhưng cao hơn chúng một tí, có thể trông thấy hai đoá hoa lớn màu hồng và màu đỏ thắm dường như đang treo lơ lửng trên nền trời xanh thẳm.

– Hồng hạc! Chim hồng hạc!

– Chiều chiều chúng nó thường bay về tổ của chúng trên vùng đảo đấy, – cậu bé thốt lên. – Ôi, giá mà anh có khẩu súng nhỉ.

– Anh bắn chúng nó làm gì cơ?

– Phụ nữ không thể hiểu được những chuyện ấy đâu. Nhưng thôi, chúng mình đi tiếp đi, có thể sẽ trông thấy chúng nhiều hơn nữa chăng.

Vừa nói em vừa dắt tay cô bé; cả hai đi về phía bến tầu đầu tiên trên kênh đào tiếp sau cảng PortXaiđơ. Theo sau lưng chúng là bà Đina, một phụ nữ da đen, ngày trước từng là nhũ mẫu của cô bé Nen. Họ đi dọc bờ đập ngăn nước hồ Mendalê với kênh đào, trong kênh lúc ấy đang có một chiếc tầu thuỷ lớn chạy bằng hơi nước của Anh được hoa tiêu dẫn đi. Chiều xuống. Mặt trời hãy còn cao nhưng đã ngả về phía hồ. Làn nước lợ mằn mặn của hồ loang loáng ánh sáng và lung linh phản chiếu muôn sắc cầu vồng. Bên bờ phía Ả Rập, trải dài đến hút tầm mắt là sa mạc trơ trụi, câm lặng, chết chóc, đầy vẻ hằn thù. Giữa bầu trời thuỷ tinh dường như chết cứng và cái mênh mông vô bờ bến của mặt cát gợn sóng không hề có một dấu hiệu gì của sự sống. Trong lúc trên mặt kênh đào cuộc sống đang sôi sục, thuyền bè tấp nập, vang rộn tiếng còi tầu, và trên hồ Mendalê hàng đàn hải âu và vịt trời đang nhộn nhịp đảo chao trong ánh mặt trời, thì phía bên kia, phía bờ Ả Rập lại giống hệt như xứ sở của cái chết. Chỉ khi mặt trời xuống thấp dần và ngày càng ngả sang màu đỏ thì mặt cát mới dần dần nhuốm màu tim tím, màu tím của những mầm cây non trong các khu rừng Ba Lan về mùa thu.

Trong khi đi về phía bến tầu, bọn trẻ còn trông thấy vài con chim hồng hạc nữa mà chúng vui sướng ngắm không chán mắt.

Sau đó, bà Đina nói rằng đã đến lúc phải quay về nhà. Ở Ai Cập ban ngày thường nóng nực (thậm chí cả trong mùa đông), nhưng ban đêm lại rất lạnh, mà sức khoẻ của Nen thì lại đòi hỏi phải hết sức giữ gìn, nên ông Rôlixơn, cha của cô bé, không cho phép cô ở lại trên bờ nước sau khi mặt trời lặn. Họ bèn quay trở về thành phố.

Vila của ông Rôlixơn nằm ngay rìa thành phố, gần bờ kênh đào.

Khi mặt trời lặn xuống biển, họ đã về tới nhà. Một lát sau, kĩ sư Tarcôpxki, cha của Xtas, được mời đến dự bữa cơm, cũng tới, và thế là cả nhà, cùng với cô Oliviơ, cô gia sư người Pháp của Nen, ngồi vào bàn ăn.

Đã từ nhiều năm nay, ông Rôlixơn, một trong các giám đốc của công ti kênh đào Xuê, và ông Vlađixlap Tarcôpxki, kĩ sư trưởng của công ti này, kết thân với nhau. Cả hai đều goá vợ: bà Tarcôpxca, vốn dòng dõi người Pháp, đã mất ngay từ khi Xtas vừa chào đời, nghĩa là hơn mười ba năm về trước, còn mẹ của Nen thì qua đời vì bệnh phổi tại Hêluankhi cô bé mới lên ba. Ở Port Xaiđơ, hai ông bố goá vợ sống trong hai ngôi nhà cạnh nhau, và do công việc của mình, ngày nào họ cũ ng gặp nhau. Nỗi bất hạnh chung khiến họ xích lại gần nhau hơn và làm cho tình bạn vốn có càng thêm bền chặt.

Ông Rôlixơn yêu Xtas như con đẻ, còn ông Tarcôpxki thì sẵn sàng nhảy vào lửa và lao xuống nước vì cô bé Nen. Sau khi kết thú c công việc hàng ngày, phút nghỉ ngơi thú vị nhất đối với họ là được trò chuyện về bọn trẻ , về việc giáo dục và về tương lai của chúng. Trong những câu chuyện đó, ông Rôlixơn thường khen ngợi năng khiếu, nghị lực và lò ng can đảm của Xtas, còn ông Tarcôpxki thì lại say sưa với khuôn mặt thiên thần ngọt ngào của Nen. Và cả hai điều ấy đều là sự thật. Tuy hơi kiêu căng và hơi khoác lác một chút, nhưng Xtas học rất giỏi và các thầy giáo ở trường học dạy tiếng Anh tại Port Xaiđơ, nơi cậu bé học, đều công nhận rằng em có những năng khiếu khác thường. Nếu nói về lòng dũng cảm và tính tháo vát thì em được thừa hưởng ở người cha, vì ông Tarcôpxki có được những đức tính ấy ở trình độ cao, và cũng chính nhờ có chúng mà ông đã vươn tới cương vị cao cấp hiện tại.

Năm 1863(4), ông đã chiến đấu suốt mười một tháng liền không ngơi nghỉ, sau đó ông bị thương, bị bắ t, rồi bị đầy đi Xibia, ông chạy trốn về Ba Lan rồi thoát ra nước ngoài. Trước khi tham gia khởi nghĩa, ông đã tốt nghiệp kĩ sư, nhưng sau đó, ông còn dành thêm một năm nữa để nghiên cứu thuỷ lực học. Rồi sau đó, ông tìm được việc làm ở kênh đào, và chỉ trong vài năm, khi người ta đã đánh giá được sự am tường công việc, nghị lực cùng tính cần cù của ông, ông được nhậ n cương vị kĩ sư trưởng cao quý ấy.

Xtas được sinh ra, nuôi dưỡng và lớn đến năm mười bốn tuổi ngay tại hải cảng Port Xaiđơ trên kênh đào, nên các kĩ sư, bạn đồng nghiệp của cha em, thường gọi em là “đứa con của sa mạc”.

Khi đang đi học, thỉnh thoảng, trong những dịp nghỉ hè hay nghỉ lễ, em lại được cùng với cha hoặc ông Rôlixơn tham gia các chuyến đi công vụ của họ từ Port Xaiđơ đến tận Xuê để kiểm tra công việc trên bờ kênh cùng việc nạo vét lòng kênh. Em quen hết thảy mọi người, từ các kĩ sư và nhân viên thuế quan, đến công nhân, những người Ả Rập và người da đen. Em “lùng sục” khắp nơi mọi chốn, tại bất cứ nơi nào đặt chân tới, và dần dần tiến hành những chuyến đi dài dọc theo bờ kênh, đi thuyền trên hồ Mendalê và nhiều lần bơi thuyền ra khá xa.Em đã từng vượt sang phía bờ Ả Rập, và nhảy đại lên lưng một con ngựa của ai đó, hoặc nếu thiếu ngựa thì lạc đà hay thậm chí cả lừa cũ ng được, đóng vai một tay kị sĩ dũng cảm của sa mạc. Tóm lại, nói như ông Tarcôpxki, em “chui rúc” khắ p mọi nơi, và hễ rảnh rỗi một chút ngoài giờ học là lại lần ngay ra bờ nước.

Người cha không ngăn cản chuyện đó, vì ông hiểu rằng, việc chèo thuyền, cưỡi ngựa và sự tiếp xúc thường xuyên với không khí trong lành sẽ củng cố thêm sức khoẻ của đứa trẻ, đồng thời phát triển tính tháo vát của nó. Xtas cao và khoẻ hơn nhiều so với những đứa trẻ cùng tuổi, và chỉ cần nhìn vào cặp mắt cậu bé cũng có thể dễ dàng đoán được rằng, nếu lâm vào một chuyện hiểm nguy nào đó thì chắc hẳn cậu bé sẽ dễ phạm sai lầm do quá hăng hái hơn là vì khiếp sợ. Mới mười bốn tuổi đầu, em đã là một trong những tay bơi lội giỏi nhất ở Port Xaiđơ, điều này không phải là chuyện xoàng,bởi dân Ả Rập và người da đen vốn bơi lội giỏi như cá. Trong khi nhả đạn vào lũ vịt trời và ngỗng trời Ai Cập bằng khẩu súng săn cỡ nhỏ, cậu bé đã rèn luyện cho mình có được cánh tay và con mắt bắn trăm phát trăm trúng. Em ước ao một ngày nào đó sẽ được đi săn các loài thú lớn ở Trung Phi, háo hức lắng nghe chuyện những người Xuđan làm thuê ở vùng kênh đào, những người này đã từng gặp thú dữ và bọn thú da dầy khổng lồ tại quê hương họ.

Điều này còn có thêm một cái lợi nữa là vừa nghe chuyện, cậu bé vừa học được ngôn ngữ của họ. Kênh đào Xuê không những chỉ đào thông là xong mà còn đòi hỏi phải thường xuyên chăm lo tu sửa, vì nếu không thì chỉ trong vòng một năm thôi, cát từ các sa mạc nằm dọc hai bờ kênh sẽ lấp biến nó đi. Cái công trình khổng lồ này của ông Lécxép(5) kéo theo một sự lao động liên tục và đòi hỏi phải thường xuyên cảnh giác. Do vậy, cho tới nay, có hàng loạt máy móc khổng lồ cùng hàng nghìn công nhân, dướ i sự giá m sát của các kĩ sư thành thạo công việc, lao động nạo nét lòng kênh. Để đào thông con kênh này đã từng phải dùng tới sức của hai mươi lăm nghìn người lao động. Giờ đây, khi công trình đã hoàn thành và lại được trang bị những máy móc hoàn thiện hơn, thì cần ít người hơn hẳn so với trước kia, song số lượng nhân công cho đến nay vẫn còn rất lớn. Trong đó, đại đa số là cư dân trong vùng, cũng không thiếu mặt dân Nubia, Xuđan, Xômali cùng nhiều dân tộc da đen khác sinh sống ở vùng sông Nin Trắ ng và sông Nin Xanh, nghĩa là trong những vùng thuộc phạm vi cai trị của chính phủ Ai Cập, trước khi nổ ra cuộc khởi loạn của Mahơđi. Xtas sống thân mật với mọi người và cũng giống như những người dân Ba Lan khác, vốn sẵn có năng khiếu ngoại ngữ, em nắm được nhiều thứ thổ ngữ của họ mà chính bản thân em cũng không rõ từ khi nào và tại làm sao nữa. Sinhtrưởng ở Ai Cập, em nói tiếng Ả Rập như một Người Ả Rập chính cống. Nhờ có những người Dandiba thường được thuê làm thợ đốt lò phục vụ các thứ máy móc, em học được tiếng Kixvahili, thứ tiếng rất phổ biến trong toàn bộ miền Trung Phi, thậm chí em có thể trò chuyện với những người da đen Đinnếch và Sinlúc sinh sống ở vùng hạ lưu sông Nin, phía dưới Phasôđa(4). Ngoài ra, em nói thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Ba Lan, vì cha em một người yêu nước nhiệt thành, rất quan tâm đến chuyện làm sao cho cậu bé nói được tiếng nói quê hương. Dĩ nhiên, Xtas coi tiếng Ba Lan là thứ ngôn ngữ hay nhất trên thế giới, và cậu bé đã dạy cho bé Nen nói tiếng Ba Lan với không ít thành công. Có điều em không làm sao dạy cho cô bé phát âm được đúng tên em là Xtas chứ không phải “Xtex”. Cũng chính vì lí do đó mà đôi khi giữa hai đứa trẻ xảy ra chuyện bất hoà, song những chuyện bất hoà đó cũng chỉ kéo dài cho tới khi cặp mắt cô bé bắt đầu long lanh những giọt lệ mà thôi. Và khi ấy, “Xtex” bèn xin lỗi, đồng thời thường tự giận mình.

Song cậu bé có một thói quen xấu là hay tỏ vẻ khinh thường khi nói về chuyện Nen mới lên tám và so sánh điều đó với tuổi tác và kinh nghiệm sống của bản thân mình. Em cho rằng một thiếu niên mười bốn tuổi, dẫu vẫn chưa hoàn toàn là người lớn, nhưng đã không còn là trẻ con nữa, và đã có khả năng thực hiện được mọi hành động anh hùng, đặc biệt là khi thiếu niên ấy mang trong mình dòng máu Ba Lan hoà dòng máu Pháp. Em khao khát một lúc nào đó sẽ có hoàn cảnh để thực hiện những hành động anh hùng như thế, nhất là để bảo vệ Nen. Cả hai thường tưởng tượng ra đủ mọi loại hiểm nguy khác nhau, và Xtas thường phải trả lời các câu hỏi của Nen xem em sẽ làm gì, nếu như nói thí dụ – một con cá sấu dài mười mét, hoặc một con bọ cạp to bằng con chó bò qua cửa sổ vào nhà cô bé. Song cả hai không một phút nào ngờ được rằng, chẳng bao lâu nữa, thực tế kinh khủng sẽ vượt xa mọi điều tưởng tượng của chúng.

——————————

1. Kênh đào Xuê là một trong những kênh đào quan trọng nhấtthế giới. Kênh ở Đông Bắc Ai Cập, nối thông Địa Trung Hải với Hồng Hải. Dài 160 km. Các hải cảng chính ở hai đầu kênh là PortXaiđơ và Xuê. Được xây dựng trong khoảng 1859-1869 dưới sự chủ trì của viện sĩ người Pháp Ph.M. Lecxép (ND)

2. Pasa (hay Basa): tước hiệu vương hầu ở các nước Trung Đông.

3. Emia: chức thủ lĩnh quân sự ở các nước Trung Đông.

4. Năm 1863, nhân dân Ba Lan khởi nghĩa chống lại sự thống trị của bọn Nga hoàng.

Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ tháng Giêng năm 1863 và kéo dài đến mùa thu năm 1864.

5. M.Lecxép (1805-1894): nhà ngoại giao và doanh nghiệp người Pháp – viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp, người tổ chức đàokênh Xuê (1859-1869). Ông cũng là người tổ chức đào kênh Panama (1879-1889) và chính vì việc này mà ông bị phá sản.

6. Phasôđa (nay là Côđốc) – thành phố ở Xuđan.

Trong bữa cơm, có một tin vui chờ đón hai đứa trẻ. Vài tuần trước đây, hai ông Tarcôpxki và Rôlixơn, với tư cách là những kĩ sư lành nghề, được mời đến xem xét và đánh giá công việc trên toàn bộ mạng kênh rạch ở tỉnh En Phaium, trong vùng lân cận thành phố Mêđinét gần hồ Carôun, cũng như vù ng dọc theo sông Duxép và sông Nin. Họ sẽ ở lại đó chừng một tháng và đã được công ti của họ cho nghỉ phép để làm việc đó. Vì lễ Thiên Chúa giáng sinh sắp tới, mà cả hai đều không muốn chia tay với bọn trẻ, nên họ quyết định rằng cả Nen lẫn Xtas sẽ đi tới Mêđinét. Nghe tin này, bọn trẻ suý t nhảy vọt lên vì vui sướng. Cho tới nay, chúng chỉ mới được biết các thành phố nằm dọc kênh đào, đó là Izmailơ và Xuê, còn ngoài vùng kênh là các thành phố Alécxanđria và Cairô. Chúng cũng đã được tham quan các kim tự tháp khổng lồ và tượng con Nhân sư ở gần thành phố Cairô. Song đó chỉ toàn là những chuyến đi ngắ n ngủi, trong khi đó, muốn tới được Mêđinét En Phaium, chúng sẽ phải ngồi tàu hoả suốt cả một ngà y trời dọc theo sông Nin về phía Nam, rồi sau đó, từ En Vaxta trở đi, rẽ về phía Tây, về phía sa mạc Libi. Xtas đã được nghe nói về thành phố Mêđinét qua câu chuyện của các kĩ sư trẻ và các du khách từng được đi tới đó để săn bắn các loài chim nước cùng chó sói sa mạc và linh cẩu. Em biết rằng đó là một ốc đảo lớn nằm ở hữu ngạn sông Nin, nhưng không chịu ảnh hưởng của các trận lụt do con sóng này gây ra, mà có thuỷ hệ riêng, được tạo nên bởi hồ Carôun, sông Bahơrơ Duxép, cùng cả một hệ thống kênh rạch nhỏ khác nữa. Những người từng thấy cái ốc đảo này đều nói rằng mặc dù vùng đất này vẫ n thuộc về Ai Cập, nhưng do bị ngăn cách bởi sa mạc, nên nó tạo thành một chỉnh thể biệt lập hoàn toàn. Chỉ có riêng dòng sông Duxép, trông giống như một sợi dây mỏng mảnh màu xanh lơ là mối liên hệ giữa vùng này với thung lũng sông Nin. Sự dồi dào về nước, độ phì nhiêu của đất và sự phong phú tuyệt vời của hệ thực vật đã khiến cho vùng này gần như trở thành một thiên đường trên mặt đất, còn những di tích trải trên một diện tích rộng lớn của thành phố Crôcôđilôpôlix thì thu hút hàng trăm du khách tới đây viếng thăm. Riêng Xtas thì chủ yếu là bị hấp dẫn bởi bờ hồ Carôun đầy các loài chim nước và những chuyến đi săn chó sói trong vùng đồi núi hoang mạc Guêben En Xêđơmên.

Nhưng mãi mấy ngày nữa bọn trẻ mới bắt đầu được nghỉ lễ, mà sự kiểm tra công việc ở vùng kênh lại khẩn cấp, khiến các ông bố không thể chờ đợi mất thì giờ, nên họ bèn sắp xế p rằng họ sẽ khởi hành ngay, còn bọn trẻ sẽ cùng với cô Oliviơ xuất phát sau một tuần lễ. Cả Nen lẫn Xtas đều muốn được cù ng đi ngay, nhưng Xtas không dám đề nghị. Cả hai liền bắt đầu hỏi han đủ mọi thứ chuyện liên quan tới chuyến đi, và chúng lại náo nức vui sướng một lần nữa khi được biết rằng, chúng sẽ không phải nghỉ ngơi trong các khách sạn thiếu thốn tiện nghi của người Hy Lạp, mà sẽ nghỉ trong những chiếc lều do Hội du lịch của Cúc(1) cung cấp. Các du khách từ Cairô đến thăm Mêđinét, thậm chí dù họ có lưu lại đó một thời gian dài đi nữa, cũng thường sống theo cách đó. Công ti Cúc cung cấp cho họ lều trại, người phục vụ, lương thực dự trữ, lừa ngựa, lạc đà cùng người dẫn đường, nên du khách chẳng hề phải lo nghĩ chuyện gì cả. Quả tình đó là một phương thức du lịch khá tốn kém, nhưng ông Tarcôpxki và ông Rôlixơn không cần phải quan tâm tới chuyện đó, vì mọi chi phí sẽ do chính phủ Ai Cập đài thọ, chính phủ này đã mời họ tới đánh giá và kiểm tra công việc tại vùng kênh, với tư cách là những chuyên gia giỏi. Cô bé Nen vốn thích cưỡi lạc đà hơn tất cả mọi chuyện khác trên đời, nên được cha hứa rằng sẽ được nhận riêng một con tuấn mã có bướu, trên đó cô bé sẽ cùng với cô Oliviơ, bà Đina, hoặc thỉnh thoảng cùng với Xtas, tham gia vào những chuyến đi chơi trong những vùng sa mạc lân cận và tới Carôun. Ông Tarcôpxki hứa với Xtas rằng sẽ cho phép em đi săn chó sói ban đêm, và nếu như em mang được chứng chỉ học tập giỏi từ trường về, thì sẽ được thưởng một khẩu súng săn Anh chính hiệu, cùng với mọi thứ đồ nghề cần thiết cho thợ săn. Vì Xtas hoàn toàn tin chắc vào kết quả học tập của bản thân, nên ngay lập tức em bắt đầu tự cho mình đã là chủ nhân của một khẩu súng săn và tự nhủ sẽ dùng khẩu súng ấy thực hiện biết bao kì công để đời đời được ghi nhớ.

Với lũ trẻ đang vui mừng, bữa ăn trôi qua trong những dự kiến và những câu chuyện như vậy. Riêng cô Oliviơ tỏ ra tương đối ít nhiệt tình nhất với chuyến đi, bởi cô ngại phải rời xa cái biệt thự đầy đủ tiện nghi ở Port Xaiđơ này; cô kinh hoàng khi nghĩ tới chuyện sẽ phải sống hàng mấy tuần trong lều, và nhất là chuyện cưỡi lạc đà. Cô đã được thưởng thức vài lần các chuyến đi kiểu ấy, điều mà bất cứ người dân châu Âu nào sống ở Ai Cập cũng đều làm thử vì tò mò. Song bao giờ các chuyến đi ấy cũng bị kết thúc chẳng mỹ mãn chút nào. Một lần, con lạc đà đứng lên sớm quá, khi cô chưa kịp ngồi vững trên bành, kết quả là cô bị tuột từ trên lưng nó xuống đất. Một lần khác, một chú lạc đà một bướu, hẳn không thuộc loại dễ khiến, đã lắc cô đến nỗi hai ngày sau cô vẫn chưa hoàn hồn. Tóm lại, nếu như Nen, sau vài chuyến được ông Rôlixơn cho phép đi như thế, cam đoan rằng trên đời này không có gì sướng hơn là việc cưỡi lạc đà, thì cô Oliviơ lại chỉ nhớ toàn những ấn tượng khó chịu mà thôi. Cô bảo rằng chuyện đó có thể là tốt đối với người Ả Rập, hoặc đối với một “cái kẹo” bé bỏng như Nen, cô bé bị lắc chẳng đáng là bao, chẳng khác nào một chú ruồi đỗ lên bướu lạc đà, song chẳng thích hợp chút nào đối với những người có tuổi, chẳng nhẹ nhàng gì, mà lại có xu hướng dễ bị say sóng. Còn nếu nói về Mêđinét En Phaium thì cô lại còn có thêm những lo lắng khác nữa. Ở Port Xaiđơ cũng như ở Alécxanđria, Cairô và trên toàn Ai Cập, người ta chẳng bàn tán gì khác hơn ngoài chuyện khởi loạn của Mahơđi và sự tàn ác của bọn phiến loạn. Cô Oliviơ không biết chính xác thành phố Mêđinét nằm ở đâu, nên cô lo ngại, không hiểu nó có nằm quá gần bọn Mahơđi hay chăng, và thế là cô bèn hỏi ông Rôlixơn điều đó.

Song ông chỉ mỉm cười và nói:

– Hiện nay Mahơđi đang bao vây thành phố Kháctum, trong đó tướng Goócđôn đang cố thủ. Cô có biết Mêđinét cách Kháctum bao xa không?

– Tôi chẳng có khái niệm gì về chuyện đó cả.

– Cũng xấp xỉ bằng từ đây tới đảo Xixin vậy, ông Tarcôpxki giải thích.

– Vâng, gần bằng. – Xtas khẳng định. – Kháctumnằm tại điểm mà sông Nin Trắng và Xanh hoà vào nhau tạo thành một dòng chung. Từ chỗ chúng ta tới đó còn cách cả một khoảng không gian mênh mông của đất Ai Cập và toàn bộ miền Nubia.

Tiếp đó em còn muốn thêm rằng dù cho Mêđinét có nằm gần vùng khởi loạn đi chăng nữa, thì đã có em tại đó với khẩu súng của mình, nhưng em chợt nhớ lại rằ ng đã nhiều lần bị cha quở mắng vì những lời huênh hoang tương tự, nên vội nín lặng.

Hai ông bố lại bắt đầu nói sang chuyện Mahơđi và cuộc khởi loạn, vì đó là vấn đề quan trọng bậc nhất có quan hệ tới Ai Cập.

Tin tức từ Kháctumđưa về rất xấu. Đã từ một tháng rưỡi nay, những bộ tộc man rợ bao vây chặt thành phố này, chính phủ Ai Cập và chính phủ Anh thì phản ứng rất chậm chạp. Mãi đến bây giờ đạo viện binh giải vây mới vừa lên đườ ng, và người ta e rằng, mặc dù có áng vinh quang, lòng can trường và năng lực của tướng Goócđôn, song thành phố quan trọng này sẽ bị lọt vào tay bọn dã man mất. Ông Tarcôpxki cũng có ý kiến như thế, ông ngờ rằng, Anh quốc thầm mong sao Mahơđi chiếm lấy Xuđan của Ai Cập để rồi sau đó họ sẽ chiếm lại miền đất này từ tay Mahơđi, và biến miền đất mênh mông này thành tài sản nước Anh. Song ông không trao đổi với ông Rôlixơn những điều nghi ngờ ấy, vì không muốn xú c phạm đến những tình cảm ái quốc của bạn.

Gần cuối bữa ăn, Xtas hỏi tại sao chính phủ Ai Cập lại chiếm cứ tất cả các nước nằm về phía NamNubia là Coócđôphan, Đácphua và Xuđan cho đến tận Anbéc Nianđa, và tước đoạt quyền tự do của dân cư những miền đất đó. Ông Rôlixơn quyết định giải thích cho cậu bé: tất cả những gì mà chính phủ Ai Cập làm đều là thực hiện theo chỉ thị củ a Anh quốc, bởi nước Anh đang nắm quyền bảo hộ Ai Cập và về thực chất thì đang thống trị nước này một cách tuỳ ý.

– Chính phủ Ai Cập không tước đoạt tự do của bất cứ một ai cả, – ông nói, – mà ngược lại, còn mang lại tự do cho hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu người. Trong thời gian gần đây, ở Coócđôphan,ở Đácphua và Xuđan không có một quốc gia độc lập nào tồn tại cả. Chỉ thảng hoặc ở nơi này nơi nọ, một tiểu thủ lĩnh nào đó dùng bạo lực áp đặt chính quyền của mình sang một miền đất khác và chiếm đoạt vùng đất ấy, không thèm để ý tới nguyện vọng của các cư dân địa phương. Còn trên đại thể, những miền này quần tụ các bộ tộc độc lập của người Ả Rập pha da đen, nghĩa là những bộ tộc mang trong mình dòng máu của cả hai chủng người đó. Các bộ tộc này luôn luôn sống trong tình trạng chiến tranh liên miên. Họ tấn công nhau, cướp của nhau ngựa,lạc đà, súc vật có sừng và trước hết là nô lệ. Đồng thời họ phạm không biết bao nhiêu điều tàn bạo. Nhưng tệ hại nhất là bọn thương gia săn ngà voi và săn nô lệ. Chúng gần như tạo thành một giai cấp riêng biệt, bao gồm hầu hết các tộc trưởng và những thương nhân giàu có.

Chúng tiến hành những cuộc săn lùng có vũ trang vào sâu trong lục địa Phi châu, cướp đi ngà voi và bắt sống hàng nghìn người, cả đàn ông, đàn bà, trẻ con. Chúng triệt phá các làng mạ c và trại ấp, phá hoại đồng ruộng, khiến máu chảy thành sông và giết hại không thương tiếc tất cả những ai muốn chống cự lại. Nhiều vùng ở miền nam Xuđan, Đácphua và Coócđôphan cũng như vùng thượng nguồn sông Nin cho tới tận hồ lớn, không còn một bóng người. Song bọn cướp Ả Rập này mỗi ngày tiến thêm một xa, đến nỗi cả vùng Trung Phi trở thành vùng đất của máu và nước mắt.

Anh quốc, như cháu biết, vốn săn đuổi bọn thương nhân buôn bán nô lệ trên toàn thế giới, bèn đồng ý để chính phủ Ai Cập chiếm Coócđôphan, Đácphua và Xuđan, đó là cách duy nhất buộc lũ cướp phải từ bỏ cuộc buôn bán bẩn thỉu ấy đi, là cách duy nhất để giữ chúng trong vòng kiềm toả. Những người da đen bất hạnh thở phào nhẹ nhõm, những cuộc tấn công ăn cướp lắng dần, và người ta bắt đầu được sống có luật lệ. Dĩ nhiên tình hình ấy khiến bọn lái buôn không thoả mãn. Vậy nên, khi mà trong số chúng nó có tên Môhamét Áchmét, bây giờ được gọi là Mahơđi, tên này bắt đầu kêu gào phát động một cuộc chiến tranh tôn giáo về hình thức, lấy cớ rằng tại Ai Cập lòng tin vào đức Môhamét đang bị suy giảm, thì tất cả bọn chúng đều cầm lấy vũ khí. Và thế là bùng nổ cuộc chiến tranh khủng khiếp này, cuộc chiến tranh mà cho tới nay rất bất lợi cho người Ai Cập. Trong tất cả các trận chiến đấu, Mahơđi đều đánh bại quân chính phủ, chiếm Coócđôphan, Đácphua, Xuđan; hiện nay, các bộ tộc của hắn đang vây hãm Kháctum và tiến về phía Bắc tới tận biên giới Nubia.

– Nhưng liệu hắn có tiến được tới Ai Cập không ạ? – Xtas hỏi.

– Không, – ông Rôlixơn trả lời, – Mahơđi quả có nói rằng, hắn sẽ đánh chiếm toàn thế giới, song đó chỉ là một con người mông muội, không hiểu gì cả. Hắn sẽ không bao giờ chiếm được Ai Cập vì Anh quốc không khi nào cho phép chuyện đó xảy ra.

– Thế nếu như quân đội Ai Cập hoàn toàn tan rã thì sao?

– Khi đó quân đội Anh sẽ thay, mà quân đội Anhthì chưa từng có ai thắng nổi bao giờ.

– Thế tại sao người Anh lại cho phép Mahơđichiếm ngần ấy nước?

– Sao cháu biết là Anh quốc cho phép? – ÔngRôlixơn nói. – Anh quốc chẳng bao giờ phải vội vã cả, bởi Anh quốc là quốc gia vĩnh cửu.

Câu chuyện bị gián đoạn bởi một người đầy tớ da đen vào báo rằng mụ Phátma Xmainơ tới và cầu xin được vào gặp.

Phụ nữ phương Đông thường chỉ chăm lo việc nội trợ và rất ít khi rời khỏi “buồng the”. Chỉ những người nghèo mới ra chợ hoặc đi làm đồng, thí dụ như vợ của các fellach, tức là những nông dân Ai Cập, nhưng cả những người này cũng che mặt khi ra đường.

Mặc dù mụ Phátma gốc người Xuđan, tại đó người ta không theo phong tục này, hơn nữa, trước đây cũng đã từng có lần mụ tới văn phòng ông Rôlixơn rồi, xong việc mụ đến đây, nhất là vào lúc đêm hôm thế này và lại tới nhà riêng, cũng gây nên một sự ngạc nhiên.

– Chúng ta sẽ được biết điều mới về gã Xmainơđây, – ông Tarcôpxki nói.

– Phải, – ông Rôlixơn đáp lại, đồng thời đưa tay ra hiệu cho người hầu dẫn mụ Phátma vào.

Lát sau một phụ nữ Xuđan còn trẻ, người cao dong dỏng, mặt hoàn toàn không che mạ ng, với nước da rất sẫm màu, cặp mắt tuyệt đẹp, tuy hơi man dại và dữ tợn, bước vào. Vừa vào, mụ đã sụp mặt xuống đất, và khi ông Rôlixơn bảo mụ đứng dậy thì mụ chỉ ngẩng mặt lên nhưng vẫn tiếp tục quỳ.

– Thưa ngài, – mụ nói, – cầu đức Ala ban phúc cho ngài, cho con cháu của ngài, ngôi nhà của ngài và súc vật của ngài.

– Chị muốn gì? – Người kĩ sư hỏi.

– Thưa ngài, con cầ u xin lòng từ thiện, sự cứu giúp trong cơn hoạn nạn. Con hiện đang bị giam giữ ở Port Xaiđơ, mà cái chết đang treo lơ lửng trên đầu con và các con của con.

– Chị nói là chị bị giam, thế mà chị lại có thể đi tới đây, thêm nữa lại vào ban đêm!

– Thưa, cảnh sát áp tải con tới đây, cảnh sát canh giữ nhà con cả ngày lẫn đêm, và con biết rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ được lệnh chặt đầu chúng con.

– Chị hãy nói cho ra dáng một người đàn bà chín chắn xem nào, – ông Rôlixơn nhún vai đáp, – không phải chị đang ở Xuđan mà là Ai Cập, nơi người ta không giết một ai thiếu quyết định của toà án, vì vậy chị có thể tin chắc rằng, không một sợi tóc nào của chị cũng như của các con chị rơi khỏi đầu đâu.

Song mụ ta bắt đầu van xin ông hãy một lần nữa bênh vực mụ ta, xin chính phủ cho phép mụ đi đến với lão Xmainơ. Mụ nói:

“Những ông lớn ngườ i Anh vĩ đại như ngài có thể làm được mọi chuyện, thưa ngài. Chính phủ ở Cairô nghĩ rằng ông Xmainơ phản bội, nhưng điều đó không đúng một chút nào hết! Hôm qua có các thương nhân Ả Rập đến chỗ con, họ từ Xuakim tới, trước đó họ mua nhựa cây và ngà voi ở Xuđan, họ báo cho con hay rằng ông Xmainơ đang bị ốm nằm tại En Phasenrơ và gọi con cùng các cháu tới đó để ban phước cho các cháu…” – Tất cả chỉ là chuyện bịa đặt của nhà chị, chị Phátma, – ông Rôlixơn ngắt lời.

Mụ ta bắt đầu thề với đức Ala là mụ nói sự thật, rồi tiếp đó mụ nói rằng, nếu như Xmainơ khoẻ lại thì chắc chắn trăm phần trăm là ông ta sẽ chuộc lại tất cả các tù binh Thiên Chúa giáo, còn nếu như ông ta có qua đời đi chăng nữa, thì chính mụ, người họ hàng ruột thịt của thủ lĩnh các tín đồ đạo Hồi, cũng sẽ dễ dàng tìm được cách đến gặp y và sẽ làm được bất cứ điều gì mụ muố n. Chỉ cần người ta cho phép mụ được đi, vì trái tim trong lồng ngực của mụ đang kêu rên bởi nỗi nhớ thương chồng. Mụ ta, một người phụ nữ bất hạnh, có làm gì nên tội với chính phủ và với phó vương cơ chứ?Chuyện đó có phải là lỗi của mụ đâu, và liệu mụ có thể nào chịu trách nhiệm trong chuyện chẳng may mụ là bà con với thầy cả đạo Hồi Môhamét Achmét?

Mụ Phátma, do sự có mặt của “những người Anh”, không dám gọi người bà con ruột thịt của mình bằng cái tên Mahơđi, vì tên đó có nghĩa là: “người chuộc tội cho thế gian”, bởi mụ biết rõ rằng, chính phủ Ai Cập coi hắn ta là một tên phiến loạn và kẻ chuyên lừa đảo. Song mụ cứ đập đầu xuống đất và vừa cầu khẩn trời cao đất dầy minh chứng cho sự vô tội cùng nỗi bất hạnh của mụ, vừa kêu khóc một cách thảm thương, như kiểu các phụ nữ phương Đông thường kêu khóc khi bị mất chồng hay con trai vậy.

Rồi mụ lại úp mặt xuống đất – nói đúng hơn là xuống tấm thảm lót sàn nhà – và im lặng chờ đợi.

Cuối bữa ăn, Nen muốn chợp mắt chút đỉnh, nhưng giờ đây cô bé tỉnh táo hoàn toàn. và vì vốn có trái tim giàu thương cảm, nên cô bé nắm lấy tay cha, vừa hôn vừa cầu xin cho mụ Phátma:

– Cha ơi, cha giúp bà ta đi cha! Giúp bà ta đi cha!

Còn mụ Phátma, hẳn là biết tiếng Anh, nên vừa nứ c nở, vừa nói, mặt vẫn không rời khỏi tấm thảm:

– Cầu đứ c Ala ban phước cho cô, hỡi đoá hoa thiên đường bé nhỏ, hỡi niềm hoan lạc của Omai, hỡi vì sao trong sáng.

Còn Xtas, mặc dù trong lòng rất căm tức bọn Mahơđi, nhưng em cũng xúc động bởi lời cầu xin và sự đau đớn của mụ Phát ma.

Hơn nữa vì Nen bênh vực mụ ta, mà em thì nói cho cùng, bao giờ cũng muốn những gì Nen muốn thực hiện, nên một lúc sau em cất tiếng nói khẽ như tự nhủ, nhưng cũng đủ để cho mọi người nghe thấy:

– Nếu mình là chính phủ, mình sẽ cho phép mụ Phátma ra đi.

– Nhưng vì con không phải là chính phủ, – ông Tarcôpxki đáp, – nên tốt nhất là con đừng có can thiệp vào những chuyện không thuộc về con.

Ông Rôlixơn cũng có tâm hồn giàu trắc ẩn và ông cũng thấu hiểu tình cảm của mụ Phátma, nhưng trong những lời của mụ ta có nhiều điều mà theo ông toàn là chuyện dối trá. Vì hàng ngày ông có quan hệ với sở thuế quan ở Idơmailơ, nên ông biết chắc chắn rằng, không có một số hàng hoá nào là nhựa cây và ngà voi được chở qua kênh trong thời gian vừa rồi. Việc buôn bán những mặt hàng này gần như hoàn toàn bị đình lại. Vả chăng, các thương nhân Ả Rập cũng không thể nào trở về từ thành phố En Phaserơ nằm trên đất Xuđan, vì nói chung bọn Mahơđi ngay từ đầu đã không cho phép các thương nhân giao lưu với chúng, còn những kẻ nào bị chúng tóm được, thì đều bị cướp sạch và bị giữ lại làm tù binh cả. Chính vì thế, chắc chắn câu chuyện về bệnh tình của Xmainơ cũng là một điều bịa đặt mà thôi.

Song vì đôi mắt Nen vẫn đang nhìn cha đầy vẻ van xin, nên không muốn làm con buồn, ông bảo mụ Phátma:

– Này chị Phátma, ta đã viết thư gửi chính phủ theo lời khẩn cầu của chị, nhưng không có kết quả. Còn bây giờ thì chị nghe đây.

Sáng mai, cùng với ngài kĩ sư đây, ta sẽ đi Mêđinét En Phaium, dọc đường chúng ta sẽ lưu lại Cairô một ngày, vì khêđíp muốn bàn bạc với chúng ta về các kênh tiêu nước từ sông Bahơrơ Duxép và sẽ cho chúng ta chỉ thị về những con kênh đó. Trong khi bàn bạc, ta sẽ cố gắng trình bày với ngài chuyện của nhà chị và cố gắng xin ngài ban cho chị đặc ân. Nhưng ta không thể làm được điều gì hơn nữa và ta cũng không thể hứa hẹn một điều gì hết.

Mụ Phátma nhổ m ngay dậy và vừa đưa hai tay ra dấu cảm ơn vừa bật kêu lên:

– Vậy là con đã được cứu sống!- Không đâu, chị Phátma, – ông Rôlixơn đáp, nhà chị đừng nói chuyện cứu mạng, vì như ta đã nói với chị, cái chết không hề đe doạ chị lẫn các con chị. Còn liệu khêđíp có đồng ý cho chị ra đi hay không thì ta không dám chắc, bởi vì Xmainơ không ốm mà hắn là một tên phản bội, đã lấy tiền của chính phủ, hoàn toàn không nghĩ gì đến việc chuộc các tù binh khỏi tay Môhamét Achmét cả.

– Ông Xmainơ là người vô tội, thưa ngài, hiện ông ấy đang nằm ở En Phaserơ, – mụ Phátma lặp lại, – còn nếu như ông ta có bội tín với chính phủ đi nữa, thì con xin thề với ngài, ông chủ đáng kính của con, rằng nếu như người ta cho phép con ra đi, thì con sẽ khẩn cầu Môhamét Achmét cho đến khi nào xin tha hết tù binh của các ngài mới thôi.

– Thôi được rồi. Ta hứa với chị một lần nữa là ta sẽ gặp khêđíp để xin cho chị. Mụ Phátma bắt đầu vái lia lịa.

– Xin đa tạ người, thưa xidi. Ngài thật quả là người vừa nhiều quyền thế vừa công minh chính đại. Còn bây giờ con cầu xin ngài một điều nữ a là hãy cho chúng con được hầu hạ ngài như nô lệ vậy.

– Ở Ai Cập không một ai có thể là nô lệ cả, – ông ôlixơn mỉm cười đáp lại. – Ta có đủ gia nhân rồi, vả chăng ta cũng không thể sử dụng sự hầu hạ của chị vì rằng, như ta đã nói với chị, tất cả chúng ta đây sẽ rời đi Mêđinét, và có thể chúng ta sẽ ở lại đó cho đến tận ngày lễ ramadan(2).

– Con biết, thưa ngài, vì ông quản gia Khađigi đã nói với con, còn con, biết tin ấy, con đến đây không những chỉ để cầu xin ngài giúp đỡ, mà còn để thưa với ngài rằng, hai người cùng bộ tộc Dangan với con là Iđrix và Ghebơrơ, hiện đang là những chủ lạc đà tại Mêđinét, và họ sẽ rập trán trước ngài khi ngài đến đó cốt để xin ngài ra lệnh cho họ và lạc đà của họ được hầu hạ các ngài.

– Được rồ i, được rồi, – ông giám đốc nói, – nhưng đó là việc của công ti Cúc chứ đâu phải là việc của ta.

Sau khi hôn tay hai kĩ sư và bọn trẻ, mụ Phátma lui ra ngoài, vừa lui vừa cầu phước, nhất là cho cô bé Nen. Cả hai ông bố cùng im lặng một lát, rồi ông Rôlixơn cất tiếng:

– Một người đàn bà đáng thương… nhưng mụ ta nói dối như cuội vậy, thậm chí trong những lời cảm ơn cũng toát lên cái ý không có quyền giữ mụ ta ở Ai Cập, vì mụ ta không thể chịu trách nhiệm thay cho chồng được.

– Hiện nay chính phủ không cho phép một ai trong số dân Xuđan đi Xuakim không có giấy phép, cũng như đi Nubia, nghĩa là lệnh cấm đó không chỉ riêng cho mụ Phátma. Ở Ai Cập hiện có rất nhiều người vốn tìm tới đây để kiếm sống, trong đó có một nhóm người thuộc bộ tộc Dangan, nghĩa là bộ tộc của chính Mahơđi. Thí dụ, ngoài mụ Phátma ra, còn có Khađigi và hai gã chủ lạc đà ở Mêđinét cũng thuộc bộ tộc này. Bọn Mahơđi gọi người Ai Cập là dân Thổ và tiến hành chiến tranh chống lại họ,nhưng trong số những người Ả Rập tại đây cũng có khối môn đệ của Mahơđi, những kẻ sẵn lòng bỏ trốn đến với hắn. Cần phải gộp vào bọn này tất cả những kẻ cuồng đạo, tất cả những kẻ ủng hộ pasa Ả Rập ngày trước, cùng nhiều kẻ trong các tầng lớp nghèo khổ nhất. Họ trách chính phủ đã hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Anh, và cho rằng điều đó xúc phạm tới tôn giáo. Chỉ có Chúa mới biết rõ bao nhiêu kẻ đã chạy trốn bằng cách vượt qua sa mạc, bỏ qua con đường biển thông thường tới Xuakim; do vậy, khi chính phủ biết được rằng mụ Phátma cũng muốn chuồn, họ bèn ra lệnh canh giữ mụ ta. Qua mụ ta và các con của mụ, những người ruột thịt với Mahơđi, rất có thể sẽ chuộc lại được tù binh.

– Liệu có đúng là những tầng lớp nghèo khổ nhất ở Ai Cập ủng hộ Mahơđi hay chăng?

– Mahơđi có đệ tử ngay cả trong quân đội, có thể chính vì vậy mà quân chính phủ đánh nhau kém đến thế.

– Nhưng bằng cách nào những người Xuđan có thể trốn qua sa mạc được nhỉ? Hàng nghìn dặm đường cơ mà?

– Ấy thế mà chính bằng con đường ấy người ta đưa nô lệ tới Ai Cập đấy.

– Tôi e rằng bọn trẻ con của mụ Phátma không chịu đựng nổi một cuộc hành trình như thế.

– Mụ ta cũng muốn rút ngắn bớt đường đi bằng cách đi theo đường biển tới Xuakim đấy thôi.

– Dù sao thì cũng là một người đàn bà tội nghiệp…

Câu chuyện kết thúc ở đó.

Nhưng mười hai giờ sau đó, mụ “đàn bà tội nghiệp” ấy, sau khi đã đóng thật kín cửa nhà, bắt đầu thì thầm với con trai của tên quản gia Khađigi, cặp lông mày nhíu lại, đôi mắt đẹp ánh lên thật ảm đạm.

– Hỡi Khamix, con trai của Khađigi, đây là tiền. Ngay hôm nay, người hãy đi Mêđinét và giao cho Iđrix bức thư này, bức thư mà thầy cả Benlali thánh thiện đã thảo gửi cho hắn theo lời yêu cầu của ta… Bọn trẻ của các kĩ sư ấy tốt bụng đấy, song nếu như ta không được phép ra đi thì không cò n cách nào khác. Ta biết là ngươi không phản ta… Hãy nhớ rằng, ngươi và cha ngươi đều sinh ra từ bộ tộc Dangan, bộ tộc đã sản sinh ra đức Mahơđi vĩ đại.

————-

1. Cúc: tên một công ti tư bản lớn ở nước ngoài.

2. Lễ ramadan: lễ của người Hồi giáo, bắt đầu từ tháng hai cho đến hết tháng ba.

Thư Mục Truyện

TRUYỆN MỚI

TRUYỆN ĐỀ CỬ